Những bài
cùng tác giả
Thật là khó cho tôi khi được yêu cầu bình luận về
tình trạng lương bổng của giáo sư đại học và các nhà
khoa học trong nước, bởi một lí do đơn giản là tôi
không hiểu rõ hệ thống lương bổng ở trong nước. Do
đó, tôi chỉ muốn cơ hội đưa ra vài kinh nghiệm ở
nước ngoài để bạn đọc và đồng nghiệp trong nước có
thể so sánh. Tôi nghĩ kinh nghiệm từ nước ngoài cũng
quan trọng bởi vì trong giai đoạn nước ta hòa nhập
với thế giới, chúng ta cũng cần biết ở ngoài người
ta có chính sách ra sao.
Kinh nghiệm từ nước ngoài
Để bạn đọc biết được lương bổng của các giáo sư đại học nước ngoài, tôi xin
trình bày vài con số tiêu biểu sau đây. Tại Úc, hệ thống giáo dục đại học
chịu sự quản lí trực tiếp của nhà nước, do đó các giáo sư và nhà khoa học
đều nhận lương từ nhà nước. Nói như thế không có nghĩa giáo sư Úc là công
chức, mà thực sự là những người làm việc theo hợp đồng với đại học, và hợp
đồng được kí kết cũng như kiểm tra hàng năm. Hiện nay, lương bổng của một
giáo sư thường khoảng 100.000 đô-la Úc trở lên, một phó giáo sư khoảng
80.000 đến 110.000 đô-la, và giảng sư khoảng 65.000 đến 85.000 đô-la.
Ở Mĩ, bởi vì hệ thống giáo dục đại học có phần tư nhân và có phần do nhà
nước quản lí, cho nên mức độ lương bổng rất khác nhau giữa các trường đại
học. Chẳng hạn như theo kết quả từ một cuộc nghiên cứu gần đây, lương bổng
giáo sư có thể dao động giữa con số 93.000 đô-la đến 131.200 đô-la, và cho
một phó giáo sư: từ 70.000 đô-la đến 110.000 đô-la. Ngay cả ở cấp giảng sư
(tức assistant professor) mức độ dao động cũng khá cao : từ 57.700 đô-la đến
75.500 đô-la. Qua thống kê này, người ta thấy trường Đại học Duke có xu
hướng trả lương cho giáo sư cao nhất, và trường trả lương « tệ » nhất là
trường Đại học Georgia !
Trên đây chỉ là lương bổng chính thức, phần lớn giáo sư và nhà
khoa học đều có thu nhập phụ trội khác mà không chịu dưới sự quản lí của đại
học. Rất nhiều giáo sư, nhất là các giáo sư thuộc các bộ môn công nghệ
thông tin, y sinh học, khoa học ứng dụng, v.v… đều đóng vai trò cố vấn cho
chính phủ và các công ti tư nhân. Các nguồn thu nhập phụ trội này thường là
kết quả của những tư vấn như thế. Có nhiều giáo sư có thu nhập từ các nguồn
này còn cao hơn cả thu nhập từ lương bổng chính thức, nhưng các vị này
thường là những giáo sư có tên tuổi và hàng đầu trong lĩnh vực chuyên môn.
Chẳng hạn như một công ti dược có thể trả hàng trăm ngàn đô la cho một giáo
sư y học nếu vị này cung cấp cho họ những tư vấn về nghiên cứu và phát triển
thuốc !
Đó là lương bổng chưa kể thuế. Theo chế độ thuế vụ tại các nước Tây phương,
người có thu nhập càng cao càng phải đóng thuế cao. Thành ra, tuy con số
lương bổng trên có vẻ cao, nhưng trong thực tế, sau khi khấu trừ thuế, thu
nhập thật sự đến túi giáo sư chỉ khoảng phân nửa hay dưới phân nửa số tiền
trên. Tuy nhiên, sau khi khấu trừ thuế, nhưng so với giá cả địa phương, thì
những mức lương này chỉ vừa đảm bảo cho nhà khoa học một mức sống tương đối
thoải mái, nếu không muốn nói là dưới trung lưu một chút.
Dù với mức lương « trung lưu » như trên, nói chung đại đa số trong
giới giáo sư đại học và khoa học gia là những người nghèo. Nếu so sánh với
các học sinh của họ trong các ngành thương mại, y học và công nghệ thông
tin, thì lương bổng của họ chẳng là bao. Một chuyên gia công nghệ thông tin
sau khi tốt nghiệp cử nhân (không cần đến cao học hay tiến sĩ) khoảng 10 năm
có thể đã có mức lương cao gấp 2 lần so với mức lương của giáo sư. Một bác
sĩ sau khi tốt nghiệp khoảng 5 năm cũng có thể có thu nhập lên đến 200.000
đô-la một năm. Ở Úc, một số thợ lành nghề lâu năm trong một công xưởng cũng
có thể có thu nhập lên đến 100.000 đô-la một năm.
Vấn đề không phải là so đo lương bổng giữa giáo sư (những người có
học vị rất cao và phải phấn đấu rất gian nan) với những thành phần lao động
khác, bởi vì một sự so sánh như thế là khập khiểng. Trong thực tế trách
nhiệm của bác sĩ đối với bệnh nhân, hay trách nhiệm kĩ sư đối với khách hàng
khác với trách nhiệm giảng dạy của một giáo sư đại học : một bên là hành
nghề và một bên là truyền đạt kiến thức và nghiên cứu. Nhưng thật ra, nhiều
giáo sư cũng đóng vai trò người truyền đạt kiến thức và hành nghề.
Ngay từ lúc theo học tiến sĩ, thí sinh
cũng phải hiểu rằng trở thành tiến sĩ và giáo sư sau này không có nghĩa là
đi làm giàu. Cái mục tiêu của nhà khoa học hay giáo sư đại học là lí tưởng
phục vụ khoa học và cộng đồng, là khám phá cái mới, chứ không phải sự giàu
có về tiền bạc. Tất nhiên, có nhiều khi khám phá cái mới cũng đem lại một
nguồn tài chính lớn cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là
mục tiêu để theo học tiến sĩ.
Vài đề nghị
Theo tôi lương bổng của nhà khoa học cần phải định đoạt sao cho mang tính
công bằng, đảm bảo một cuộc sống thoải mái và phải luôn được kiểm tra rà
soát thường xuyên. Để đảm bảo 3 tính này, việc xác định lương bổng cần phải
cân nhắc đến những yếu tố nội tại và những yếu tố bên ngoài. Những yếu tố
nội tại bao gồm thang bậc của giáo sư, hệ số lương và lao động, tưởng
thưởng, v.v… Những yếu tố ngoại tại là xem xét đến nhu cầu của bộ môn chuyên
môn.
Về « chính sách nội tại », ở các nước Tây phương, các trường đại
học có hẳn một thang bậc cụ thể và rõ ràng (tức là công bố cho mọi giáo sư
và nhân viên giảng dạy biết). Họ chia các nhân viên giảng dạy thành 4 bậc:
trợ giảng (instructor, proctor, tutor), giáo sư dự khuyết (assistant
professor), phó giáo sư (associate professor) và giáo sư (professor). Thang
lương bổng được chia thành 10 thang, từ thang thấp nhất (hay thang chuẩn) 1
đến thang cao nhất số 10. Trợ giảng có 3 thang lương, giáo sư dự khuyết và
phó giáo sư có 4 thang lương, và giáo sư có 5 thang lương. Thang chuẩn cho
trợ giảng là 1 và cao nhất là 1,195; thang cho giáo sư dự khuyết là 1,125
đến 1,465 ; vân vân (xem bảng thống kê dưới đây).
Bậc lương cho thang chuẩn (số 1) có thể là 50.000 đô-la hay 60.000 đô-la,
tùy theo chính sách của trường đại học. Chẳng hạn như để xác định lương cho
một giáo sư năm đầu, và nếu lương thang chuẩn là 50.000 đô-la, thì lương
khởi đầu cho giáo sư (thang 6) là 50.000 x 1,7 = 85,000 đô la, và lương này
tương đương với lương của một phó giáo sư (thang 6).
Nhưng thang bậc trên chỉ mới là nội tại, khi xem xét lương bổng trường đại
học cũng phải nên xem xét các yếu tố bên ngoài, hay nói trắng ra là yếu tố
thị trường. Chẳng hạn như để thu hút các giáo sư công nghệ thông tin, cần
phải có chế độ ưu đãi họ hơn những giáo sư thuộc các ngành mà nhu cầu thị
trường không mấy cao. « Ưu đãi » ở đây có nghĩa là ngoài thang bậc chuẩn về
lương, trường đại học có thể cung cấp thêm các khoản thu nhập mang tính
khuyến khích như cho phép họ làm cố vấn ngoài với một giới hạn như 5% hay
10% thời gian, hay chế độ hưu bổng, hay cung cấp cơ sở vật chất cho nghiên
cứu, v.v…
Hệ số
lương theo thang lương và bậc khoa bảng
Thang lương |
Trợ giảng |
Giáo sư dự khuyết |
Phó giáo sư |
Giáo sư |
1 |
1,000 |
|
|
|
2 |
1,105 |
1,125 |
|
|
3 |
1,195 |
1,245 |
|
|
4 |
|
1,360 |
1,395 |
|
5 |
|
1,465 |
1,530 |
|
6 |
|
|
1,665 |
1,700 |
7 |
|
|
1,785 |
1,850 |
8 |
|
|
|
2,000 |
9 |
|
|
|
2,140 |
10 |
|
|
|
2,225 |
Trợ
giảng (instructor),
Giáo sư dự khuyết (assistant
professor), Phó giáo sư (asociate professor),
Giáo sư (professor)
Trong một ý kiến phát biểu trên Nhân dân cũng khá lâu, tôi có viết
đại khái rằng một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại
học là ổn định đời sống các nhà khoa học và giáo sư. Đại học và những viện
nghiên cứu chuyên môn không chỉ là nơi tập trung những thành phần trí thức
ưu tú, và là cái nôi phát triển và nuôi dưỡng nhân tài. Nhưng điều đáng
buồn ở Việt Nam ngày nay là đại học không có sức thu hút nhân tài, vì tình
trạng lương bổng quá nghèo nàn, không đủ nuôi sống những nhà khoa học có tài
thực sự. Vì thế, cần phải ổn định một số nhỏ nhà nghiên cứu làm nghiên cứu
cơ bản qua tăng lương một cách xứng đáng cho họ có thể sinh sống trong một
nền kinh tế thị trường. Một nhà khoa học không thể nào nghiên cứu trong khi
cái tâm cứ nơm nớp lo nghĩ đến miếng ăn hàng ngày. Cần phải có chính sách
cụ thể khuyến khích các nhà khoa bảng làm nghiên cứu ứng dụng và qua đó tăng
khả năng thu nhập riêng cho họ và cho trường đại học. Hi vọng rằng những
kinh nghiệm từ nước ngoài mà tôi trình bày sơ lược trên đây góp phần vào
định hướng đó.
Xin mời đọc Trang Nguyễn Văn Tuấn
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
|