Được biết hằng năm có độ 15% số thí sinh được trúng tuyển.
Con số khoảng 85% thi trựợt thật ra không phải là hiện tượng dị
thường. Vấn đề ở chỗ là những người không vào được đại học không tìm thấy con
đường nào khác để tiến thân, hoặc là tiến thân theo một con đường miễn cưỡng,
gây nên tâm lý bi quan trong đông đảo lớp thanh niên nam nữ và do đó xã hội đã
vô tình để phí phạm nguồn nhân lực to lớn nầy. Để giải quyết tình trạng
nầy, tôi cho là có 3 vấn đề cần thay đổi.
Một là, phải có sự chuyển hướng mạnh mẽ về chíến lược công
nghiệp hoá để tạo ra nhu cầu lớn về nghề nghiệp, về lao động có trình
độ phổ thông trung học. Nước ta có lợi thế về nguồn lao động nầy nhưng rất tiếc
chưa được tận dụng. Kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ khá cao trong
10 năm qua và công nghiệp đã đóng vai trò đầu tầu (Công nghiệp luôn phát triển
với tốc độ trên 10% mỗi năm và tỉ trọng của công nghiệp trong tổng sản phẩm
trong nước tăng từ 23,5% vào năm 1990 lên đến 34,5% năm 1999). Tuy
nhiên, công nghiệp mới chỉ thu hút 10% lao động và tỉ lệ nầy không thay
đổi trong thời gian qua. Nguyên nhân của tình trạng nầy là cơ cấu đầu tư
công nghiệp của ta cho đến nay nghiêng về các ngành ít dùng lao động như sắt,
thép, xi măng, hoá chất, và các ngành nầy lại thiếu cạnh tranh trên thị
truờng thế giới nên quy mô sản xuất quá nhỏ. Mặt khác, những ngành dùng nhiều lao
động mà chủ yếu do các xí nghiệp vừa và nhỏ sản xuất như linh kiện, bộ phận,
phụ tùng và nhiều sản phẩm trung gian khác, gọi chung là những ngành yểm trợ
công nghiệp (supporting industries) của Việt Nam chưa phát triển. Do đó,
hàng may mặc, giày dép xuất khẩu phải phụ thuộc phần lớn vào nguồn nhập
khẩu từ nước ngoài. Thêm vào đó, những ngành lắp ráp các loại máy móc
điện, điện tử gia dụng như máy giặt, tủ lạnh, nồi cơm điện, TV, tủ lạnh, hoặc
các loại máy móc thuộc công nghệ thông tin phần cứng như điện thoại di động,
máy tính cá nhân,.. cũng chậm phát triển vì những ngành yểm trợ công
nghiệp quá yếu không cung cấp đủ các sản phẩm trung gian với chất lượng và
giá thành có sức cạnh tranh. Tóm lại, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp yểm trợ sẽ
tạo ra một nhu cầu lao động ngày càng lớn. Nhu cầu cao, tiền
lương cao sẽ thu hút sự quan tâm của những người không vào được đại học.
Thứ hai, bộ máy quản lý quá lớn hiện nay cần phải được tinh
giản nhanh để vừa giảm chi phí gían tiếp nhằm tăng sức cạnh tranh của
nền kinh tế vừa giảm bớt sự kỳ vọng không lành mạnh của một bộ phận trong
giới trẻ muốn vào biên chế quản lý nầy để có được cuộc sống ổn định mà
không phải vất vả như những người làm các nghề khác. Bộ máy nầy hiện nay rất
lớn bao gồm nhiều tầng lớp từ trung ương đến địa phương và trải rộng từ
cơ quan nhà nước, kể cả công ty quốc doanh, đến cơ quan Đảng và các đoàn thể
quần chúng. Dĩ nhiên nếu không có bằng tốt nghiệp đại học thì hầu như không
thể chen vào biên chế nầy. Khi bộ máy đã được tinh giản đến một quy mô
hợp lý và nhân tài được tuyển dụng khách quan và công khai thì những bạn trẻ có
năng lực và hoài bão muốn ra tranh tài để gánh vác việc nước thì là một
hiện tượng đáng được khuyến khích. Tuy nhiên hiện thực cho thấy ta chưa đạt
đến giai đoạn lý tưởng đó.
Một điểm nữa cũng liên quan đến vấn đề thứ hai nầy là xã hội
Việt Nam hiên nay ngày càng đi xa nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã
hội “làm theo năng lực và hưởng theo lao động”. Ở VN hiện nay, nói một
cách tổng quát, có hai giai tầng: Một là nhữnng người kiếm tiền và tiêu tiền
quá dễ dàng, hoàn toàn không tương xứng với sức lao động và khả năng của họ.
Trong cơ chế xin cho hiện nay, đa số những người ở giai tầng nầy là những
người nằm trong bộ máy quản lý nói trên. Giai tầng thứ hai là những người làm
việc rất vất vả mới đủ sống, và đa số phải làm nghề tay trái. Giai tầng nầy dĩ
nhiên là số đông, gồm đủ mọi trình độ học vấn, kể cả những người đã tốt nghiệp
đại học hoặc cao hơn. Trong tình hình như vậy, nhiều nguời trong giới trẻ
muốn chen chân vào giai tầng thứ nhất là điều dễ hiểu và để vào trong biên
chế của bộ máy quản lý, như đã nói ở trên, cần phải có bằng đại học. Điểm
nầy phải được nghiên cứu thêm nhưng có lẽ là một trong những nguyên nhân
tiềm ẩn của hội chứng thi vào đại học. Dĩ nhiên ta không thể cho rằng tất cả
những người muốn thi vào đại học đều có động cơ như vừa phân tích. Vẫn
có nhiều người có hoài bão phải học lên cao hơn để cống hiến được cho xã hội
nhiều hơn. Tuy nhiên cuộc sống quá vất vả trong hiện tại và viễn ảnh tương
lai chưa thấy sáng sủa của những người mà trình độ học vấn chỉ dừng lại ở bậc
trung học phổ thông đã góp phần vào hội chứng thi đại học hiện nay.
Thứ ba, khi hai vấn đề vừa trình bày được giải quyết, chuyện
còn lại là cổ vũ mọi người trở lại với tinh thần “nhất nghệ tinh nhất thân
vinh” như ông cha ta đã từng nói. Làm sao để trong xã hội ai cũng thấy hạnh
phúc khi chọn được một nghề hợp với khả năng của mình, được xã hội trân trọng
và tay nghề càng cao càng được thù lao xứng đáng. Kinh nghiệm của Nhật cho
thấy, trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, cơ cấu lao động lúc
nào cũng theo hình tháp ứng với trình độ giáo dục của các tầng lớp trong cơ cấu
đó, nhưng tầng lớp nào cũng đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển của
đất nước và cuộc sống của mọi tầng lớp ngày càng được nâng cao. Lý Quang Diệu, Cựu
Thủ tướng Singapore, trong cuốn hồi ký
From Third World to First -The Singapore Story: 1965-2000