Những bài cùng tác giả
Truyền thống hiếu học của nhân dân ta thật quý giá. Không phải có nhiều nước
mà hầu hết học sinh đều muốn học tiếp đại học, cao đẳng (ĐHCĐ) và các phụ
huynh cũng đều muốn như vậy. Nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng yêu
cầu cần có tỷ lệ sinh viên/ 1 vạn dân không thấp hơn nhiều so với các nước
khác.
Thành tích xây dựng hệ thống các trường ĐHCĐ ở nước ta là rất lớn. Không dễ
gì có tới 62/63 tỉnh thành đã có trường ĐHCĐ, đấy là một cố gắng đáng kể với
con số 180 trường Đại học, 232 trường Cao đẳng và 28 trường thuộc các ngành
Quốc phòng an ninh và với tổng số sinh viên ĐHCĐ niên học 2008-2009 lên đến
trên 1,7 triệu. Nhưng về chất lượng đào tạo thì quả thật là có quá nhiều
vấn đề cần bàn. Trường
học:
Hiện nay có tới 15/87 các trường ngoài
công lập chưa xây dựng được trường theo địa điểm đã đăng ký. Thậm chí có
trường mở trong các hốc trống của sân vận động (!) Vậy mỗi lần có trận bóng
đá thì sinh viên ngồi nhà hay sao? Có trường thuê mướn rất nhiều cơ sở ở khá
phân tán trong thành phố. Các trường tập trung quá nhiều ở khu vực đồng bằng
sông Hồng. Đây là nơi có trên 18 triệu dân nhưng số sinh viên trên/1vạn dân
là 393 sinh viên, trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long với dân số cũng tới
trên 17 triệu dân thì chỉ có 75 sinh viên/ 1 vạn dân. Cần tăng cả về số
lượng lẫn chất lượng các trường Dự bị đại học để nhanh chóng đào tạo cán bộ
giỏi cho đồng bào ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Các hình thức đào tạo
từ xa, đào tạo chuyên tu, tại chức có thể kéo dài thời gian hơn đào tạo
chính quy và cần thi cử thật nghiêm túc để sớm xóa bỏ thành kiến Dốt như
Chuyên tu, Ngu như Tại chức. Cần có chính sách ưu đãi đặc biệt cho các
giảng viên có trình độ Sau đại học yên tâm công tác ở các tỉnh còn gặp nhiều
khó khăn về đời sống vật chất và tinh thần. Các trường ĐHCĐ phải đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vậy mà nhẽ nào tỷ lệ ngành khoa
học tự nhiên chỉ có 2%, tỷ lệ ngành nông lâm nghiệp chỉ có 8%, trong khi các
ngành dễ đào tạo và không cần đầu tư phòng thí nghiệm như khoa học xã hội
nhân văn và pháp lý lại chiếm đến 38% (!)
Lớp học:
Hiện nay đâu phải lớp nào cũng ra lớp. Ở nước ngoài ngay trường phổ thông
nhiều nơi cũng có máy chiếu (projector) để học sinh được thừa hưởng các
thành tựu của công nghệ thông tin. Vậy mà liệu có bao nhiêu % số lớp ở các
trường ĐHCĐ ở nước ta có máy chiếu. Cũng có nghĩa là sinh viên không được
nghe giảng trên các mô hình, bảng biểu, hình vẽ mà mọi giáo trình hiện đại
bắt buộc phải có. Số máy tính cho sinh viên đâu có nhiều, vậy mà ngay số
lượng giáo trình điện tử còn rất ít (1830 giáo trình) nhưng bao nhiêu sinh
viên có thể sử dụng ? Hơn nữa những giáo trình này đã có cơ quan nào thẩm
định về chất lượng chưa? Hiện tượng Thầy đọc Trò chép như một trường
phổ thông đang còn rất phổ biến. Điều này đâu có thấy ở các trường ĐHCĐ , kể
cả ở các trường phổ thông trên thế giới. Thầy giáo:
Thầy là vấn đề bức xúc nhất hiện nay của hệ thống các trường ĐHCĐ.
Hiện tượng Cơm chấm Cơm là không thể chấp nhận được. Trong khi giai
đoạn 1987-2009 số sinh viên cả nước tăng 13 lần nhưng số giảng viên chỉ tăng
có 3 lần mà thôi. Hiện nay trong số 61190 giảng viên các trường ĐHCĐ chỉ có
6127 người là Tiến sĩ, 24 831 người là Thạc sĩ. Còn tới 40,6% giảng viên các
trường ĐHCĐ chỉ là sinh viên chỉ tốt nghiệp Đại học (!). Trong số 61190
giảng viên chỉ có 2286 giáo sư và Phó giáo sư, chiếm tỷ lệ 3,74%, lại thường
là các thầy cô cao tuổi, phần lớn đã về hưu , đã tách rời hoàn toàn với
nghiên cứu và cập nhật các kiến thức mới. Đến hôm nay mà nhiều thầy vẫn lên
lớp chay, nghĩa là không có giáo trình, thậm chí vẫn còn dùng các giáo trình
cách đây vài chục năm của Liên Xô cũ (!). Chúng ta là một nước nghèo vậy mà
lại tách rời các trường ĐHCĐ với các Viện, các Trung tâm nghiên cứu khoa
học. Đó là một chuyện khác hẳn so với các nước khác và gây nên hiện tượng
lãng phí rất lớn, rất phi lý.
Chúng ta nên biết hiện nay Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam có tới 25 Viện nghiên cứu quốc gia với 2 464
cán bộ khoa học, trong đó có tới 207 giáo sư, phó giáo sư, 673 tiến sĩ và
538 thạc sĩ . Viện Khoa học Xã hội Việt Nam hiện có tới 31 Viện nghiên cứu
quốc gia với 1 500 cán bộ khoa học, trong đó có tới 600 cán bộ có trình độ
trên Đại học. Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam hiện có trên 10 Viện nghiên
cứu quốc gia với 1 770 cán bộ khoa học, trong đó có 25 giáo sư, phó giáo sư,
144 tiến sĩ và 277 thạc sĩ. Ngoài ra trực thuộc Liên hiệp các Hội KHKT Việt
Nam cũng còn có tới 500 đơn vị nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
với số lượng rất đông các nhà nghiên cứu có trình độ Trên đại học. Nhiều
trường khi đăng ký thì có một danh sách rất dài các giáo sư, tiến sĩ nhưng
khi khai giảng thì mới biết đó chỉ là danh sách ma mà Bộ GD&ĐT đã
không hề thực hiện việc hậu kiểm để xử lý kỷ luật một cách nghiêm minh. Học trò:
Cũng là chuyện đang rất đáng bàn. Đầu vào quá thấp thì làm sao
tiếp thu được kiến thức tương xứng với bậc học ĐHCĐ. Có trường ĐHCĐ lấy đầu
vào cả những sinh viên chỉ có 13-14 điểm cho 3 môn thi, với sinh viên thuộc
diện ưu tiên có khi chỉ cần có điểm thi 9-10 điểm cho cả 3 môn thi (!) .
Không có nước nào mà vào Đại học mới học ngoại ngữ lại từ đầu, do đó tốt
nghiệp Đại học, thậm chí tốt nghiệp Sau đại học mà chưa thông thạo bất kỳ
một ngoại ngữ nào. Việc
bắt buộc chỉ lấy Anh ngữ làm tiêu chuẩn bắt buộc khi tuyển sinh Thạc sĩ,
Tiến sĩ là chưa hợp lý với một số ngành, như Đông y chẳng hạn, và càng không
hợp lý khi nước ta đang đảm nhiệm vai trò Phó Chủ tịch Liên minh các Nghị
viện Pháp ngữ, vậy mà xóa bỏ tiếng Pháp thì thật là khó hiểu. Nước Nga cũng
vẫn đang là một cường quốc về khoa học và công nghệ lại đang cấp không ít
học bổng Sau đại học cho sinh viên ta, nhẽ nào cũng loại bỏ nốt cả Nga ngữ?
Việc phân ban ở bậc phổ thông không thực sự phân hóa đã làm hạ thấp đầu vào
của sinh viên các trường ĐHCĐ. Điều này chúng ta thua kém so với cả một nước
rất nhiều như Nepal. Hai lớp 11 và 12 mỗi phân ban họ chỉ cho học có 4 môn
cho nên có trình độ rất cao mà không cần học thêm gì cả. Việc cho học sinh
vay tiền để có điều kiện theo học ĐHCĐ là một chủ trương rất tốt, nhưng sau
khi ra trường phải chạy một khoản tiền lớn mới xin được việc làm, kể
cả việc làm trái chuyên môn, thì phụ huynh còn kiếm đâu ra tiền để trả nợ
cho ngân hàng?
Một anh bạn tôi có cháu sắp thi ĐHCĐ đã bảo với cháu rằng: “Chọn trường nào
dễ vào thì thi, cứ học đại đi, ra trường có đủ tiền hay không để xin
việc mới là chuyện quan trọng”. Nghe mà buồn quá!
Phê phán bao giờ cũng dễ nhưng để có Trường cho ra Trường, Lớp
cho ra Lớp, Thầy
cho ra
Thầy, Trò cho
ra Trò thì quả là đâu có dễ. Tôi xin hiến một kế như sau: Em nào
muốn học Đại học mà ta chưa có điều kiện mở Trường đạt chuẩn hay mở Ngành
thích hợp với nhu cầu của đất nước thì cứ cho các em học Ngoại ngữ. Với sự
bùng nổ thông tin như hiện nay thì ai giỏi một ngoại ngữ nào đều có thể tự
học để có được một nghề phục vụ tốt cho nhu cầu của xã hội. Hàng vạn cử nhân
ngoại ngữ đâu có thừa trong thời đại hội nhập quốc tế như hiện nay!
|