Sử dụng trí thức Việt kiều để xây dựng giáo dục đại học chất lượng cao tại Việt Nam: Một đề án |
Vietsciences- Hồ Tú Bảo, Trần Nam Bình, Trần Hữu Dũng, Trần Văn Thọ, Hà Dương Tường, Vũ Quang Việt 12/01/2007 |
Đề án này được sáu nhà trí thức Việt Nam (ở Mỹ, Pháp, Nhật, Úc) chung sức soạn thảo trong hơn 3 tháng trời (với gần 3000 email qua lại), đã chính thức đăng trên Thời Đại Mới, số 9, tháng 11/2006 http://www.thoidai.org/ThoiDai9/200609_DeAnDaiHoc.htm Vietsciences
Hồ Tú
Bảo
Trần Nam Bình
Trần Hữu Dũng*
Trần Văn Thọ
Hà Dương Tường
Vũ Quang Việt*
thd@viet-studies.org)
Trên đây là ước lượng tối thiểu. Tổng chi hàng năm có thể tính tăng khoảng 5% một năm với dự trù lạm phát.
Phụ lục 2
|
Năm → |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
Giả thiết tỷ lệ bỏ học |
Tuyển sinh thạc sĩ |
200 |
180 |
|
200 |
180 |
|
200 |
180 |
|
200 |
|
|
|
200 |
180 |
|
200 |
180 |
|
200 |
180 |
|
|
|
|
|
200 |
180 |
|
200 |
180 |
|
200 |
180 |
|
Sinh viên thạc sĩ |
200 |
380 |
380 |
380 |
380 |
380 |
380 |
380 |
380 |
380 |
|
Tuyển sinh tiến sĩ |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lấy từ trong trường |
0 |
0 |
0 |
0 |
0 |
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
Mỗi năm 10% |
Lấy từ ngoài |
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
|
|
|
0 |
0 |
0 |
0 |
0 |
30 |
27 |
24 |
21 |
|
|
|
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
30 |
27 |
24 |
21 |
|
|
|
|
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
30 |
27 |
24 |
|
|
|
|
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
30 |
27 |
24 |
|
|
|
|
|
30 |
27 |
24 |
21 |
|
30 |
27 |
|
|
|
|
|
30 |
27 |
24 |
21 |
|
30 |
27 |
|
|
|
|
|
|
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
30 |
|
|
|
|
|
|
30 |
27 |
24 |
21 |
18 |
30 |
|
Sinh viên tiến sĩ |
30 |
57 |
111 |
159 |
201 |
222 |
240 |
204 |
240 |
240 |
|
Tổng số sinh viên sau cử nhân |
230 |
437 |
491 |
539 |
581 |
602 |
620 |
584 |
620 |
620 |
|
Tuyến sinh cử nhân |
|
|
350 |
315 |
315 |
315 |
350 |
315 |
315 |
315 |
10% sau năm thứ nhất |
|
|
|
|
350 |
315 |
315 |
315 |
350 |
315 |
315 |
|
|
|
|
|
|
350 |
315 |
315 |
315 |
350 |
315 |
|
|
|
|
|
|
|
350 |
315 |
315 |
315 |
350 |
|
Tổng số sinh viên cử nhân |
0 |
0 |
350 |
665 |
980 |
1.295 |
1.295 |
1.295 |
1.295 |
1.295 |
|
Tổng số sinh viên |
230 |
437 |
841 |
1.204 |
1.561 |
1.897 |
1.915 |
1.879 |
1.915 |
1.915 |
|
Số giáo sư cần |
15 |
29 |
56 |
80 |
104 |
126 |
128 |
125 |
128 |
128 |
|
Chi phí thường xuyên hàng năm (triệu USD) |
0,59 |
1,11 |
2,14 |
3,07 |
3,98 |
4,84 |
4,88 |
4,79 |
4,88 |
4,88 |
|
Vốn đầu tư (triệu USD) |
10 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hội đồng Khoa học: Tham mưu và cố vấn trong các định hướng giảng dạy, nghiên cứu và phát triển nghiên cứu. Xét duyệt các ứng viên vào các chức vụ giáo sư và đề nghị danh sách lên Viện trưởng quyết định.
Giáo sư là yếu
tố cơ bản tạo nên chất lượng đại học do đó chương trình tuyển chọn
giáo sư là điều cần được thiết kế và thực hiện bài bản với chất lượng
là điều kiện hàng đầu. Dưới đây là một số ý kiến về việc tuyển chọn
giáo sư.
Ban giảng huấn
của trường sẽ gồm một bộ phận cơ hữu và một bộ phận khác gồm những
giáo sư thỉnh giảng và các giảng viên trẻ, chưa khẳng định được chỗ
đứng lâu dài trong trường.
1. Bộ phận cơ
hữu trong ban giảng huấn gồm những người có trình độ tiến sĩ hay tương
đương trở lên, được Viện trưởng bổ nhiệm theo đề nghị của Hội đồng
khoa học. Hội đồng này có nhiệm vụ xét duyệt lý lịch khoa học và thực
hiện các cuộc phỏng vấn các ứng viên. Chức vụ của họ gọi chung là giáo
sư, tuy sẽ gồm ba ngạch “Giáo sư thực thụ” (full professor), gọi tắt
là “Giáo sư” (GS), “Phó giáo sư” (PGS) (associate professor) và “Giảng
sư” (assistant professor).
(a) GS và PGS
đều phải có ít nhất 5 công trình khoa học sau luận án tiến sĩ được
đăng trong những tạp chí khoa học có uy tín quốc tế, có kinh nghiệm
giảng dạy. Cả hai được đề nghị hợp đồng kéo dài 10 năm (có thể gia
hạn). Những người được tuyển vào hai chức vụ này chỉ khác nhau trong
uy tín khoa học và kinh nghiệm nghiên cứu, giảng dạy, nhưng có những
trách nhiệm khác nhau rất ít. Cả hai đều có quyền và nhiệm vụ hướng
dẫn nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ, và đều có thể được bầu vào
Hội đồng Khoa học và các Hội đồng Khoa trong trường. Tuy nhiên, Khoa
trưởng phải là một GS.
Một phó
giáo sư trong suốt thời hạn 10 năm của hợp đồng, cuối mỗi năm có thể
ứng cử vào chức vụ giáo sư nếu tự xét mình đủ khả năng. Quyết định
cuối cùng thuộc về Viện trưởng, sau khi đã qua sự xét duyệt của Hội
đồng Khoa học.
(b) Giảng sư là
những tiến sĩ vừa tốt nghiệp, có luận án được đánh giá cao, chứng tỏ
khả năng nghiên cứu. Hợp đồng đầu tiên của họ có thời hạn 5 năm. Giảng
sư có quyền và nhiệm vụ hướng dẫn luận văn tốt nghiệp thạc sĩ môn mình
giảng dạy. Họ cũng có quyền tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh cấp
tiến sĩ, chung với một giáo sư hay phó giáo sư. Nếu chứng tỏ khả năng
xuất sắc, người giảng sư không cần đợi hết thời hạn 5 năm này để ứng
cử vào một chức vụ phó giáo sư. Sau thời hạn 5 năm đầu, nếu chưa thể
được bổ nhiệm làm phó giáo sư, hợp đồng giảng sư có thể được gia hạn,
mỗi lần gia hạn là một nhiệm kỳ 3 năm.
Công việc chính
của các giáo sư là giảng dạy và nghiên cứu tại trường. Số giờ lên lớp
hàng tuần của các giáo sư do Hội đồng Quản trị quyết định, không dưới
6 giờ và không trên 12 giờ, bao gồm giờ giảng bài và giờ hướng dẫn các
seminar nghiên cứu. Ngoài giờ lên lớp, các giáo sư phải có mặt trong
phòng làm việc hay phòng thí nghiệm của mình ít nhất 20 giờ một tuần.
Các giáo sư có quyền làm thêm nơi khác trong các cương vị cố vấn khoa
học kỹ thuật của doanh nghiệp hay của một cơ quan chính phủ, hoặc
thỉnh giảng tại một đại học khác không quá 3 giờ/tuần. Những việc làm
thêm này phải được Viện trưởng cho phép.
(a) Giáo sư
thỉnh giảng (visiting professor): là các giáo sư, phó giáo sư, giảng
sư ở một trường đại học khác, trong hay ngoài nước, được mời dạy trong
một thời gian ngắn, ít nhất là 3 tháng.
(b) Trợ tá giảng
sư (teaching assistant, gọi tắt là “trợ giảng”): là nghiên cứu sinh
chương trình tiến sĩ hay trong chương trình hậu tiến sĩ (postdoc) của
trường hay của một đại học khác, được giáo sư hướng dẫn giới thiệu và
được Hội đồng Khoa trong bộ môn của mình chấp nhận. Các trợ giảng có
nhiệm vụ phụ tá một giáo sư trong công tác giảng dạy một giáo trình,
từ 4 tới 6 giờ/tuần, song song với công tác nghiên cứu của mình. Họ
được nhận hợp đồng đầu tiên là 3 năm, có thể được gia hạn tối đa là
hai lần, mỗi lần một năm.
(c) Ngoài ra,
trường có thể nhận các nghiên cứu sinh cuối chương trình tiến sĩ, hoặc
nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ, được đánh giá cao về khả năng nghiên cứu,
làm “phụ tá nghiên cứu” (research assistant) trong các phòng thí
nghiệm. Hợp đồng của các phụ tá nghiên cứu tương đương với hợp đồng
của các trợ giảng.
(d) Giáo sư đặc
nhiệm: Để tạo uy tín cho trường, để thu hút các giáo sư hàng đầu, và
để thu hút đóng góp đặc biệt của các nhà hảo tâm (cá nhân, doanh
nghiệp hay tổ chức quốc tế), trường có thể lập ra một hay nhiều chức
vụ “giáo sư đặc nhiệm” (tương đương với các “chair professor” ở đại
học Âu-Mỹ), với ngân quỹ riêng cho mỗi chức vụ này ít nhất là 200.000
USD. Số tiền này được nhà trường đầu tư và giáo sư được bổ nhiệm có
thể dùng tiền từ quỹ để chi phí cho việc nghiên cứu của mình trong đó
có việc thuê các phụ tá nghiên cứu.
Trường cần có
chương trình tích cực thu hút trí thức Việt kiều hồi hương vào thành
phần giảng dạy:
· Khuyến
khích trí thức Việt kiều về hưu trở thành thành phần giáo sư cơ hữu
của trường. Việc tuyển chọn dựa trên chính sách chung ở trên.
· Khuyến
khích trí thức Việt kiều về hưu hay chưa về hưu tham gia thành phần
giáo sư thỉnh giảng từ 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm.
· Khuyến
khích giáo sư nước ngoài tham gia thành phần giáo sư thỉnh giảng từ 3
tháng, 6 tháng hoặc một năm.
· Khuyến
khích các lưu học sinh xuất sắc sau khi bảo vệ luận án hoặc làm nghiên
cứu hậu tiến sĩ về tham gia thành phần giảng sư.
· Ký
kết với đại học nước ngoài về các chương trình hợp tác, giúp đỡ về
giảng dạy và nghiên cứu. Trường nước ngoài gửi giáo sư về hợp tác dưới
hình thức giáo sư thỉnh giảng (giảng dạy hoặc nghiên cứu) trong một
thời gian ngắn từ 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm. Có thể vận động
trường nước ngoài trả lương cho giáo sư thỉnh giảng này, và trường đại
học trong nước chỉ lo ăn ở.
Một đại học chất
lượng phải có đủ tỉ lệ 1/15 (tiến lên 1/10 trong tương lai) giáo
sư/sinh viên như đã nói trong phần chính của đề án.
Điểm nổi bật của
dự án này là trường phải có lực lượng giáo sư cơ hữu hùng hậu,
nghĩa là những người :
(a)
đủ tiêu chuẩn bằng cấp (đại đa số
sẽ là tiến sĩ, tuy có thể có ngoại lệ), tốt nghiệp từ những đại học có
chất lượng;
(b) có
hoài bão là dạy học và nghiên cứu;
(c)
xem việc cộng tác với đại
học chất lượng cao là công việc chính của họ;
(d) không
đảm nhận một chức vụ
, việc làm nào nơi khác (trừ khi đuợc Viện trưởng cho phép).
Tìm những người
này ở đâu? Chúng tôi xin đưa vài ý:
Trước hết là từ
các giáo sư hiện hữu trong những trường hàng đầu trong nước. Đây là
một vấn đề tế nhị, song cũng là một trong những quy luật của “cạnh
tranh thị trường”. Mặt khác, có thể vì vậy mà các trường hiện hữu phải
trở thành tốt hơn để giữ họ lại. Dưới góc nhìn này, có thể coi ĐHCLC
như sẽ tạo một “ngoại ứng” tốt cho nền giáo dục đại học cả nuớc.
Song, phải nhìn
nhận, phần lớn giáo sư sẽ là người Việt Nam từ nước ngoài về. Có hai
vấn đề: (a) Tìm ra họ, (b) Lôi kéo được họ.
(a) Làm sao tìm
họ? Việc đầu tiên phải làm là lập một danh sách tương đối đầy đủ những
giáo sư người Việt hiện ở nước ngoài. Chúng tôi nghĩ rằng có thể bắt
tay làm việc này ngay từ bây giờ, không cần đợi đề án được thông qua.
(b) Lôi kéo họ?
Đây là một việc rất khó khăn, cần những giải pháp “sáng tạo”. ĐHCLC
cần chấp nhận trường hợp những người chỉ có thể về 3-4 tháng mỗi năm
(song, ngược lại, phải yêu cầu họ cam kết mỗi năm sẽ về chừng ấy,
trong 3-5 năm sắp đến, để nhà trường có thể lập chương trình dạy cho
họ). Có người sẽ cần sự can thiệp trực tiếp giữa Viện trưởng trường
ĐHCLC và Viện trưởng trường họ để trường họ cho phép về Việt Nam (và
vẫn trả lương). ĐHCLC phải sẵn sàng đi vào những thương lượng đó.
Nhưng làm sao để
thuyết phục họ? Ngoài tình cảm cá nhân đối với quê hương, cần nhấn
mạnh tới hiệu quả của công việc mà họ sẽ tham gia đối với thế hệ các
em, các cháu trong nước, và về lâu dài là công cuộc gây dựng một nền
giáo dục có chất lượng cao cho
nước
ta mà mọi người đều sẽ hãnh diện sau này.
Vấn đề lương
bổng không là hàng đầu (và nếu so về lương thì Việt Nam còn lâu mới
cạnh tranh nổi với các trường ngoại quốc). Nhưng những lợi ích bên lề
như nhà ở, xe cộ, trường học cho con cái, chi phí đi về, Internet,
v.v. thì ĐHCLC có thể cung cấp được.
Ngay năm đầu, trường phải tuyển ít nhất 2 người cấp giáo sư cho mỗi
khoa, và bảo đảm tỉ lệ GS/PGS/Giảng sư như đã trình bày trong phần
chính của dự án.
Lương giáo sư không nhất thiết đồng đều, lương các giáo sư hàng đầu
có thể rất cao hơn trung bình.
Chất lượng sinh
viên cũng là yếu tố quan trọng làm nên chất lượng của đại học và tri
thức của đất nước. Dưới đây là một số ý kiến về tuyển sinh.
Điều kiện để
sinh viên được tuyển chọn vào đại học: mọi sinh viên phải theo chương
trình học toàn phần.
Sinh viên cấp cử
nhân được tuyển chọn là những học sinh giỏi và có chứng tỏ khả năng
lãnh đạo trong quá trình tham gia các hoạt động xã hội.
Học sinh có tư
cách nộp đơn khi hội đủ điều kiện sau:
1.
Là học sinh xếp hạng trong số 5%
đầu lớp trong trường trung học của họ trong hai năm cuối.
2.
Điểm TOEFL tiếng Anh đạt ít nhất
300
Sinh viên được
tuyển lựa dựa vào những yếu tố sau:
1.
Là học sinh đạt điểm cao về toán
và văn trong kỳ thi nhập học do trường tổ chức. Hệ số 70%
2.
Là học sinh có quá trình chứng tỏ
khả năng lãnh đạo trong các hoạt động xã hội. Hệ số 10%
3.
Chất lượng bài luận văn nộp chung
với đơn xin học (do trường ra đề, toàn bài không quá 1500 chữ). Hệ số
10%
4.
Thư giới thiệu và đánh giá học
sinh của ba giáo viên trong trường trung học. Hệ số 10%.
Sinh viên cấp
sau cử nhân được tuyển chọn là những sinh viên tốt nghiệp cử nhân giỏi
và chứng tỏ khả năng nghiên cứu.
Ứng viên phải
hội đủ điều kiện sau:
1.
Tốt nghiệp cử nhân loại giỏi
2.
Điểm TOEFL tiếng Anh đạt ít nhất
400.
Các tiêu chuẩn
đánh giá khác:
3.
Những nghiên cứu được xuất bản
nếu có.
4.
Chất lượng bài luận văn nộp chung
với đơn xin học (do trường ra đề, toàn bài không quá 1500 chữ).
5.
Thư giới thiệu và đánh giá ứng
viên của ba giáo sư đã dạy ứng viên ở cấp cử nhân.
Trong hệ thống
đề nghị ở dưới đây, chúng tôi dùng một số từ ngữ sau:
Niên học
Academic
year
Niên học
kéo dài 9 tháng
Học kỳ
Academic
term
Niên học
có 2 hoặc 3 học kỳ
Quí
Quarter
Học kỳ 3
tháng, gồm 10 tuần
Học kỳ nửa
năm
Semester
Học kỳ 4
tháng rưỡi, gồm 15 tuần
Tín chỉ
Credit
Một đơn vị
học trình trong một kỳ học
Môn
Course
Môn học
trong một kỳ học
Tiết
Tiết là
một đơn vị giờ kéo dài 50 phút. Để cho giản dị tiết đồng
nghĩa với một giờ học
Seminar
Lớp học
cho một nhóm nhỏ (không hơn 10 sinh viên,) phân tích hoặc nghiên
cứu về một vấn đề do thầy trao và trao đổi trong lớp.
Chúng tôi đề
nghị:
Tổ chức hệ thống đơn vị học theo học kỳ nửa năm (15 tuần học và 2
tuần thi cử).
Các môn học được tổ chức theo hệ thống tín chỉ. Mỗi môn có giá trị
từ 1 đến 4 tín chỉ. Đại đa số các môn có 3 tín chỉ.
Mỗi tín chỉ nghe giảng trong lớp 1 giờ một tuần, trong vòng 15 tuần,
với tổng số giờ phải học là 15 giờ trong một kỳ học nửa năm. Ngoài
giờ nghe giảng, những giờ thực tập hoặc làm và sửa bài tập có hướng
dẫn, giờ sinh viên tự học, không tính trong bảng “chương trình điển
hình” dưới đây. Sinh viên
trung bình học 5 môn một kỳ, mỗi môn trung bình 3 tín chỉ.
Giải trình:
Tổ chức kỳ học trong niên học có thể theo quí hoặc theo học kỳ nửa
năm (thực tế là 4 tháng rưỡi, vì có những ngày nghỉ lễ...). Rất
nhiều trường trên thế giới hiện nay theo học kỳ nửa năm. Một số
trường theo học kỳ quí. Vấn đề tổ chức theo học kỳ nửa năm đơn giản
hơn.
Để đáp ứng với một số giáo sư chỉ có thể giảng dạy theo quí, một số
môn sẽ được tổ chức theo quí, với cùng số giờ giảng dạy như trường
hợp chương trình theo học kỳ nửa năm.
Mỗi sinh viên ở cấp cử nhân cần hoàn thành 120 tín chỉ.
Sinh viên chương trình thạc sĩ (MA, MBA, MS) phải hoàn thành 32 tín
chỉ, và một luận văn tốt nghiệp được chuẩn bị từ năm thứ hai với một
số yêu cầu về kết quả phải đạt được sau năm thứ nhất (sẽ quy định
chi tiết cho từng ngành học).
Có thể được gia hạn thêm năm thứ ba để hoàn thành chương trình thạc
sĩ.
· Sinh
viên được nhận vào chương trình tiến sĩ phải đạt được những điều kiện
sau:
(a) Có
điểm cao trong các môn học của chương trình thạc sĩ, kể cả luận văn
tốt nghiệp.
(b) Được
một giáo sư (GS, PGS hay giảng sư) trong khoa nhận làm GS hướng dẫn,
theo một đề tài (hướng nghiên cứu) do hai người thỏa thuận. Hồ sơ đăng
ký của NCS phải bao gồm một giải trình ngắn (1500 tới 2000 từ), nói
lên những suy nghĩ sơ khởi của mình về đề tài này.
(c) Được
Hội đồng Khoa chấp nhận, qua phỏng vấn hay sát hạch. Nếu hồ sơ đăng ký
của nghiên cứu sinh (NCS) chỉ có một giáo sư đứng tên, Hội đồng Khoa
sẽ cử thêm một giáo sư làm đồng hướng dẫn. Ít nhất một trong hai giáo
sư hướng dẫn phải là GS hay PGS.
(d) Có
bảo đảm về tài chính để có thể tập trung nghiên cứu trong thời gian
làm luận án: học bổng của bộ GD&ĐT, của một cơ quan nhà nước hoặc một
doanh nghiệp có liên quan tới đề tài nghiên cứu. Trong trường hợp NCS
không có một học bổng nói trên, người ấy phải nộp đơn xin làm trợ
giảng hay trợ tá nghiên cứu trong trường, và đơn đó phải đã được chấp
thuận.
· Thời
hạn làm luận án tiến sĩ là 3 năm sau Thạc sĩ, có thể được gia hạn một
năm, hoặc hai năm nếu NCS và giáo sư hướng dẫn có giải trình được Hội
đồng Khoa chấp nhận. Nếu luận án không thể được bảo vệ cuối năm thứ 5,
NCS bị mất tư cách sinh viên tiến sĩ, và chỉ được ghi danh lại khi
luận án hoàn thành (văn bản phải được nộp cùng ngày ghi danh để xin
được bảo vệ).
· Các
Hội đồng Khoa có thể ra quy định buộc NCS trong khoa mình phải hoàn
thành thêm một hay hai đơn vị học trình (15 hay 30 tín chỉ) trong một
hay hai năm đầu của quá trình làm luận án.
· Hội
đồng giám khảo luận án (jury) do Viện trưởng chỉ định, theo đề nghị
của Hội đồng Khoa, và phải gồm ít nhất 6, nhiều nhất 8 người, với
thành phần các uỷ viên như sau:
(a) Hai giáo sư
hướng dẫn luận án;
(b) Hai báo cáo
viên từ một đại học khác (trong hay ngoài nước);
(c) Ít nhất,
hai giáo sư khác trong ngành, trong hay ngoài trường.
Tất cả các uỷ
viên Hội đồng phải là những người có học vị tiến sĩ trở lên, hoặc là
chuyên gia có những công trình nghiên cứu được thừa nhận có giá trị
tương đương hay cao hơn tiến sĩ.
Hai báo cáo viên
phải là các Giáo sư hoặc Phó Giáo sư. Các uỷ viên này phải có báo
cáo viết về sự thẩm định luận án của mình, trong đó nói rõ kết
luận cuối cùng là đồng ý cho luận án được bảo vệ. Các báo cáo phải nêu
rõ những đóng góp của NCS, dựa trên tính học thuật và tính sáng tạo
của luận án (nếu là ứng dụng một phương pháp khoa học đã có thì tính
chất mở đường, đột phá của ứng dụng phải được nêu ra đồng thời với các
tiêu chuẩn về học thuật của NCS), được thể hiện cụ thể bằng ít nhất
một bài nói ở một hội nghị quốc tế và một bài báo được chấp
nhận đăng trên một tạp chí khoa học quốc tế có uy tín.
Các báo cáo này
phải được gửi tới Hội đồng Khoa một tháng trước ngày bảo vệ. Nếu Hội
đồng Khoa chấp thuận các báo cáo nhận được, cuộc bảo vệ sẽ được tổ
chức, như một thủ tục đứng về mặt bằng cấp – coi như đã đạt
được. Tuy vậy, thủ tục này có tầm quan trọng đối với NCS, thông qua
báo cáo chung của Hội đồng giám khảo về chất lượng của luận án cũng
như các đức tính khoa học, khả năng trình bày những kết quả khoa học
của người NCS.
Kỳ học I:
Tạm nhận giáo sư phụ trách. Sinh viên nộp kế hoạch học cho GS phụ
trách. Cuối kỳ học I nhận giáo sư hướng dẫn. Kỳ học II:
Tham gia Seminar/nghiên cứu. Cuối kỳ học II hoàn thành đề cương đề
tài nghiên cứu với sự đồng ý của GS hướng dẫn. Kỳ học I: sinh viên
nộp kế hoạch học cho GS phụ trách. Tiến hành nghiên cứu Kỳ học II: nộp luận
văn vào cuối kỳ.
I
II
III
IV
Chương trình giáo dục tổng quát
42
Bắt buộc
30
Seminar về thông tin khoa học và
máy tính
2
2
Seminar về
viết luận văn
3
1
2
Thưởng thức Nghệ
thuật (có thể chọn Mỹ thuật hay Âm nhạc)
2
2
Lịch sử khoa
học
3
3
Văn minh nhân
loại
3
3
Triết học:
Triết học đông
phương
2
2
Triết học tây phương
2
2
Lịch sử Việt Nam
3
2
1
Ngoại ngữ (viết và
đọc)
7
3
2
2
Thể
thao
3
1
1
1
Chương trình giáo
dục tổng quát tự chọn
12
9
3
Chương trình giáo dục chuyên ngành
78
Ngành chính
45
Bắt
buộc
27 9 12 6
Tự chọn
18 6 6 6
Ngành phụ và các bắt
buộc theo ngành
24 6 9 9 9
Luận văn tốt
nghiệp
9
1.
Số La mã I, II, III, IV chỉ các
năm học của bậc cử nhân.
2.
Những con số ả-rập chỉ số
tín chỉ.
3.
Mỗi tín chỉ là một
giờ học trong tuần. Cần cộng thêm vào bảng này những giờ làm bài có
hướng dẫn, giờ tự học của SV. Ví dụ môn thể thao, chỉ tính điểm cho 1
tín chỉ, nhưng SV cần có điều kiện tập thể thao nhiều hơn 1 giờ/tuần.
Kỷ Yếu mừng GS Đặng Đình Áng 80 tuổi
Đề án này chính thức đăng trên Thời Đại Mới, số 9, tháng
11/2006:
Phụ lục
4
Tuyển giáo sư
■ Thành phần
giáo sư và giảng dạy
2. Ngoài bộ
phận cơ hữu nói trên, ban giảng huấn của trường còn gồm các thành phần
sau đây:
■ Vấn đề tuyển dụng Việt kiều, giáo sư nước ngoài, và lưu học sinh
xuất sắc
■ Làm sao tuyển
mộ đủ giáo sư?
■
Một vài yêu cầu trong kế
hoạch tuyển chọn giáo sư
Phụ lục
5
Tuyển sinh viên
■ Chất lượng
sinh viên cấp cử nhân (khi trường mở cấp cử nhân)
■
Chất lượng sinh viên cấp sau cử nhân
Phụ lục 6
Hệ thống tổ chức đơn vị học
Vấn đề từ ngữ
Hệ thống tổ chức đơn vị học
Đòi hỏi về tín chỉ
Về bằng tiến sĩ
Chương trình
thạc sĩ
Năm thứ nhất
Năm
thứ hai
Chương trình
điển hình 4 năm cử nhân
Chú thích:
http://www.thoidai.org/ThoiDai9/200609_DeAnDaiHoc.htm