Những bài cùng tác giả
The Chronicle of Higher Education
Các tác giả: George E.
Walker, Chris M. Golde, Laura Jones, Andrea Conklin Bueschel, và Pat
Hutchings
Lời người
dịch:
Giáo dục đại học của các nước tiên tiến không phải là không
có vấn đề, điều khác nhau nằm ở chỗ khả năng cải cách và sửa đổi cơ cấu.
Trong thế kỷ 20, phần lớn các đại học ở Bắc Mỹ đều tập trung phát huy nghiên
cứu khoa học. Điều này, dĩ nhiên, có mặt mạnh của nó. Tuy nhiên, từ thập
niên cuối của thế kỷ 20 đến nay, giáo dục đại học ở Bắc Mỹ nhấn mạnh đến
hướng lấy người học làm trung tâm. Khuynh hướng này bộc lộ những điểm yếu
nhất trong đào tạo tiến sĩ. Vì vậy đã có những nghiên cứu về cải cách việc
đào tạo tiến sĩ, và điểm mạnh của hệ thống giáo dục đại học ở Bắc Mỹ là tìm
hiểu có hệ thống và khả năng thay đổi của nó. Bài này, “Tầm quan trọng của cộng đồng trí thức (The Importance of Intellectual
Community),” được chuyển thể từ cuốn sách, Sự hình thành các học giả:
Nghĩ lại về giáo dục tiến sĩ cho thế kỷ 21 (The Formation of Scholars:
Rethinking Doctoral Education for the Twenty-First Century), sẽ được phát
hành vào tháng 01-2008. Dịch giả chân thành cám ơn Gs. Trần Hữu Dũng, Dept.
of Economics, Wright State University, đã đưa bài này lên mạng, tạo điều
kiện dễ dàng cho những người quan tâm đến giáo dục đại học tham khảo.
Anna là
một học viên tiến sĩ (nghiên cứu sinh)(1)
mới toanh, và cô đang sung sướng chờ đợi việc trở lại học viện sau một ít
năm rời xa nó. Cô đã và đang rất quan tâm về nghiên cứu và giảng dạy, và cảm
thấy xúc động khi xem tờ bướm thông báo về xê-mi-na do một học giả(2)
có tên tuổi trong ngành của cô trình bày. Dù không chắc lắm nhưng cô biết là
mình lần nữa có cơ hội trực tiếp đặt câu hỏi với nhà học giả, do đó cô sửa
soạn sẵn một số ý tưởng cho cuộc tranh luận sau phần trình bày [của nhà học
giả].
Anna
thích thú khi nhìn thấy nhiều người tham dự xê-mi-na, kể cả nhiều thành viên
cấp cao của trường đại học(3).
Đây chính xác là loại kinh nghiệm mà cô hy vọng có được – một môi trường mà
trong đó tất cả các thành viên của khoa(4)
cùng đến để tranh luận những ý tưởng lớn trong ngành. Sau phần thảo luận là
tiệc chiêu đãi, vì vậy mà Anna mong gặp các đồng nghiệp trong khung cảnh
thân mật.
Cuộc
thảo luận là tất cả những gì mà Anna mong được toại nguyện, và, khi mà phần
trình bày đến hồi kết luận, cô biết đích thực câu hỏi mà cô muốn đặt, dù có
tí ti lo lắng. Lấy hết can đảm, cô là một trong những người đầu tiên giơ tay
[xin hỏi]. Nhưng hết lần này đến lần khác, cô vẫn bị bỏ qua, và cô nhanh
chóng nhận ra là tất cả những người đặt câu hỏi đều thuộc thành viên cấp cao
của trường.
Những câu hỏi mà Anna nghe được cũng bắt đầu hiện ra trong trí cô, đó thực sự
không phải là những câu hỏi; chúng cỏ vẻ như là những bài diễn văn, không
thực sự nhắm đến tranh luận với diễn giả, và không liên quan gì đến “các câu
hỏi” khác. Với cái nhìn hơi giễu cợt, Anna xoay sang cựu nghiên cứu sinh
ngồi cạnh mình.
“Có
chuyện gì vậy?”
“Luôn là
như thế mà,” cậu ta thì thào. “Trường dùng mấy cơ hội này để xác định ưu
tiên với nhau và đổi mới luận điệu cũ.” Cô ta sẽ nhanh chóng nhận ra mô hình
đó thôi, cậu lưu ý cô là phần lớn các nghiên cứu sinh không thèm lắng nghe
nữa bằng cách nói chuyện riêng với nhau, mà không nói với các thành viên của
trường hoặc với khách mời.
Anna nghĩ là cậu
ta có lý. Đám đông chỉ gồm có những nghiên cứu sinh ngồi rải rác. Và mặc dù
cô vẫn không hoàn toàn mất hết hy vọng gặp diễn giả tại buổi tiệc sau đó,
Anna nhận ra là nhiệt tình ban đầu của mình đang nhanh chóng bốc hơi. Với
cảm giác rỗng tuếch chận ngang ngực, cô tự hỏi có phải mình đã sai lầm khi
chọn làm một thành phần của cộng đồng này.
Các học viên tiến
sĩ thường đem những động cơ khác nhau vào công việc của mình, nhưng phần lớn
lại muốn được vây quanh bởi những người có thể chia xẻ đam mê của mình. Còn
lâu họ mới thuộc bộ phận của cộng đồng trí thức, và họ có lý lẽ của riêng
mình để muốn được như vậy vì cộng đồng trí thức không chỉ đơn giản là bầu
không khí chứa cảm giác tốt, tin cậy. Đó chính là cơ sở cho công việc cốt
lõi của giáo dục tiến sĩ ():
xây dựng tri thức.
Mới gần đây, Quỹ
Carnegie cho sự Tiến bộ trong Giảng dạy (Carnegie Foundation for the
Advancement of Teaching) đã mất năm năm làm việc với các khoa được chọc lọc
để cải thiện năng suất trong việc giáo dục tiến sĩ. Sáng kiến Carnegie về
Học vị tiến sĩ (Carnegie Initiative on the Doctorate) liên hệ tới 84 khoa
trong sáu ngành: hóa học, giáo dục, Anh ngữ, lịch sử, toán học, và khoa học
thần kinh (neuroscience). Trong thời gian tiến hành dự án này, các khoa tham
dự đã cam kết rà soát lại mục tiêu và năng lực của mình, thực hiện những
thay đổi dựa vào kết quả điều tra, và giám sát tác động của những thay đổi
này. Nhiệm vụ của Carnegie bao gồm việc đến thăm các khoa, phỏng vấn các
thành viên của ban dự án, tổ chức cho những người tham gia dự án gặp nhau
(đôi khi theo ngành học, đôi khi theo chủ đề) để cùng nghe báo cáo về tiến
độ triển khai dự án, học tập lẫn nhau, và giúp truyền đạt kinh nghiệm bằng
những lộ trình mà những người khác có thể tiếp tục sử dụng. Thêm vào đó, cả
những thành viên các trường lẫn học viên cũng được tham gia vào các cuộc
khảo sát của dự án, kết quả của các cuộc khảo sát này sẽ được dùng làm cơ sở
cho tranh luận và bàn cãi về sự sửa soạn của các học giả.
Chúng tôi(6)
hoàn toàn mong đợi các đối tác đại học tập trung vào những cách thức tư duy
mới, chẳng hạn như, về luận văn và thi khả năng nghiên cứu(7).
Chúng tôi muốn tập trung vào các định hướng mới cho các môn học và những hệ
lụy của chúng vào tương lai của việc đào tạo tiến sĩ. Chúng tôi mong ước
tranh luận xung quanh việc thực hành phụ đạo và cố vấn. Điều chúng tôi hoàn
toàn không lường trước được là tầm quan trọng mà cộng đồng trí thức đem đến
cho công việc của dự án, và mức độ mà các học viên có thể đóng góp, định
hướng, và nâng cao chất lượng cho cộng đồng đó. Các thành viên của trường và
học viên mà chúng tôi gặp đã nhiều lần nắm lấy khái niệm về cộng đồng trí
thức làm tâm điểm cho đặc trưng và chất lượng của đào tạo tiến sĩ.
Cộng đồng trí thức
tác động nhiều mặt lên việc con người đấu tranh tư tưởng như thế nào (có sự
trao đổi thẳng thắn hay không, hay là phá bĩnh nhau do ganh ghét?), việc
giảng dạy được coi trọng ra sao (người ta có thể nhận ra được những người
thuộc thành viên nhà trường và học viên tiến sĩ là những người thầy giỏi hay
không?), và làm thế nào mà học viên cùng tham gia với đồng nghiệp có thâm
niên hơn (các thành viên của trường có đối xử trịch thượng với học viên hay
không, hay là họ rất thoáng với khả năng của đồng nghiệp trẻ?). Cộng đồng
trí thức cũng ảnh hưởng tới cách thức mà sự thất bại được xử lý (rủi ro được
chấp thuận hay bị ngăn chận?), mọi người làm việc với nhau ra sao (các cơ
cấu của khoa có chủ động xúc tiến việc hợp tác?), tính độc lập và sáng tạo
được khích lệ ra sao (học viên có được nhiều cơ hội theo dự kiến để giải
quyết các dự án và vấn đề mới?), và làm thế nào mà khoa và các thành viên
của nó tiếp tục liên kết với lĩnh vực [chuyên môn] (có đủ năng lực và hưng
phấn trong công việc với mục tiêu là nhắm đến giới hạn mới?). Tất cả các
khía cạnh này, và nhiều mặt khác, tác động không những lên đời sống trí thức
của khoa, mà còn lên việc hình thành các nhà nghiên cứu và những đóng góp mà
họ sẽ được sửa soạn để làm người phục vụ trong môi trường đa dạng mà họ đang
sống và làm việc.
Do không thể hiểu
được cộng đồng trí thức một cách rõ ràng, nó hiếm được chú tâm để trở thành
yếu tố cụ thể trong hệ thống đào tạo tiến sĩ, chẳng hạn như các môn học hoặc
thi khả năng nghiên cứu. Nhưng những hệ lụy của nó thì rất đáng kể. Học viên
nào không gắn bó với cộng đồng khoa thường có khuynh hướng bỏ học nửa chừng.
Và một nghiên cứu gần đây của Đại học Harvard cho thấy là, trong việc chuyển
đổi đầy ý nghĩa từ các thế hệ đi trước, các thành viên mới của trường thường
thích định giá đại học theo tiền lương. Nếu các khoa muốn giữ được sức cạnh
tranh trong việc thu hút và giữ chân những học viên và thành viên giỏi của
trường, tự chính họ phải quan tâm đến những vấn đề của cộng đồng trí thức.
Cho rằng nó rất
quan trọng thì nghịch lý của cộng đồng trí thức là nó khó được xác định rõ.
Như trong câu chuyện của Anna, thật ra thì điều dễ nhận thấy nhất chính là
sự vắng mặt của cộng đồng trí thức. Một vài người có lẽ sẽ quả quyết rằng
các chương trình [đào tạo] tiến sĩ là môi trường mà trong đó trí thức độc
lập phản bác lại cộng đồng trí thức – và rằng mục tiêu của Ph.D.(8)
là để nhận định và bồi dưỡng tài năng cá nhân. Nhưng thực ra thì những thành
tựu độc đáo có lẽ không có tính cá nhân như vậy. Đối với những nhà nghiên
cứu ít kinh nghiệm lẫn nhiều kinh nghiệm, năng lực trí tuệ và niềm đam mê
được phát động bằng sự kết hợp lĩnh vực quan tâm với những vấn đề bức xúc
của nó. Trong ý niệm đó, cộng đồng trí thức mang phẩm chất của loại
gà-và-trứng(9):
Tư duy vừa là nam châm vừa là sản phẩm.
Những phẩm chất
nào làm cho cộng đồng trí thức trở nên sôi động hơn, phong phú hơn, lý thú
hơn, được vui mừng đón nhận, và phù hợp với việc hình thành các nhà nghiên
cứu và xây dựng kiến thức? Trước hết, cộng đồng trí thức phải có một mục
đích chia sẻ được – một lời cam kết giúp các học viên phát triển thành những
nhà nghiên cứu giỏi nhất có thể được sao cho, đổi lại, họ sẽ đóng góp vào
việc hình thành và phát triển tri thức. Các cộng đồng trí thức mạnh cũng là:
Đa dạng và đa
hệ.
Việc trao đổi
trí thức thực sự phải bao gồm một tầm khá rộng các quan điểm đủ sức kích
thích tư duy. Các học giả không tích cực hoạt động trong một môi trường đa
quan điểm và tranh luận lành mạnh sẽ thấy là công việc của họ bị suy dinh
dưỡng về mặt trí thức. Nhiều người, bằng những cách khác nhau, thường quan
tâm đến việc tiếp cận chủ đề đa dạng của các chương trình tiến sĩ. Nhưng
động cơ quan trọng không kém cho sự đa dạng là bảo đảm phương tiện tiếp cận
các quan điểm khác nhau làm giàu cho sự trao đổi trí thức. Thêm vào đó, một
cộng đồng trí thức sôi động là cộng đồng mà trong đó học viên được hòa nhập
làm nhà đồng nghiệp trẻ. Một phát hiện then chốt từ nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy các học viên mang đến những triển vọng mới mẻ sẽ là một đóng góp vô
cùng to lớn cho đời sống trí thức của khoa.
Linh
động và khoan dung.
Sai lầm cũng có thể là một nguồn sức mạnh. Tuy nhiên, rủi thay, các khoa
thường được tổ chức và hỗ trợ theo cách mà các dự án thường có rất ít thời
gian và phương tiện nên không thể diễn biến khác đi, và trong một nền văn
hóa học thuật ngày càng đánh giá theo “năng suất,” nhu cầu cho suy nghĩ và
tư duy bị đánh giá hết sức thấp. Điều thiết yếu là tạo ra một không gian –
theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng – để thử nghiệm những ý tưởng mới, để “cầm lấy
tờ bướm,” để vui chơi, để lùi bước và chiêm nghiệm lại những gì đã thu thập
được.
Tôn
trọng và cao thượng.
Điều cần thiết là đối xử với nhau một cách tôn trọng mà không cần phải tạo
ra bầu không khí chính trị đúng đắn(10)
– không quan tâm đến các quan điểm khác nhau. Biết rằng thành công của một
người không phải do người khác trả giá, các học giả nên cùng nhau chia sẻ cơ
hội (“Anh/chị có thấy được đơn xin tài trợ này chưa?”), nguồn trí thức (“Bài
báo này có lẽ giúp ích anh/chị được”), và quan hệ (“Để tôi giới thiệu
anh/chị với Giáo sư X và anh/chị sẽ thấy là công việc của mỗi người rất thú
vị”). Sự cao thượng có lẽ sẽ ảnh hưởng rất mạnh khi các thành viên lão làng
của trường tự tin vào kỹ năng chuyên môn của mình và nhận trách nhiệm làm
người cố vấn dày kinh nghiệm cho thế hệ các học giả kế tiếp.
Mỗi phần
tử kể trên của cộng đồng trí thức – mục tiêu được chia sẻ, đa dạng, linh
động, và cao thượng – thúc đẩy kiến thức, ý tưởng, và sự hình thành các học
giả. Nhưng cộng đồng trí thức không đơn giản chỉ là vấn đề môi trường, và nó
không xảy ra do tình cờ hoặc do ảo thuật. Lao động là yêu cầu bắt buộc. Các
thành viên của trường và học viên (những người không cần phải luôn trông đợi
các thành viên của trường) cần phải tìm và nắm lấy cơ hội, đặt đúng chỗ bất
kỳ hoạt động, chiến lược, và cơ cấu nào thích hợp nhất cho cộng đồng. Các
hoạt động mới đôi khi cũng cần được triển khai, nhưng có lẽ việc định hình
lại các phần tử và đặc điểm hiện hữu của chương trình sẽ mang lại nhiều lợi
thế hơn. Trong bất kỳ tình huống nào, nhu cầu không chỉ là bồi dưỡng liên
tục và quan tâm đến chất lượng của cộng đồng trí thức, mà còn cho các hành
động cụ thể có thể thúc đẩy cộng đồng đó.
Thí dụ,
khi chúng tôi ghi nhận những bước đột phá quan trọng trong môi trường có lẽ
cho phép chấp nhận nguy cơ thất bại, làm sao mà sự cho phép thất bại ấy có
thể được khai thác một cách có hệ thống để làm nguồn học tập? Một sử gia
cùng làm việc với chúng tôi đã đề xuất một câu trả lời cụ thể như sau: một
loạt xê-mi-na trong đó các diễn giả mô tả các dự án không chạy, và từ những
thất bại ấy họ đã tiến hành ra sao – [việc này] cho thấy được một quá trình
mà nói khác đi là không thấy được, bí ẩn, và ngay cả đáng sợ.
Những
cộng đồng trí thức mạnh cũng:
Tuyển
dụng học viên vào trong cuộc sống của khoa.
Một khoa có cộng đồng trí thức mạnh khoẻ sẽ thâu nhận các học viên tham gia
vào công việc của các ủy ban, giúp đỡ các học giả ngoài trường, lên kế hoạch
cho các sự kiện, trợ vấn cho các học viên trẻ, và định hướng chính sách. Các
học viên (đặc biệt là những người mới bắt đầu chương trình học) cần những
lời mời rõ ràng và thông lệ cho việc tuyển dụng như vậy. Chẳng hạn như, để
đáp lại loại vấn đề mà chúng tôi đã miêu tả lúc đầu thông qua câu chuyện của
Anna, khoa sử của Đại học Pittsburgh đã lập nên một qui tắc cho một trong
những loạt xê-mi-na của mình: Ba câu hỏi đầu tiên phải đến từ học viên. Một
cử chỉ nhỏ đủ nói lên một cách hùng hồn [tất cả].
Cộng
tác [với nhau] về các môn học.
Cũng giống như việc xem xét một loạt các mục tiêu của khoa, việc thiết kế
các môn học và triển khai giáo trình có thể đem mọi người lại với nhau xung
quanh các vấn đề về mục đích, vì chúng thường nhanh chóng chuyển cuộc bàn
luận về nội dung cụ thể thành cuộc tranh luận lớn về kiến thức gì mà các học
giả trong ngành cần có. Chẳng hạn như, các thành viên của Trường Giáo dục
(School of Education) của Đại học Colorado đã tham gia vào những cuộc bàn
luận dài về việc các học viên nên biết gì và có khả năng làm gì. Mặc dù tiến
trình này thường gây ra tranh luận, nhưng giờ đây trong cả hai thành viên và
học viên của trường hiểu khá rõ ràng về các môn học và theo đó là nội dung
và kỹ năng gì mà các học viên trông đợi. Sự thấu hiểu đó đưa đến việc thường
xuyên xem xét lại những khía cạnh khác của chương trình tiến sĩ, gồm luôn cả
việc thi tổng hợp và luận văn [tiến sĩ]. Cũng như thế, trong khoa hóa của
Đại học Michigan ở Ann Arbor, các học viên tiến sĩ có cơ hội làm việc chung
với các thành viên của trường về việc thiết kế các môn học bậc đại học(11)
– một cơ hội lần nữa cho cả hai bên tranh luận tư tưởng và xây dựng cộng
đồng chuyên nghiệp.
Tham
gia nghiên cứu xuyên biên giới.
Mỗi khoa đều có các lĩnh vực nhỏ(12),
và tự chúng thường là những cộng đồng trí thức năng động. Một chiến lược để
hình thành cộng đồng trí thức là tạo ra các xê-mi-na nghiên cứu để kết nối
các phân ngành lại với nhau; việc kết nối như vậy trở nên đặc biệt quan
trọng khi giới hạn của các lĩnh vực không rõ ràng. Việc kết nối giữa các
cộng đồng thuộc các tiểu lĩnh vực khác nhau có thể dẫn đến những hợp tác
mới, đặc biệt nếu khoa mời các học viên tổ chức những hoạt động như vậy.
Mở
các cánh cửa phòng học.
Đối với các nghiên cứu sinh, được xem những người khác giảng dạy gì và ra
sao là một cơ hội không những để mở rộng vốn sư phạm mà còn để quan sát các
kiểu giải thích đa dạng, các phép ẩn dụ khác nhau, và các mô hình khác cho
việc biến đổi những tư tưởng chủ đạo trong ngành. Đối với các thành viên của
trường, phương pháp này gắn liền với sự quan tâm vào công việc của các đồng
nghiệp và học viên, và cũng tạo ra cơ hội cho họ suy nghiệm về công việc
giảng dạy. Các khoa với các cánh cửa phòng học rộng mở, nói một cách ẩn dụ
và khác đi, là môi trường cho việc xây dựng một cộng đồng trí thức đặc biệt
mà một số người còn gọi là “dân giảng dạy.”(13)
Đặt
sang một bên thời gian hồi tưởng.
Nhiều đối tác của chúng tôi trong Sáng kiến Carnegie về Học vị tiến sĩ dùng
những thời gian nghĩ của khoa như là thời điểm để bước ra khỏi những nhu cầu
hằng ngày. Chương trình nghị sự thường thay đổi từ việc nỗ lực tập trung để
giải quyết một vấn đề đặc biệt cho đến một chương trình bao quát đến nhiều
lĩnh vực, gồm luôn cả nhiều cơ hội khác nhau để suy nghĩ, tranh luận, phản
biện, và sáng tạo. Tìm được thời gian để suy tưởng – và để xây dựng một cộng
đồng chỉ chấp nhận tư duy nghiêm túc – chính là gửi đi một tín hiệu mạnh mẽ.
Tạo
ra các không gian vật chất cho cộng đồng.
Hầu hết các nghiên cứu về văn hóa tổ chức đều đề cập đến giá trị của sự
tương tác thân thiện. Mặc dù, theo định nghĩa, đó không phải là điều có thể
lên kế hoạch được, cơ may xảy ra sẽ tăng lên khi các thành viên của khoa có
thể tiếp xúc với nhau trong phòng bếp(14),
phòng thư giãn(15),
tại các bảng thông báo, và qua không gian điện tử. Trong tinh thần đó, khoa
Anh ngữ của Đại học Texas A&M ở College Station, mỗi tuần vào một thời điểm
thường lệ, cung cấp thức ăn nhẹ cho học viên và mời họ cùng vào phòng thư
giãn mới của khoa để nói lên bất cứ vấn đề gì mà họ cho là quan trọng.
Khuyến khích các sự kiện xã hội.
Mặc dù cộng đồng trí thức còn cần nhiều điều hơn nữa ngoài việc nhậu và chơi
banh mềm(16),
rõ ràng là các hoạt động xã hội sẽ tăng cường thêm [mối liên kết] cho một
cộng đồng đã có sẵn các mối quan hệ trí thức với nhau. Chẳng hạn như, nhiều
khoa toán có truyền thống dùng trà trưa – [đây là] những khoảng thời gian
thân mật khi học viên và thành viên của trường cùng tập họp lại để bàn cãi
về các ý tưởng và vấn đề. Những sự kiện như vậy cho phép học viên hiểu biết
hơn các thành viên của trường trong một khung cảnh thư giãn, thoải mái.
Có nhiều
cách để xúc tiến cộng đồng trí thức, nhưng điều quan trọng là không chỉ đơn
giản tạo nên duyên cơ mà còn để bảo đảm là chúng thực sự thúc đẩy việc phát
triển trí thức và chuyên môn của các nghiên cứu sinh. Mỗi chiến lược cần
phải được đánh giá theo ánh sáng của kết quả đã định. Thêm vào đó, ngay cả
nếu một cộng đồng trí thức vững mạnh đang hiện hữu, vẫn luôn có những thành
viên mới cần được gia nhập vào đời sống trí thức của khoa.
Điểm đó
đã được mang về nhà cho chúng tôi bằng những câu trả lời của nghiên cứu sinh
theo khảo sát của chúng tôi, trong đó chúng tôi đã yêu cầu họ “nói cho chúng
tôi nghe bất cứ điều gì mà anh/chị muốn cho chúng tôi biết cảm tưởng của
anh/chị về việc gia nhập cộng đồng.” Nhiều người trả lời đã viết rất hùng
hồn về kinh nghiệm của họ, cả tích cực lẫn tiêu cực. Một học viên từ khoa
Anh ngữ đã nói: “Cảm nhận [về] cộng đồng tại học viện thực sự là một trong
những yếu tố quyết định đã dẫn đường cho tôi chọn chương trình học của mình
so với các chương trình tương tự ở những học viện khác. Đặc biệt là trong
lĩnh vực nhỏ của tôi, tôi nhận thấy là các đồng nghiệp của tôi lúc nào cũng
sẵn sàng và thành tâm giúp nhau học tập, thảo luận với nhau về nghiên cứu
hiện tại của mỗi người, và chia sẻ kinh nghiệm và tài liệu (đặc biệt là với
giảng dạy). Không có cảm nhận về sự cạnh tranh gay gắt mà tôi thấy được tại
các học viện khác khi tôi đến thăm. Nói chung, tôi sẽ nói rằng tinh thần hội
đoàn giữa các nghiên cứu sinh đang tôn vinh môi trường học tập mà học viện
của tôi cung cấp.”
Những
lời trên nói lên tầm quan trọng của cộng đồng trí thức vào giai đoạn sớm
nhất của công trình tiến sĩ – thật ra, như là một nhân tố tác động lên việc
chọn chương trình. Với điều đó trong đầu, một vài chương trình đã và đang
đặc biệt chú tâm làm thế nào để học viên đến với khoa và trở thành bộ phận
của khoa mình.
Tính đa
dạng về thông tin cơ bản, tuổi tác, chủng tộc, và hành trang học thuật – một
mặt mạnh được hiểu theo nghĩa trí thức – đặc biệt có thể trở nên thành thách
thức. Để cố ứng xử với tính đa dạng đó – tôn trọng và khích lệ nó nhưng cũng
phải đảm bảo là học viên đạt được các mục tiêu của chương trình, Trường Giáo
dục tại Đại học Michigan ở Ann Arbor đã và đang tái cấu trúc kinh nghiệm năm
thứ nhất của nó, xây dựng các môn học cốt lõi cho tất cả các học viên mới.
Thêm vào việc trang bị cho các học viên một kinh nghiệm thích hợp và rõ ràng
bằng cách cùng ghi danh vào những lớp học và chia sẻ kinh nghiệm mới, cách
thức này còn có ý định “làm giàu kinh nghiệm chung cho học viên trước khi
học viên đi sâu vào chuyên ngành.”
Nhiều
chương trình của Carnegie cũng đang triển khai các chương trình cố vấn hệ
thống hóa cho các học viên mới. Ví dụ, khoa toán tại Đại học Nam California
phân cho các học viên mới một thành viên của trường và một người cố vấn là
nghiên cứu sinh lâu năm, đủ đảm bảo hai điểm tiếp cận khác nhau với cộng
đồng khoa.
Vì các
học viên mới rồi sẽ trở thành các thành viên có nhiều kinh nghiệm hơn của
cộng đồng khoa, điều quan trọng là việc chuyển giao nhiệm vụ từ người thụ
động sang làm người đóng góp chủ động hơn – hay là, như nhà tâm lý học
Jerome Bruner đã nói, từ “học về (learning about)” sang “học làm (learning
to be).” Làm thế nào mà bước quá độ đó, một bước cực kỳ quan trọng cho tất
cả các học viên tiến sĩ, xảy ra?
Theo các
học viên mà chúng tôi khảo sát, các hoạt động không chính thức thuộc loại
phổ biến nhất, chẳng hạn như cho và nhận phản hồi từ các bạn học viên và làm
cố vấn cho các học viên khác. Tin tốt là các học viên có lẽ tìm ra được cách
thức học tập lẫn nhau. Nhưng chúng tôi cũng tìm ra được những cơ hội đã bị
đánh mất; các khoa nên lợi dụng cơ cấu đang tồn tại để lôi cuốn học viên vào
các hướng chính qui hơn của cộng đồng – chẳng hạn như các ủy ban của khoa về
tuyển dụng và gia nhập. Những kinh nghiệm đó có thể cho học viên tiếp cận
thực tiễn thực tế với tầm nhiệm vụ mà họ sẽ gặp phải trong môi trường nghề
nghiệp và làm tăng đáng kể sự gắn bó của họ trong cộng đồng.
Dữ kiện
thu được cũng cho thấy là trong khi học viên thoải mái với nhau, nhiều người
vẫn chưa tìm ra cách thức gắn bó với các thành viên của trường, cả chính
thức lẫn không chính thức. Một lộ trình đơn giản là hỏi học viên về kinh
nghiệm của họ. Nhiều khoa đã có các “cuộc hội thảo tại tòa thị chính” rất
thành công – những cuộc tranh luận mở cho phép học viên đưa ra ý kiến phản
hồi. Cả các thành viên của trường lẫn học viên đều báo cáo việc thu thập
được rất nhiều những gì mà họ không mong đợi từ các cuộc gặp gỡ này. Sự
tương tác xuyên qua nhiệm vụ và thế hệ như vậy bảo đảm cho một cộng đồng
không chỉ giăng được một lưới đầy ý kiến hay, mà còn cổ vũ học viên làm
người tham gia trọn vẹn.
Cuối
cùng, nhiều chương trình Carnegie đã và đang đặt những điểm nhấn đặc biệt
lên sự phát triển về nhân dạng chuyên môn và trí thức của các học viên.
Chẳng hạn như, hãy xem xét chương trình liên ngành về khoa học thần kinh tại
Đại học Georgetown. Nhằm vào việc làm giảm bớt chiều hướng phân chia thứ bậc
giữa các thành viên của trường với các học viên, chương trình này sử dụng
đến việc viết giáo trình, học tập theo kinh nghiệm, và “ăn trưa thần kinh
học (neurolunch)” – một loại diễn đàn dành cho học viên trình bày nghiên cứu
của mình cho một nhóm thành viên và học viên của trường. Ví dụ, các học viên
tiến sĩ cũng được phép triển khai hằng năm một xê-mi-na nghiên cứu để xúc
tiến việc giao tiếp giữa các nhà khoa học, thu nhận phản hồi, và phát triển
kỹ năng trình bày thực tiễn. Thêm vào đó, họ cũng được yêu cầu hỗ trợ các uỷ
ban hành chính, chẳng hạn như các uỷ ban về ghi danh, chọn môn học, và tư
vấn cho sinh viên.
Lớn hơn
cả toàn bộ các hoạt động và cơ cấu của nó, cộng đồng trí thức là cả một sự
phản ánh và là một sản phẩm của sự trao đổi phong phú các ý tưởng và tiền đồ
tiêu biểu tốt nhất cuộc đời học giả. Cộng đồng trí thức được tập trung vào
kiến thức nhưng cũng được dựa vào quan hệ. Và tầm quan trọng của nó nằm
trong việc tạo ra môi trường mà trong đó tất cả các học viên có đủ phẩm chất
thành công như là người quản lý đầy trách nhiệm của ngành mình, công dân có
văn hóa, và người đóng góp cho xã hội rộng lớn hơn.
Thật ra,
việc tập trung vào cộng đồng trí thức cũng nhấn mạnh đến một sự thật cơ bản
về giáo dục sau đại học: cuối cùng thì đó là về sự học tập. Học tập là công
việc trung tâm, nhiệm vụ cốt lõi, của cả học viên lẫn thành viên của trường
– và việc học tập như đã đề cập thường là thứ đặc biệt vì nó mở ra mảnh đất
mới và xây dựng kiến thức mới. Hầu như các cuộc tranh luận về giáo dục bậc
cao trong thế kỷ qua là về tình trạng căng thẳng giữa nghiên cứu và giảng
dạy, và do đâu mà nghiên cứu đẩy lùi việc giảng dạy. Học tập, và cộng đồng
trí thức nuôi dưỡng việc học tập như vậy, có lẽ chỉ là mối liên hệ mà ở đó
cả hai chức năng cùng hoạt động theo cách thức hữu ích hơn, thống nhất hơn
cho giáo dục tiến sĩ. Và, dĩ nhiên, đó cũng là những điều kiện mà theo đó
việc hình thành các nhà học giả có thể xảy ra hữu hiệu nhất.
George E. Walker là phó chủ tịch nghiên cứu và hiệu trưởng trường sau đại
học tại Đại học Quốc tế Florida. Chris M. Golde là phó hiệu trưởng cho giáo
dục sau đại học tại Đại học Stanford. Laura Jones là giám đốc dịch vụ di sản
và nhà khảo cổ đại học tại Stanford. Andrea Conklin Bueschel là viên chức
chương trình cao cấp của Quỹ Spencer. Pat Hutchings là phó chủ tịch của Qũy
Carnegie cho sự Tiến bộ trong Giảng dạy. Bài này được viết lại theo cuốn
sách của họ, Sự hình thành các học giả: Nghĩ lại về giáo dục tiến sĩ cho
thế kỷ 21 (The Formation of Scholars: Rethinking Doctoral Education
for the Twenty-First Century,) được xuất bản vào tháng tới (tháng
01-2008) bởi Jossey-Bass.
Chú
thích
[của
người dịch]:
1. Doctoral
student (học viên tiến sĩ) hoặc graduate student (nghiên
cứu sinh). Tại Hoa Kỳ, cũng
như là ở Canada, chương trình đào tạo sau đại học gồm hai chương trình đào
tạo thạc sĩ và đào tạo tiến sĩ. Chương
trình đào tạo thạc sĩ thường gồm hai loại là nghiên cứu (nghĩa là, phần
nghiên cứu và luận văn chiếm 2/3 chương trình, còn các môn học cao cấp sau
đại học chiếm 1/3 chương trình) và cao học (nghĩa là, các môn học cao cấp
sau đại học chiếm gần như toàn bộ chương trình). Tuy nhiên, chỉ có loại thạc
sĩ nghiên cứu mới có đủ điều kiện tiếp tục lên bậc cao nhất là tiến sĩ (chỉ
có hướng nghiên cứu sâu), và học viên nào ghi danh vào loại thạc sĩ nghiên
cứu (có những luận văn thạc sĩ nghiên cứu có kết quả mới chẳng thua gì luận
văn tiến sĩ) cũng có thể được gọi là nghiên cứu sinh, giống như học viên
tiến sĩ cũng là nghiên cứu sinh. Bài này đề cập chủ yếu đến cấp tiến sĩ nên
nghiên cứu sinh ở đây là nghiên cứu sinh tiến sĩ, cũng như học
viên (student) là học viên tiến sĩ.2. Scholar
(học giả), còn có nghĩa là nhà nghiên cứu.
3. Faculty (trường
đại học). Ở Hoa Kỳ, cách tổ chức của một university (nên gọi là
đại học [tổng hợp]) là như sau: một university bao gồm nhiều
faculty (hay college, hoặc school) nên có thể gọi chung
là trường đại học. Riêng community college thực chất là
trường cao đẳng. Người đứng đầu một trường đại học được gọi là Dean.
4. Department
(khoa). Một faculty sẽ gồm có nhiều department nên có
thể gọi là khoa. Chẳng hạn như, Faculty of Applied Sciences
(tương đương với College of Engineering) thường bao gồm nhiều khoa
như Department of Mechanical Engineering, Dept. of Computer Eng.,
Dept. of Industrial Eng., Dept. of Chemical Eng., Dept. of
Civil Eng., v.v. Người đứng đầu một khoa được gọi là Head of
Department.
5. Doctoral
education (giáo dục tiến sĩ). Các từ điển Anh ngữ thường giải
thích là trong education (giáo dục) có training (đào
tạo), nên giáo dục tiến sĩ cũng là đào tạo tiến sĩ. Tuy nhiên, cần phân
biệt education là hệ thống (tổ chức, cơ cấu), với đối tượng là con
người; còn training là quy trình, với đối tượng là con người hoặc thú
vật.
6. “Chúng tôi” ở
đây là các tác giả cuốn sách The Formation of Scholars: Rethinking
Doctoral Education for the Twenty-First Century.
7. Ở Hoa Kỳ và
Canada, tùy trường đại học, một học viên sau khi ghi danh vào chương trình
tiến sĩ, từ 6 tháng đến 1 năm, phải trải qua một cuộc thi. Cuộc thi này có
nhiều tên gọi khác nhau: qualifying exam (thi khả năng nghiên cứu),
hay comprehensive exam (thi tổng hợp), hoặc pre-doc exam (thi
tiền- tiến sĩ). Cuộc thi này có thể được chia thành hai phần: viết và trình
bày. Phần viết gồm chủ đề chính của đề tài nghiên cứu và ba chủ đề phụ liên
quan. Trước khi đến phần trình bày, học viên phải nộp trước cho hội đồng
giám khảo một tiểu luận văn về đề tài nghiên cứu gồm các phần chính là tóm
tắt và đánh giá các cuốn sách tham khảo và nhất là các bài báo khoa học
[trong nước và trên thế giới] liên quan đến chủ đề nghiên cứu, đưa ra phương
pháp luận của đề tài nghiên cứu (mô hình và cách giải), kết quả mong muốn
đạt được, và nhất là đề cập đến những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu.
Sau đó, học viên phải trình bày đề tài nghiên cứu này trước hội đồng giám
khảo và sau hết là trả lời các câu hỏi từ hội đồng giám khảo.
8. Văn bằng đại
học cao nhất ở Hoa Kỳ và Canada là Philosophiae Doctor (viết tắt,
Ph.D.)
9. Một vấn đề
chưa có lời giải là gà và trứng thì cái nào có trước.
10. Trong khoa học,
một bầu không khí mang tính đúng đắn chính trị (political
correctness) không dễ làm cho khoa học phát triển.
11.
Undergraduate là đại học (bậc một), còn graduate là sau
đại học (bậc hai và ba).
12. Lĩnh vực nhỏ
ở đây là subarea (phân ngành). Có lẽ các tác giả muốn đề cập
đến bộ môn (division) thuộc một khoa.
13. “Teaching
commons,” trong đó commons theo nghĩa cổ là dân thường.
14. Tại các trường
đại học lớn, mỗi khoa, và ngay cả bộ môn, thường có phòng bếp với những
thiết bị tối thiểu như tủ lạnh, bếp, lò vi sóng, máy pha cà-phê, v.v. Nhân
viên, học viên, và các giảng viên đều được tự do sử dụng phòng bếp nhưng
phải theo đúng quy định. Phòng bếp thường được sử dụng nhiều nhất là vào giờ
ăn trưa.
15. Phòng thư giãn
là nơi mà mọi người có thể hàn huyên, có nhạc nhẹ, vào những giờ nghĩ giải
lao, hoặc có họp nhóm theo nhu cầu.
16. Cũng ở Bắc Mỹ,
các đại học lớn thường có trường thể dục với nhiều sân chơi và bộ môn thể
thao các loại. Không chỉ sinh viên, học viên, nhân viên, và giảng viên của
trường thể dục mà tất cả mọi người trong đại học đều có thể đăng ký sử dụng
các dịch vụ, các môn thể thao mà mình thích.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Hải
|