Những bài cùng tác giả
Năm 2006 là năm đầu tiên áp dụng phương thức quản lý mới của Bộ KHCN đối
với các Nghiên cứu cơ bản (NCCB), trong tiến trình hướng tới việc thiết
lập Quỹ NCCB theo kinh nghiệm đã được thử thách của các nền khoa học
tiên tiến. Các đề tài của năm đã được chọn lựa, kinh phí đã được phân
phát. Từ góc độ của một nhà khoa học làm công tác nghiên cứu (lĩnh vực
Cơ học) ở Việt nam, tôi xin được phát biểu một số ý kiến trình bầy thành
ba phần: Phần I đưa ra một số kiến nghị cụ thể về quản lý và tiêu chí
đánh giá đối với các đề tài NCCB lĩnh vực Cơ học và KHTN nói chung. Phần
II bàn về tranh cãi giữa nghiên cứu cơ bản và ứng dụng ở VN. Phần III đề
cập tới các chuẩn mực trong khoa học - cơ sở cho thi đua và phát triển
lành mạnh ở VN.
I. Nâng cao chất lượng nghiên cứu Cơ bản
Có một yếu tố mới tích cực trong việc xét duyệt đề tài NCCB năm nay: Số
đề tài được tăng lên, một số TS ở tuổi 4x, kể cả mới bảo vệ luận án TS,
đã được phép tách ra để đứng chủ trì đề tài độc lập. Điều đó khuyến
khích sự chủ động, ý thức trách nhiệm của cá nhân các cán bộ nghiên cứu.
Cái cách truyền thống cũ là tập hợp đông người dưới bóng một cây đa cây
đề làm công tác lãnh đạo quản lý gây tâm lý dựa dẫm nhau kể từ lãnh đạo
tới các thành viên và cào bằng gây bất mãn cho những thành viên không
phải là lãnh đạo. Một nền khoa học lành mạnh sẽ cần có đa số các chủ trì
đề tài ở độ tuổi 3x và 4x - vì đó mới là tuổi sung sức nhất của người
làm khoa học. Việc liên kết các nhóm nhỏ với nhau để làm một số vấn đề
cần hợp tác liên ngành liên nhóm cần hình thành tự nhiên theo yêu cầu
của thực tế chứ không phải áp đặt hành chính.
Mặc dù nhấn mạnh từ đầu là ưu tiên các đề tài NCCB đạt trình độ cao có
công bố kết quả trên các tạp chí quốc tế, thực tế phân bổ kinh phí cho
các đề tài (theo quan sát cụ thể tại Viện Cơ học) cho thấy không có bất
kỳ động thái tích cực nào theo hướng này. Ngược lại, một số cá nhân và
đề tài chưa hề có thành tích công bố quốc tế và dễ hiểu là ít có triển
vọng như vậy trong tương lai đã được tăng vọt kinh phí, trong khi đó một
số đã có thành tích và triển vọng thì chỉ được xếp ở mức kinh phí tối
thiểu. Số cán bộ tâm huyết có ý thức phấn đấu công bố quốc tế hiện còn
ít, họ ở thế thiểu số và dễ dàng bị bỏ qua. Tôi mới có dịp dự một hội
nghị khoa học chuyên ngành hẹp. Một số chủ trì đề tài làm vài báo cáo.
Do số báo cáo quá nhiều mà thời gian hạn hẹp, hội nghị phải chia làm
nhiều tiểu ban - do đó mọi người ít có điều kiện nghe và góy ý cho nhau
vì không thể chạy nổi giữa các tiểu ban trong thời gian họp. Nhiều báo
cáo chất lượng chuyên môn rất thấp, sao chép từ sách và tài liệu sẵn có,
hoặc làm một số tính toán như bài tập cho sinh viên. Tôi biết một số TS
tuổi 4x đã có điều kiện thực tập ở nước ngoài, đã có một số công bố quốc
tế và tự tin có thể phát triển tiếp - ít nhưng làm được. Tôi vẫn luôn
động viên họ giữ vững bản lĩnh, rằng một bài báo đàng hoàng đáng giá hơn
cả tá báo cáo hình thức kia. Tuy nhiên tôi e rằng với cách quản lý NCCB
niện nay, họ sẵn lòng chạy theo số lượng báo cáo để đóng quyển dầy nộp
tổng kết đề tài. Nếu không tập chung vào nghiên cứu nghiêm túc, rồi sang
tuổi 5x họ sẽ buông xuôi luôn. Nội dung đề tài nghiên cứu phải là các
bài báo khoa học đã được phản biện khách quan bởi các chuyên gia hàng
đầu không nêu danh trong lĩnh vực tương ứng. Các báo cáo khoa học, kể cả
ở các hội nghị khoa học quốc tế - tiêu chuẩn đều rất dễ dãi, chỉ mang
tính bổ xung phụ trợ mà thôi. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học
làm quen, trao đổi thông tin và tìm cơ hội cộng tác là chính, nội dung
báo cáo thường là tổng hợp từ các bài báo đã có của họ, không phải là
nghiên cứu mới. Gây ấn tượng hơn cả cho tôi tại hội nghị nói trên là một
TS trẻ tuổi 3x từ ĐHBK HN mới từ Hàn quốc trở về với một nhiệt tình khoa
học hiếm thấy được trong số đông các nhà Cơ học VN hiện nay. Cậu ấy rất
hứng khởi với không khí làm việc và tiêu chuẩn khoa học rõ ràng bên Hàn
quốc, tự hào về các bài báo đã được công bố có phần đóng góp xứng đáng
của mình, nhưng tỏ ra thất vọng về môi trường làm việc không khoa học và
đầy khuất tất ở VN, và đang nhằm tìm đường ra nước ngoài làm việc. Hiện
đang có những sinh viên, NCS VN ở tuổi 2x và 3x đang học tập và làm việc
rất thành công ở Mỹ, châu Âu, Australia, Hàn quốc,... theo phong cách và
tiêu chuẩn hiện đại. Nếu trở về VN họ sẽ đem về nguồn sinh khí mới cho
khoa học nước nhà, nhưng họ sẽ dễ dàng bị làm nản chí bởi sự vô cảm và
bất cần của các chức sắc khoa học trong nước.
Kinh phí đề tài phải tương ứng với kết quả khoa học công bố (dựa theo đề
cương đăng ký và kết quả đã có của chủ trì và các thành viên đề tài 5
năm gần đây nhất), bất kể số người ghi tên là bao nhiêu đi nữa và chủ
trì đề tài đã và đang giữ chức vụ nào. Các chủ trì là các quan chức dễ
dàng điền tên những người dưới quyền cho dài danh sách, nhiều cán bộ có
tên trong nhiều đề tài với các chủ trì khác nhau. Cần có tiêu chí để
tính điểm đề tài theo k?t qu? nh?n ???c, gi?m d?n t? bài bỏo qu?c t? t?i
bài bỏo trong n??c và bỏo cỏo h?i ngh?. Quốc tế người ta không tính điểm
báo cáo hội nghị, nhưng ở ta tạm thời chiếu cố vì nội dung nhiều đề tài
ở ta chủ yếu là (một số thậm chí chỉ gồm) các báo cáo hội nghị. Tuy
nhiên cũng nên đặt một giới hạn trên nên số điểm hội nghị: nó không được
vượt quá 1/2 tổng số điểm của đề tài. Cần hạn chế cái thói làm ít báo
cáo nhiều, làm giả báo cáo thật. Dư luận gần đây đã đề cập tới vấn đề là
ta vượt Thái lan nhiều lần về số TS, cán bộ nghiên cứu, và đặc biệt là
số công trình khoa học (chủ yếu là ở các tuyển tập báo cáo hội nghị và
ấn phẩm trong nước) nhưng lại thua họ nhiều lần ở số bài báo khoa học
công bố tạp chí quốc tế ! Các tác giả tham gia nhiều đề tài khác nhau
(khi đăng ký và làm báo cáo tổng kết phải có mở ngoặc tham gia bao nhiêu
đề tài) thì điểm công trình tương ứng phải chia cho số đề tài đã đăng
ký, không dược tính nhiều lần và gây sai số cho tổng kết của các nhà
quản lý. ở ta hiện nay chưa nên thưởng điểm cho đào tạo Ths,TS trong
NCCB, khi con số các TS hình thức này dang tăng ồ ạt với chất lượng thấp
và đang là một yếu tố tiêu cực cho sự tiến lên về chất của khoa học nước
nhà. Thực ra việc đào tạo này, nếu có và nghiêm túc, là có lợi cho chủ
trì vì tạo ra các bài báo khoa học đóng góp thêm điểm cho đề tài, trong
khi các NCS ở ta được tài trợ bởi quỹ riêng của bộ GDĐT và lương bổng
của cơ quan chủ quản, không phụ thuộc vào đề tài NCCB. Bộ cũng không nên
quá băn khoăn nếu điểm đề tài NCCB của một số chủ trì danh tiếng có thể
không cao, vì họ thường còn có các đề tài còn lớn hơn như đề tài cấp Nhà
nước, cấp Bộ, cấp cơ sở, và các hợp đồng,... Họ không phải là siêu nhân
để làm nhiều thứ vừa tốt vừa nghiêm túc như nhau. Điểm của đề tài phải
là tiêu chuẩn chính để chia kinh phí đề tài. Nếu các nhà quản lý của Bộ
thử tính điểm các đề tài qua đề cương và thành tích 5 năm qua, so sánh
với kinh phí đã và đang được cấp thì sẽ thấy ngay những phi lý và yếu
kém của công tác quản lý.
Số đề tài có công bố trên các tạp chí quốc tế ngành Cơ học còn ít, và có
tăng kinh phí cho các đề tài đó - thậm chí lên gấp đôi so với mức bình
quân chung cũng ít ảnh hưởng tới quỹ chung. Thiếu nghiên cứu đạt chuẩn
mực quốc tế là điểm yếu kém nhất của NCKH ở VN mà dư luận nói đến nhiều
trong thời gian qua, và thay đổi tình trạng đó đang được Bộ KHCN
đặt là ưu tiên chính trong chính sách NCCB trong
thời gian tới. Nhưng thực sự Bộ đã đưa ra được giải pháp gì mới? Tôi có
kiến nghị cụ thể: trước mắt giành 10% quỹ NCCB ngành Cơ học hằng năm để
khuyến khích các nghiên cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế - số tiền đó được
chia đều cho số bài báo được công bố trên các tạp chí quốc tế trong năm
(dễ dàng kiểm tra qua Internet). Các bài báo đăng muộn cuối năm chưa kịp
xét sẽ được chuyển sang xét cho năm sau. Chưa xét đến các bài báo mới
gửi đăng, hoặc thậm chí đã được nhận đăng nhưng còn chưa in ra. Các bài
báo đăng chung với các tác giả nước ngoài cũng được xem xét nếu dưới
tiêu đề bài báo có ghi địa chỉ VN của tác giả VN (cũng kiểm tra được qua
Internet). Biết rằng các tạp chí quốc tế chất lượng cũng có khác nhau,
tuy nhiên trước mắt với ngành Cơ học điều đó chưa cần tính đến vì số
công bố quốc tế còn ít, chỉ cần đòi hỏi tạp chí có tên trong danh mục
lựa chọn của ISI (Institute for Scientific Information, Website:
www.isinet.com <http://www.isinet.com>). Các báo cáo hội nghị quốc tế
không được xét thưởng theo lý do đã nói ở trên. Các ngành khác cũng cần
có các chính sách khuyến khích tương ứng tuỳ theo tình hình phát triển
và các yêu cầu của ngành mình. Tôi tin rằng đề xuất này sẽ tạo ra một cú
hích kinh tế và động đến tự ái của các khoa học gia chưa tới cái tuổi
buông xuôi và đang phân vân lựa chọn giữa nghiên cứu nghiêm túc và dễ
dãi theo phong trào. Nó cũng tạo nên một mục tiêu phấn đấu rõ ràng cho
các nhà khoa học trẻ và sức hút với các TS trẻ mới tữ nước ngoài trở về
để họ duy trì động năng quán tính quý giá đang có được. Một điểm rất
tiến bộ của luật khoa học công nghệ VN là cho phép mọi cá nhân hay tổ
chức trong và ngoài các cơ quan nhà nước được phép đăng ký chủ trì các
đề tài NCCB và được cấp kinh phí với điều kiện phải có kết quả giao nộp
tương ứng. Trong tương lai không xa khi khoa học VN thực sự hội nhập với
chuẩn mực quốc tế (hội nhập không có nghĩa là đã đuổi kịp các nền khoa
học tiên tiến, mà là như Thái lan chẳng hạn; ta vẫn nói kinh tế VN đang
hội nhập kinh tế thế giới với việc gia nhập WTO), các kết quả NCCB chủ
yếu sẽ phải là các công bố quốc tế.
Việc theo dõi và đánh giá các đề tài theo các tiêu chí đã nói ở trên là
một công việc không đơn giản cần nhiều sức lực và kỹ năng chuyên môn. Vụ
KHXH & TN cần được bổ xung biên chế cần thiết để đảm đương được nhiệm
vụ. Các chuyên viên cần dược tạo điều kiện tới các cơ quan tương ứng của
Mỹ, Hàn quốc, TQ... học hỏi thêm về các chuẩn mực khoa học, kinh nghiệm
và kỹ năng quản lý. Nếu trước mắt chưa có ngay được nguồn nhân lực cần
thiết, có thể trích tiền từ quỹ NCCB để thuê cán bộ thực hiện từng công
đoạn kiểm tra, thống kê, tổng hợp. Nên trở lại với phương thức Bộ đã
từng làm là quản lý các đề tài qua máy tính, và hơn nữa là đưa lên
website các thông tin công khai về kinh phí, đề cương và kết quả chi
tiết của các đề tài. Bộ nên mạnh dạn mời tới tham vấn, thậm chí tham gia
trực tiếp vào quá trình đánh giá, các nhà khoa học có tâm huyết và thành
tích nghiên cứu đang công tác tại các Viện, các trường ĐH, bất kể tuổi
tác, chức vụ của họ, kể cả các TS trẻ xuất sắc mới từ các nền KH tiên
tiến trở về. Cũng nên thay đổi danh sách đó thường xuyên để khách quan
và tránh hình thành một nhóm quyền lợi - đặc biệt là các chức sắc KH
thường dùng vị thế của mình để gây ảnh hưởng.
Đánh giá các đề tài và phân bổ kinh phí là nhiệm vụ trọng tâm của Bộ
KH&CN. Bộ đang nắm trong tay một đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ có thể làm thay
đổi đường hướng phát triển của khoa học nước nhà. Không làm được điều
đó, các nhà quản lý sẽ phải chia phần trách nhiệm trước nhân dân cùng
với các nhà khoa học chuyên môn về sự yếu kém của khoa học VN hiện nay.
II. Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng
So với các NCCB thì các đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ với định hướng ứng
dụng ngốn số tiền ngân sách lớn hơn nhiều, nhưng hiệu quả thấp, nhiều đề
tài làm xong chỉ để xếp tủ, và hiện vẫn chưa có tiêu chí đánh giá và
quản lý các đề tài này một cách thực sự khoa học!
Một số chức sắc khoa học trong nước thường có định kiến là các nghiên
cứu công bố trong các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học và được cấp
ít tiền là NCCB, lý thuyết, còn các nghiên cứu có dính đến số liệu hiện
trường, hoặc nhắm tới một địa chỉ cụ thể ở VN làm đối tượng, phải tiến
hành các đo đạc hoăc tính toán số trên máy tính, được cấp nhiều kinh phí
và kết quả được nghiệm thu bởi một hội đồng chức sắc là các nghiên cứu
ứng dụng. Đó là cách nghĩ cảm tính quá đơn giản. Một số nhà khoa học có
danh cũng tìm cách lảng tránh việc công bố các bài báo trên các tạp chí
khoa học vì phải đối đầu với các phản biện khuyết danh am hiểu chuyên
môn vốn rất gai góc, và cho rằng đó là công việc của thời làm NCS và
thực tập sinh cao cấp ở nước ngoài khi họ được các nhà khoa học đàn anh
hướng dẫn. Họ làm các đề tài ứng dụng kinh phí lớn, và chỉ phải chịu
phản biện một lần khi kết thúc đề tài bởi một hội đồng nghiệm thu gồm
các chức sắc trong nước rõ mặt rõ tên nể nang nhau. Họ cũng đăng ký chủ
trì và lý luận rằng các NCCB của họ cũng vì phục vụ ứng dụng nên không
cần phải đăng dưới dạng bài báo trên tạp chí chuyên môn mà chỉ cần là
các báo cáo khoa học ! - đó là những ngụy biện tai hại.
Một phần các công bố trên các tạp chí quốc tế là các nghiên cứu thuần
túy lý thuyết, nhưng đa số là các nghiên cứu thực nghiệm, ứng dụng, sử
dụng mô phỏng số, và cả về công nghệ (tuy có những chi tiết được giữ kín
chỉ giới thiệu hình thức không đi cụ thể). Đã là các nghiên cứu khoa học
dù là ứng dụng đều phải có cái mới và được công bố dưới dạng bài báo
khoa học, hay là bằng phát minh, sáng chế. áp dụng công nghệ sẵn có, sử
dụng chương trình mẫu đã có và lắp vào các số liệu cụ thể để tính là
việc của các hãng sản xuất và các KS thực hành hoặc cùng lắm là của các
hợp đồng với SX, không phải là các nghiên cứu khoa học. Có những nghiên
cứu ứng dụng dẫn ngay tới kết quả áp dụng trên thực tế, hoặc dẫn đến các
bằng phát minh, sáng chế, nhưng số khác phát triển từng bước và hoàn
thiện dần (nhưng phải chứa đựng các kết quả được công bố dưới dạng các
bài báo). Bởi vậy nó mới cần hỗ trợ dưới dạng các đề tài nghiên cứu, còn
nếu có ngay hiệu quả kinh tế thì các hãng sẽ đầu tư trực tiếp, không cần
đến chính phủ hỗ trợ qua đề tài. Một số nhà "nghiên cứu ứng dụng" của
chúng ta thường biện luận: tôi làm nghiên cứu ứng dụng phục vụ trực tiếp
nhu cầu quốc kế dân sinh nên không có trách nhiệm phải công bố các bài
báo - vốn là phần việc của anh lý thuyết. Nếu anh ta chỉ áp dụng các
công nghệ, chương trinh sẵn có nhưng mang tới các kết quả thấy đựoc cho
thực tế qua các hợp đồng kinh tế tuân theo các quy luật của kinh tế thị
trường, thì đó là điều cũng đáng hoan nghênh và khuyến khích. Nhưng nếu
vẫn cách thức đó anh ta đăng ký như đề tài nghiên cứu khoa học (nghĩa là
được kinh phí bao cấp) chỉ để đóng quyển nộp báo cáo tổng kết đè tài -
thì đó là điều không thể chấp nhận được, nhưng thật đáng buồn, vẫn là
hiện thực phổ biến trong nghiên cứu khoa học ở VN hiện nay. Thực tế trên
thế giới thì các nhà lý thuyết thường làm việc đơn lẻ hoặc nhóm nhỏ,
trong khi các nhà ứng dụng và thực nghiệm làm thành các nhóm lớn hơn có
sự hỗ trợ của nhiều thành viên để làm các phần việc khác nhau. Thực tế
cũng cho thấy rằng, thường thì các nhà nghiên cứu ứng dụng và cả thực
nghiệm có số công bố trên các tạp chí khoa học thậm chí nhiều hơn hẳn so
với các nhà nghiên cứu lý thuyết ! - ngược hẳn so với thiên kiến của một
số người ở VN. ở VN các đề tài ứng dụng cấp Nhà nước và cấp Bộ có thể
bao gồm nhiều công đoạn hướng tới giải quyết trọn vẹn một vấn đề thực tế
náo đó. Có những công đoạn đơn giản nhưng phải có các công đoạn có hàm
lượng khoa học cần được công bố dưới dạng các bài báo trên các tạp chí
khoa học trong hay ngoài nước được phản biện nghiêm túc và khách quan
bởi các chuyên gia giỏi giữ kín danh tính. Một đề tài không đem đến hiệu
quả ứng dụng thấy được, không có các công bố khoa học tương xứng mà chỉ
để xếp tủ, dù đã được thông qua bởi một hội đồng chức sắc nể nang nhau ở
mức giỏi hay xuất sắc đi nữa, là một đề tài hỏng, lãng phí. Các đề tài
ứng dụng chưa đem đến kết quả ngay, các cơ quan quản lý cần tiếp tục lưu
hồ sơ theo rõi để rút kinh nghiệm quản lý và cung cấp cho bất cứ ai quan
tâm vào bất cứ thời gian nào - dù để sử dụng, học hỏi, hay để kiểm tra,
phê phán ! Các chủ trì đề tài đã nghiệm thu tiếp tục thông báo cho cơ
quan chủ quản đề tài cũ các phát triển tiếp theo nếu có. Nếu đến thời
điểm nào đó sau này từ các nghiên cứu ban đầu đó dẫn đến các hiệu quả
ứng dụng thật sự thì đóng góp của đề tài và các cá nhân tham gia cần
được ghi nhận và tôn vinh. Ngược lại, thì việc xét các đề tài tiếp sau
của các cá nhân này cần được xem xét nghiêm ngặt hơn. Tóm lại các đề tài
ứng dụng cấp Nhà nước và cấp Bộ không chỉ cần kiểm soát chặt chẽ hơn về
hiệu quả ứng dụng theo thời gian, mà còn cần phải nâng cấp để tuân theo
các chuẩn mực như NCCB là có được những bài báo khoa học nghiêm túc hay
bằng phát minh sáng chế, cho xứng với số tiền lớn đã bỏ ra.
Một thực tế là các lĩnh vực Toán học và Vật lý ở VN đã đạt được tới các
chuẩn mực cao hơn các ngành khác trong nghiên cứu khoa học. Họ cú đóng
góp sánh ngang, thậm chí vượt trội cỏc nước bạn ?NA về các công bố quốc
tế. Ông tổng thư ký Quỹ Humboldt (CHLB Đức) một lần đã hỏi tôi về cái
khác biệt của VN so với các nước khác là phần lớn số người VN được học
bổng Humboldt là các nhà toán học, và ngỏ ý rằng họ sẽ chiếu cố hơn khi
xem xét ứng viên các ngành khác của VN, gồm cả kỹ thuật, kinh tế và KHXH
[Học bổng Humboldt là học bổng nghiên cứu sau TS có uy tín bậc nhất trên
thế giới, mọi ứng viên dưới 40 tuổi thuộc mọi ngành trên thế giới đều
đăng ký xin trực tiếp không cần thông qua các cơ quan chính phủ, và tiêu
chuẩn xét là dựa trên các kết quả khoa học đã công bố tương ứng với tuổi
ứng viên (tuổi càng cao yêu cầu cũng sẽ cao hơn)]. Lý do một phần là vào
các thập niên trước, khoa học Toán-Lý đã thu hút những tài năng trẻ xuất
sắc nhất của VN - chính sách được cổ vũ bởi cố Bộ trưởng Tạ Quang Bửu.
Những thành công khoa học của những nhà tiên phong như các GS Hoàng Tụy
và Nguyễn Văn Hiệu đã tạo niềm tin, hứng khởi và chuẩn mực để các thế hệ
tiếp sau phấn đấu vươn lên. Đặc biệt GS Hoàng Tụy là tấm gương sáng của
một nhà khoa học thực thụ, ông không chỉ duy trì phong độ nghiên cứu
khoa học ở trình độ cao trong suốt thời gian làm việc - không bị đứt
gánh giữa đường, mặc dù cũng đã từng đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo, mà
còn luôn đi đầu cổ vũ thế hệ trẻ và các đồng nghiệp phấn đấu công bố
quốc tế. Có ý kiến cho rằng các lĩnh vực Toán-Lý có thiên hướng lý
thuyết nên cần viết các bài báo khoa học, còn các lĩnh vực khác thiên
ứng dụng hơn thì nhằm mục tiêu chính là phục vụ quốc kế dân sinh, khỏi
cần viết bài và viết khó hơn. Tuy nhiên như tôi đã nói ở trên, thiên
kiến đó hoàn toàn sai lệch. Thái lan, tuy chỉ nhiều nhất là ngang tầm
chúng ta trong nghiên cứu Toán-Lý, vẫn vượt chúng ta nhiều lần về các
công bố khoa học quốc tế, chính nhờ các kết quả khoa học đã công bố của
họ trên các lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng. Không phải là lực lượng nghiên
cứu Toán-Lý của chúng ta đông đảo hơn các ngành khác (so sánh phân bố về
số lượng, không nói về chất lượng, theo tôi là không có gì bất bình
thường), ngược lại, lực lượng làm nghiên cứu khoa học ở các ngành ứng
dụng của chúng ta là đông đảo còn hơn Thái lan, qua các thống kê. Cũng
không phải là các ngành Toán-Lý có được những ưu ái, mà chính các ngành
được nói là gần ứng dụng hơn đã nhận được nhiều đề tài nghiên cứu ứng
dụng các cấp với kinh phí lớn. Vậy đâu là lý do yếu kém của các nghiên
cứu ứng dụng của chúng ta. Tôi không tin là các nhà khoa học của chúng
ta không có khả năng, mà phần nhiều do những nguyên nhân chủ quan, chính
sách điều hành quản lý, và văn hóa làm khoa học nghiệp dư xuất phát từ
thời kỳ bao cấp khó khăn vần đang ngự trị ở nhiều nơi. Phải nhận rằng
các ngành Kỹ thuật đã có những đóng góp nhất định cho quốc kế dân sinh,
nhưng nhìn chung mới là ở trình độ thấp. Các nước Đông Âu đã đào tạo
giúp chúng ta một lực lượng hùng hậu các nhà khoa học trên mọi lĩnh vực,
nhiều người trong số họ có học vị cao và chiếm giữ các vị trí đầu ngành
của khoa học nước nhà. Trở về nước, đối mặt với những khó khăn gay gắt
cả về kiếm sống lẫn kinh phí, điều kiện, thiết bị nghiên cứu, họ nhằm
vào các mục tiêu ngắn hạn, làm các dịch vụ sơ đẳng phục vụ sản xuất và
có lợi ích kinh tế trực tiếp cho bản thân, tạm gác các nghiên cứu chiều
sâu vốn đòi hỏi cập nhập thông tin thường xuyên và những lỗ lực lớn, và
lâu rồi thì quên luôn nó đi, tạo luôn thành một nếp làm việc áp cho các
cấp dưới và cả thế hệ tiếp sau. Cũng phải nhận rằng cùng thời gian đó
một số nhà toán học xuất sắc đã tìm được đường sang cộng tác bên phương
Tây vừa tiếp tục nâng cao khả năng khoa học, có được lợi ích kinh tế, và
cũng là nguồn động viên và mở đường cho thế hệ trẻ hơn xung quanh họ
phấn đáu noi theo. Giờ đây các điều kiện làm nghiên cứu và cuộc sống đã
tốt hơn trước rất nhiều nhờ những thành công của cải cách kinh tế (chứ
không phải do khoa học dẫn dắt). Nhiều đồng nghiệp trẻ trong ngành Cơ
học và ở các lĩnh vực khác, nhất là những người mới đi thực tập từ nuớc
ngoài trở về tự tin rằng họ có thể phấn đấu thực hiện các nghiên cứu
khoa học chuẩn quốc tế, nếu có được chính sách khuyến khích và một môi
trường khoa học lành mạnh xung quanh. Nhưng họ sẽ đi theo xu hướng nào
khi thói quen làm việc cũ vẫn đang ngự trị, xét duyệt các đề tài vẫn bởi
những con người cũ với phương cách cũ. Các nhà quản lý cần có các quyết
sách mạnh bạo độc lập hơn (thoát khỏi ảnh hưởng của số chuyên gia đầu
ngành đã lạc hậu dù thời xa xưa họ có oanh liệt đến mấy), theo sát các
chuẩn mực quốc tế đẫ được xác lập, mạnh dạn hơn trong tham vấn các nhà
khoa học trẻ đang làm việc hướng tới các chuẩn mực cao. Tất nhiên cá
nhân một nhà khoa học trẻ đã có kết quả khẳng định ở tầm quốc tế cũng có
thể có những ý kiến hơi cực đoan, nhưng khi tham vấn số đông những người
như họ, tôi tin chúng ta sẽ có các giải pháp đúng đáp ứng các yêu cầu
của khoa học hiện đại. Cải cách sẽ không dễ dàng bởi sự cản trở của số
đông bảo thủ, một số còn nắm các chức vị có ảnh hưởng. Tôi cho rằng Bộ
KHCN nên mời các chuyên gia nước ngoài sang tham vấn giúp đánh giá trực
tiếp các đề tài khoa học, ít nhất là làm mẫu chuẩn trong một thời gian.
Trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay từ lối tư duy bao cấp lạc hậu sang
phương cách làm việc khoa học tiên tiến, tôi cho là điều đó thậm chí còn
quan trọng hơn là việc mời các chuyên gia sang giúp chuyên môn ở các
ngành cụ thể.
III. Khoa học ở VN chưa theo kịp với trào lưu hội nhập.
Thiếu tiêu chí, chuẩn mực khoa học trong đánh giá công tác nghiên cứu,
đào tạo là một yếu điểm chính của khoa học VN hiện nay. Các đồng nghiệp
bên Viện Vật lý đang phấn đấu mỗi luận án TS phải có ít nhất một bài báo
đăng tạp chí quốc tế (ở Hàn quốc yêu cầu ít nhất là 2 và thậm chí
Philippine cũng đòi hỏi ít nhất 1 bài báo đăng trên tạp chí Quốc tế có
trong danh sách của ISI). Nếu điều đó đạt được sẽ là một chuẩn mực tốt
cho các ngành khác noi theo và hạn chế số TS đang tăng ồ ạt hiện nay,
đặc biệt từ những nơi trũng nhất về chuẩn mực khoa học. Tiêu chuẩn đó
cũng giúp cho các NCS thay vì chạy theo các quan chức khoa học cho dễ
bảo vệ luận án, dù các vị này thường bận công tác quản lý ít giúp được
gì cho chuyên môn, mà tìm đến những ai đang làm việc nghiên cứu hiệu
quả, kể cả các TS trẻ mới từ nước ngoài trở về. Tiêu chuẩn GS (hay
NCVCC) của chúng ta vào loại phức tạp nhất thế giới: phải có 20 điểm
công trình (nhiều hơn là thừa?), phải là PGS được 6 năm, phải có NCS đã
bảo vệ TS, phải dậy đủ số giờ quy định, phải viết một quyển sách, phải
..., bất kể chất lượng những thứ đó ra sao. Chúng ta định xây dựng lâu
đài khoa học với những viên gạch đúc mẫu cùng một khuôn bề ngoài trông
giống y sì như nhau, nhưng viên đặc viên rỗng như thế chăng? Phải chăng
những nếp nghĩ của thời bao cấp đã ăn sâu bén rễ trong xã hội chúng ta?
Cái mà chúng ta cần là một tiêu chuẩn đơn giản nhưng hiệu quả để chọn ra
những đầu tầu khoa học thật sự ngay ở độ tuổi sung sức nhất của họ chứ
không phải khi họ đã qua tuổi xế chiều không còn là đầu tầu khoa học
thật sự nữa mà chỉ còn là những tượng đài. Một GS ở ĐH Sydney
(Australia) có đưa tôi coi lý lịch khoa học 3 ứng viên (mỗi người đều có
chừng sáu bẩy chục công trình) tranh vị trí GS mà ông ấy phải tham gia
hội đồng chọn, và chỉ ngay vào 1 ứng viên, nói rằng các nghiên cứu của
ông này mạnh hơn - thật đơn giản! Tôi có biết một GS trẻ ở ĐH Princeton
(Mỹ) - một chuyên gia về độ bền của các vật liệu điện nhiều lớp kích cỡ
từ cm tới nano, cầm đầu một nhóm nghiên cứu thuộc loại đông nhất của
Khoa Cơ làm đủ các việc từ thử nghiệm tới mô hình hóa và tính toán số,
thiết kế. Ông ấy tốt nghiệp ĐH ở Bắc kinh, làm TS ở Harvard, qua một năm
học bổng nghiên cứu Humboldt ở Đức, trở lại Mỹ ông ta thăng tiến trong
vòng 5 năm từ giảng viên trẻ (assistant professor) tới GS (full
professor) ở ĐH California ở Santa Barbara; sau đó ở độ tuổi 35 ông
chuyển đến nhận chức GS ở ĐH Princeton - trường ĐH danh tiếng thường
xuyên đứng đầu bảng xếp hạng các ĐH ở Mỹ. Gần đây tôi có đọc trên tờ
Science một câu chuyện đại thể: Một TS trẻ tài năng từ TQ qua học bổng
Humboldt 2 năm, rồi thêm 1 năm thực tập ở Nhật, ở tuổi ngoài 30 đã trở
về lập tức được nhận chức GS ở một Viện Vật lý thuộc Viện hàm lâm khoa
học TQ, theo chương trình trải thảm đỏ mời về nước các nhân tài trẻ của
họ. Tiếc rằng sau 3 năm thử thách, một Hội đồng khoa học đã bỏ phiếu
8/11 chấm dứt hợp đồng với anh này, vì qua thời gian đó anh ta không có
được một bài báo quốc tế nào, chỉ có 2 bài báo khoa học đăng tạp chí TQ
và một quyển sách viết tổng kết các kết quả nghiên cứu của anh ta ở nước
ngoài - không tương xứng với vị trí anh ta đang đảm nhiệm, cũng như
những thành công anh ta đã từng có trong thời gian trước. Sau đó anh ta
cũng xin được vị trí ít tầm cỡ hơn là GS ở ĐHSP Bắc kinh.... Quyết tâm
vươn tới chuẩn mực khoa học cao và cạnh tranh khoa học ở TQ cải cách đã
mạnh mẽ, trong nhiều trường hợp, không kém gì ở Mỹ, và cả ở 2 nơi cánh
cửa luôn mở với các nhân tài trẻ, còn chúng ta thí sao? Họ thì trẻ còn
chúng ta thì già, họ đơn giản còn chúng ta phức tạp: phải chăng họ kém
chuẩn mực hơn chúng ta? Không chỉ trong nghiên cứu khoa học, tiêu chuẩn
chính trong việc xét TS, GS phải là các công bố trên các tạp chí quốc
tế. Nếu chưa đưa ra được yêu cầu bắt buộc, với lý do trình độ chung của
chúng ta còn kém, thì các thành tích công bố quốc tế của các cá nhân
xuất sắc (dù họ có thể còn trẻ, và không phải là lãnh đạo) cần được ưu
tiên để giảm nhẹ đi các tiêu chuẩn hình thức khác mà trong tình hình cụ
thể VN vốn chỉ có lợi cho những người lớn tuổi có thâm niên và đảm nhiệm
các vị trí lãnh đạo. Nếu không làm được như vậy, chúng ta đã tự tách
mình ra khỏi phần còn lại của thế giới, và các danh vị TS và GS của
chúng ta sẽ vẫn là thứ đồ hàng mã. Không kể tới các huân huy chương lao
động vì nặng về các yếu tố chính trị, các giải thưởng khoa học Hồ Chí
Minh và Quốc gia có hoàn toàn dựa trên các tiêu chuẩn khoa học giống như
các giải thưởng khoa học Quốc tế hay không? Cấp bậc lãnh đạo của ứng
viên có phải là yếu tố quyết định khi xét thưởng? Nếu yếu tố chính trị
quá lớn, những người chuyên tâm làm khoa học đơn giản sẽ không quan tâm
đến giải thưởng mà coi đó là cuộc đấu giữa các chức sắc. Thậm chí việc
xét giải thưởng công nghệ VIFOTEC , một số giải thưởng gây ngạc nhiên
cho giới chuyên môn. ở đây lại nổi lên vấn đề về tiêu chí đối với một
công nghệ, khả năng bao quát và đánh giá của ban xét duyệt.
Ở các nền khoa học lành mạnh, lãnh đạo các cơ quan khoa học không cứ
phải là một trong số các chuyên gia đầu ngành, nhưng phải là nhà quản lý
giỏi, biết cách thu hút người tài, tạo điều kiện môi trường thuận lợi
tối đa cho các thành viên làm việc và phấn đấu vươn lên, vì chính tài
năng và các kết quả nghiên cứu của họ đem đến uy tín và sự thịnh vượng
cho cơ quan khoa học đó trong sự cạnh tranh thi đua với các cơ quan khoa
học khác. Các nhà lãnh đạo giỏi biết cách nhẫn nại và rộng lượng với
những nhân tài có cá tính gai góc. Luật của họ cũng rất nghiêm để chống
lại bất kỳ các biểu hiện bề trên, phân biệt đối xử, ngáng trở công việc
của người khác. Một bạn đồng nghiệp giảng dậy ĐH ở Mỹ kể với tôi rằng,
anh ta đã đưa các kết quả khoa học mới công bố của mình ra trình với
Trưởng khoa, và yêu cầu được thăng tiến trước hạn (bằng không thì anh ta
có thể sẽ xin chuyển đi nơi khác) và anh ta đã nhận được cái mà anh ta
muốn. Một GS đại học ở Đức gửi hồ sơ thi và giành được vị trí GS ở một
đại học khác, nhưng là nhằm gây sức ép với ban lãnh đạo của đại học cũ
đáp ứng một số yêu cầu của ông ấy. Ông áy đã thành công và ở lại, còn
ứng cử viên số 2 ở đại học kia đã giành được vị trí GS ở đó cũng chính
là GS chủ nhà của tôi trong 1 chuyến công tác tại Đức.
Vì thiếu chuẩn mực nghiêm túc đành giá con người cũng như cơ quan khoa
học, lãnh đạo một số cơ quan khoa học ở ta tự cho mình là nhà khoa học
đầu ngành, tìm cách ngăn trở hay phớt lờ những tài năng mà họ không ưa
hoặc cho có khả năng đe dọa vị trí và uy thế của họ, vơ vét cá nhân, đề
cao và phân phát bổng lộc nhà nước cho những kẻ tài mọn nhưng gần gũi
với họ, vì thực tế họ không chịu bất kỳ sức ép nào về thành tích khoa
học (thật sự) của cơ quan. Thành tích ảo ở ta xây dựng quá dễ nếu chịu
chơi trò chơi quyền lực, vì các chuẩn mực thấp kém và không rõ ràng.
Thật giả tồn tại song song, nên thật khó để các bạn trẻ noi gương và tới
làm việc thật với một chuyên gia giỏi có lương tâm nghề nghiệp, trong
khi ở số đông các nhóm bên cạnh họ làm giả hay nửa thật nửa giả vừa nhàn
nhã nhưng tiền lại rủng rỉnh hơn mà lại còn được đề cao nữa nếu cùng gu
với lãnh đạo ! Không có một tiêu chí mặt bằng nghiêm túc trong khoa học
theo tiêu chuẩn quốc tế đã được thử thách (một kiểu chuẩn mực kinh tế
thị trường của khoa học), sẽ không thể có sự phát triển lành mạnh của
khoa học VN. Một đồng nghiệp trong cơ quan đã lúng túng khi có một nhà
khoa học trong nhóm chuyên gia Pháp sang thăm hợp tác giúp VN phát triển
khoa học công nghệ, có nhằm vào một GS đầu ngành của chúng ta và hỏi cậu
ấy: Ông ấy nói nhiều thứ nhưng thực sự ông ấy mạnh nhất trong lĩnh vực
chuyên môn nào? Tôi đã thử cố gắng tìm tên ông ấy qua Internet nhưng
không thấy. Quả thật nếu kiểm tra qua các website khoa học trên Internet
thì nhiều GS của chúng ta không có tên, trong khi lại có tên những nhà
khoa học khác, một khi họ có công bố quốc tế. Thật khó giải thích cho
các nhà khoa học quốc tế cái đặc biệt của khoa học VN (mà những cái đặc
biệt thì có nhiều): Các nhà lãnh đạo khoa học của chúng ta đều là các
đại biểu ưu tú trong thế hệ của họ, được đào tạo tốt ở nuớc ngoài, và ở
trong số những người VN đầu tiên đạt tới học vị cao nhất, nhưng khi trở
về nước họ đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo, nhiều người chủ trì các đề
tài lớn ứng dụng, nên không còn thời gian và ý chí dể phấn đấu nâng cao
khả năng chuyên môn, công bố quôc tế - những việc vốn rất gai góc mà lợi
ích trực tiếp thì không thấy ngay. Liệu vị GS đầu ngành nọ của chúng ta,
người luôn hô hào đề cao nghiên cứu ứng dụng tại các hội nghị về NCCB có
dám nói với vị GS người Pháp kia rằng nghiên cứu ứng dụng không gắn với
công bố bài báo khoa học? vì ông người Pháp kia chính là một nhà khoa
học ứng dụng. Phải chăng đó là khiếm khuyết văn hoá của nền khoa học mới
hình thành của chúng ta. Văn miếu Quốc tử giám mới chỉ tôn vinh học hành
đỗ đạt cao (để sau đó ra làm quan, hưởng vinh hoa phú quý). Một nền khoa
học yếu kém như của chúng ta thật khó có thể sản sinh ra các thiên tài
khoa học xuất chúng. Liệu chúng ta có quá tự mãn hay không khi thường
gọi các nhà lãnh đạo khoa học của mình là các VS. Đối với đa số người
dân, cái chức danh này tỏ ra khó hiểu và mơ hồ (tuy ngày xưa ở ta cũng
có cái gì đó nghe na ná như thế, như hàn lâm học sĩ chẳng hạn), vì nó
còn chưa được nhà nước thông qua. Đối với số đông các nhà khoa học làm
chuyên môn ở trong nước, nó cũng không có tác dụng là tấm gương để họ
phấn đấu vươn tới. Đối với quốc tế chúng ta cũng chẳng gây được ấn tượng
với họ: Riêng ở LX có truyền thống gọi các đỉnh cao khoa học của họ là
các VS, nhưng với đa số các nền khoa học khác, dù nhiều nơi cũng có Viện
hàn lâm, họ chỉ nhăc tới chức danh này trong tiểu sử chi tiết của một
nhà khoa học, còn bình thường chỉ dùng các chức danh chức vị thông dụng
như GS và TS. Các VS của chúng ta cũng hiểu rằng họ không thể sánh được
với các VS của người anh LX về đóng góp nghiên cứu khoa học, mà chỉ có
thể ở chức vị lãnh đạo khoa học tương ứng giữa 2 nhà nước. Vậy thì chức
danh này là nhằm gây uy thế hướng tới các nhà hoạch định chính sách quốc
gia trong chính phủ? Phải chăng các chính trị gia của chúng ta chịu ảnh
hưởng mạnh bởi điều đó?
Thiếu tiêu chí chuẩn mực khoa học nghiêm túc, thiếu thi đua lành mạnh,
ôm khư khư lối mòn, không chịu thay đổi là các cản trở chính đối với sự
phát triển của khoa học VN hiện nay. Chúng ta chưa có được một văn hoá
làm khoa học thật sự. Do vậy việc thành lập Viện hàn lâm khoa học VN,
hay chọn lựa 200 nhà khoa học đầu đàn để trả mức lương 1000 $/tháng, bởi
các chức sắc khoa học của chúng ta, theo các cách truyền thống của chúng
ta, có thể sẽ tạo ra các sản phẩm không giống những gì chúng ta đã thấy
ở các nền khoa học khác mà chúng ta muốn noi theo (trong khi những vấn
đề cơ bản hơn như việc thiết lập các tiêu chí chuẩn mực theo tiêu chuẩn
quốc tế để giúp đánh giá công việc những cá nhân đó thì còn chưa làm).
Kế hoạch thành lập trường ĐH đẳng cấp quốc tế ở VN tuy có nhiều ý kiến
băn khoăn và trái chiều, nhưng tôi nhìn thấy ở đây một yếu tố tích cực
quan trọng: Sự tham gia của các nhà quản lý, các chuyên gia của các ĐH
quốc tế danh giá vào tiến trình sẽ dậy chúng ta cách áp dụng các chuẩn
mực quốc tế trong giảng dậy, nghiên cứu, điều hành, và là tấm gương cho
cả cái hệ thống cồng kềnh ì ạch của chúng ta cải cách thay đổi. Tự thân
chúng ta xem chừng còn lâu mới làm được điều đó.
Chúng ta đi sau có thuận lợi học hỏi kinh nghiệm đã được thử thách về
công tác tổ chức, đào tạo, nghiên cứu của các nền khoa học Âu, Mỹ, úc,
Hàn quốc, Singapore, TQ,... Nhưng nhìn thấy là một chuyện còn làm được
lại là một chuyện khác - hết khó khăn này đến khó khăn kia và tốt nhất
là đứng yên, lợi ích cá nhân được bảo toàn. Hãy nhìn sang TQ - một nước
giống chúng ta về thể chế chính trị, văn hoá, bước đường phát triển. Họ
mới là người sáng tạo ra phương thức kinh tế thị trường XHCN mà chúng ta
cũng đang học tập phát triển thành công. Nhưng tiếc rằng trong khoa học
tình hình chưa được như vậy. Nền khoa học TQ đã có những cải cách phát
triển vượt bậc và khác xa cái mà chúng ta đang có hiện nay. Biên chế các
cơ quan khoa học của TQ được co lại, tính cạnh tranh cao với các tiêu
chí chuẩn mực tiến theo tiêu chuẩn quốc tế. ở ta biên chế vẫn nặng nề
bởi tàn dư của quản lý bao cấp, các công chức khoa học không được tuyển
lựa và sàng lọc thường xuyên theo các chuẩn mực nghiêm túc, lương bổng
thấp. Tôi vẫn nghe thấy lời bình từ đâu đó rằng ở các cơ quan khoa học
VN chỉ 30% là có làm việc. Chế độ lương bổng của các cán bộ khoa học TQ
là thích đáng: chẳng hạn một KS Viện nghiên cứu lương khoảng 8 triệu đ
VN (kinh phí đề tài nghiên cứu khoa học chủ yếu để phục vụ các yêu cầu
nghiên cứu chứ không phải giúp phụ thêm thu nhập như ở ta). ở ta cứ coi
có thu nhập bình quân bằng nửa TQ thì lương một nghiên cứu viên tương tự
phải là 4 triệu. Trên thực tế chỉ được hơn 1 triệu, nhưng bằng các cách
lòng vòng, kể cả qua các đề tài và nghề tay trái (sử dụng thời gian cơ
quan!), anh ta cũng có thể kiếm được tổng cộng 3- 4 triệu. Cái dở ở đây
là anh ta không tập chung được vào nhiệm vụ chuyên môn chính của mình,
và các kiểu thu nhập lòng vòng có lợi cho các cấp trung gian của hệ
thống quan liêu và dẫn tới chênh lệch thu nhập không lành mạnh (người
chủ trì các đề tài lớn, nhất là cấp Nhà nước, Bộ, các chức sắc và một số
kẻ biết quan hệ có thể thu nhập lớn so với mặt bằng chung và so với cống
hiến thực sự của họ). Quản lý tài chính không sát thực với thực tế dẫn
tới thực tế là các nhà khoa học từ người làm thật tới người làm giả
thường phải khai dối để hợp lý hoá các chứng từ. Một giảng viên ĐH lẽ ra
phải tập trung nghiên cứu vừa đóng góp cho phát triển khoa học công nghệ
vừa nâng cao trình độ để liên tục cập nhập giảng dậy tốt hơn, thì tìm
cách tăng tiết dậy, dậy thêm dân lập, hàm thụ, kể cả dậy phổ thông và
luyện thi đại học. Ai đó có thể khen đó là sự năng động đáp ứng các đòi
hỏi của kinh tế thị trường, tôi thì cho đó là một điều tai hại cho khoa
học đỉnh cao của nước nhà. Giáo dục phổ thông của chúng ta dù bị chê bai
nhiều vẫn khá hơn giáo dục ĐH (theo so sánh với chuẩn quốc tế), kém hơn
nữa là đào tạo Ths, TS, và kém nhất là đỉnh chóp của hệ thống gồm các GS
và chức sắc khoa học. Vây hãy có chính sách thích hợp để anh giảng viên
kia tập trung vào cái ĐH mà anh ta đang giảng dậy - vốn là khâu yếu hơn.
ở TQ và các nền khoa học lành mạnh khác, anh giảng viên đó có thể mất
chỗ ở ĐH vì không có hoặc ít các công trình nghiên cứu công bố đạt chuẩn
mực quy định (vì anh ta đã mất hết thời gian vào việc dậy thêm kiếm
tiền). Chúng ta phải theo gương các nước trên thế giới, hạn chế số giờ
dậy của các giảng viên ĐH và nâng cao đòi hỏi về các kết quả nghiên cứu
- giúp phát triển khoa học công nghệ đồng thời cũng giúp nâng cao chất
lượng giảng dậy. Hãy nhớ tới khẩu hiệu ở các ĐH Mỹ: công bố (bài báo KH)
hay là chết. Hãy kéo lực lượng nghiên cứu đông đảo từ các Viện thuộc các
Bộ tham gia giảng dậy và yêu cầu họ duy trì nâng cao kiến thức cơ bản,
nâng cao chuẩn mực nghiên cứu, để trong khi giải quyết các vấn đề công
nghệ cụ thể, phải đưa ra được các kết quả có chất lượng dưới dạng các
bài báo khoa học. Viện KH&CN VN phải trở thành đầu tầu về các nghiên cứu
có chiều sâu và công nghệ mũi nhọn theo gương các cơ quan tương ứng của
TQ và Hàn quốc.
Rõ ràng khoa học chúng ta đang tụt hậu so với tiến trình hội nhập. Người
công nhân may mặc, da giầy, người nông dân trồng cà phê có thể năm nay
thu nhập khá, năm sau thấp hơn, thậm chí mất việc vì các quy luật cạnh
tranh khốc liệt của kinh tế thị trường. Các công chức khoa học của chúng
ta hưởng lương bao cấp làm việc cứ như chơi, tận dụng chức vị và mọi yếu
kém của cơ chế để tăng thu nhập (trong khi những người công nhân nông
dân kia đang trông đợi chúng ta giúp làm tăng sức cạnh tranh của nền
kinh tế, và chính họ là những người đóng ngân sách để trả lương và cung
cấp các đề tài cho chúng ta). Vai trò của khoa học VN đối với nền kinh
tế trong giai đoạn quá độ hiện nay chưa thể so sánh được về tầm quan
trọng với sự năng động của giới doanh nhân kết hợp với sự hoạch định
chính sách sáng suốt của các chính trị gia trong việc thiết lập một nền
kinh tế thị trường phát triển thật sự năng động và vững chắc. Chúng ta
mới chủ yếu tiếp nhận các công nghệ hiện đại sẵn có với vốn đầu tư nước
ngoài cùng cách thức quản lý chuẩn mực quốc tế, và tiếp nhận phần công
vịệc có phần thấp cấp hơn trong phân chia lao động quốc tế. Sự yếu kém
của khoa học có thể còn ít nhận thấy. Trong tương lai không xa khi kinh
tế phát triển hơn, với yêu cầu nâng cao tính cạnh tranh và vị thế quốc
gia, vai trò của khoa học sẽ ngày càng trở nên cấp bách. Nếu không có
những cải cách mạnh mẽ ngay từ bây giờ, khoa học VN sẽ không có cơ hội
trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế mà vần chỉ là bộ phận ăn
theo và đóng vai trò tỉa tót, phụ trợ mà thôi, còn VN sẽ mãi là sân sau
và một trong số các xưởng gia công của thế giới. Đóng góp cho khoa học
thế giới cũng giúp khẳng định vị thế quốc gia và tự hào dân tộc. Người
Hàn quốc đã tự hào biết bao khi những đột phá khoa học trong nghiên cứu
tế bào gốc của họ đã làm cả thế giới kính nể. Tiếc rằng sau đó đã phát
hiện ra nhà khoa học nọ do muốn đốt cháy giai đoạn đã ngụy tạo phát
minh. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng họ đang tiến gần tới trình độ tiên
tiến nhất của thế giới. Chúng ta vẫn đòi hỏi nhà nước phải tăng kinh phí
cho khoa học. Thực tế thì kinh phí vẫn tăng hàng năm. Nhà nước không thể
chi nhiều hơn số tiền mà nền kinh tế hiện tại cho phép. Đồng tiền của
dân không phải để chúng ta chia phần nửa theo kiểu bao cấp XHCN là cào
bằng, nửa theo kiểu phong kiến là ưu ái một số cá nhân và nhóm người nào
đó có vị thế - không tương xứng với đóng góp khoa học của họ. Nó phải
được phân phối hiệu quả theo cách để thúc đẩy phát triển khoa học theo
những chuẩn mực nghiêm túc và thi đua cạnh tranh lành mạnh. Khoa học có
những đặc thù riêng so với sự vận động của nền kinh tế vốn được quyết
định bởi các quy luật của thị trường: có những vấn đề có thể được giải
quyết ngay để đáp ứng nhu cầu thực tế cấp bách, có vấn đề cần có những
đầu tư nghiên cứu dài hơi hơn, nó cần có sự cân đối hài hoà từ các
nghiên cứu sâu sắc và bao quát tới việc mổ xẻ những vấn đề rất cụ thể
của thực tiễn, và khoa học luôn chứa đựng những bất ngờ có tính đột phá.
Bởi vậy các quốc gia tiên tiến đều coi trọng và tài trợ những kinh phí
bao cấp cho khoa học. Nhưng không vì thế mà hoạt động khoa học thoát
khỏi các chuẩn mực nghiêm ngặt và cạnh tranh thi đua lành mạnh - vốn
luôn là động lực phát triển của tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội. Thật bi hài là thành tích xây dựng lực lượng khoa học thời
bao cấp XHCN của chúng ta lại đang là một nhân tố gây ỳ cho sự phát
triển tiếp theo của khoa học. Liệu chúng ta có dám mạnh dạn cải cách? Cụ
thể hơn nữa là chúng ta có học được cách cải cách khoa học của người TQ,
như chúng ta đã làm được trong lĩnh vực kinh tế? Có cần thiết phải mời,
thuê chuyên gia nước ngoài giúp chúng ta quản lý và giám định các hoạt
động khoa học, như trong kinh tế?
Một số bạn đồng nghiệp trong và ngoài Viện Cơ học muốn tôi, từ vị thế
của một người làm nghiên cứu KH, phát biểu gì đó đóng góp cho sự nghiệp
chung. Nói ra không chỉ có thể làm mất lòng một số chức sắc KH, mà còn
động chạm tới nhiều đồng nghiệp vốn đã quen với nếp sống và cách làm
việc cũ. Tuy vậy tôi thấy rằng đã đến lúc cần phải gửi bức thư ngỏ này
trình bầy những băn khoăn của mình, lần đầu tiên được sắp xếp lại và
viết ra, với hy vọng có thêm một ý kiến đóng góp có ích cho xã hội.
Hà nội, ngày 16 tháng 9 năm 2006
TSKH Phạm Đức Chính,
Viện Cơ học, Viện KH&CN VN, 264 Đội Cấn, Hà nội.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Phạm Đức Chính
|