Bài học Ireland
Cuối năm 1983, tôi đến Ireland để làm nghiên cứu
khoa học trong một "postdoctoral fellowship" do Bộ Giáo dục
nước này tài trợ, tại Khoa Hoá học Trường University College
Dublin (UCD).
Khi tôi bước lên hải cảng Dún Laoghaire, hòn đảo này đang là
nước nghèo nhất trong 9 nước của Cộng đồng chung Châu Âu
(European Community).
Sau một thập niên gia nhập EC, thu nhập bình quân của dân
Ireland còn rất thấp so với các nước trong EC; hạ tầng cơ sở
không có gì nhiều, họ chưa xây dựng được một cây số xa lộ
nào cả, các trục giao thông chính vẫn là những quốc lộ hẹp
và nguy hiểm.
Nói chung, ở những năm đầu của thập niên 1980, kinh tế
Ireland không phát triển, không có công ăn việc làm cho một
thế hệ thanh niên trong một đất nước rất trẻ. Thời đó, thanh
niên Ireland tốt nghiệp xong đại học hay sau đại học chỉ
nghĩ đến việc đi... di cư, sang tìm việc làm ở London,
Paris, Boston, New York, Sydney,... Chỉ một tỉ lệ nhỏ ra
trường tìm được việc làm tại chỗ.
Đây là một chuyện di dân kinh tế bình thường mà người dân ở
xứ sở của James Joyce, Seán O'Casey, Bernard Shaw... này đã
làm từ bao thế hệ qua.
Điều đáng nói là số thanh niên này, với tấm bằng đại học hay
sau đại học của Ireland, họ được đón nhận dễ dàng ở các nước
nhập cư. Thời đó có câu đùa: "Sản phẩm xuất khẩu tốt nhất
của Ireland là thanh niên!".
Chỉ cần ở Dublin không lâu, từ công việc trong đại học, tiếp
xúc với đồng nghiệp, có dịp hướng dẫn sinh viên cử nhân, cao
học và tiến sĩ làm luận án, tôi nhận ra được ngay chất lượng
đào tạo rất cao của nền giáo dục đại học Ireland, dù phương
tiện và thiết bị cho giảng dạy và nghiên cứu vào thời đó vẫn
còn thiếu thốn hay thua kém so với các nước EC xung quanh.
Nói chung, dù họ còn nghèo, song học trò học ra học, thầy
dạy ra dạy, người nghiên cứu ra nghiên cứu. Và tất cả nền
giáo dục công lập, từ tiểu học đến đại học, đều được miễn
phí. Sinh viên nghèo được học bổng; giáo viên tiểu học và
trung học được hưởng lương cao hơn các ngành công chức có
bằng cấp tương đương.
Ngân sách nhà nước thiếu hụt, song Bộ Giáo dục Ireland lúc
đó vẫn lập ra những chương trình nghiên cứu sau tiến sĩ
(postdoctoral research programs), nhằm giữ lại hay thu hút
nhân lực cho bậc đại học.
Đó là một chính sách giáo dục chủ động, tích cực, không
những chỉ nhằm tạo nhân tài, mà còn nhằm giảm đi bất công xã
hội trong một đất nước vốn có nhiều bất công (do lịch sử
thuộc địa để lại). Với một nền giáo dục đó, con em các tầng
lớp nghèo có điều kiện hơn để vươn lên bằng chính khả năng
của mình, chứ không chỉ bằng tài sản của gia đình.
Tôi rời Ireland vào năm 1986, sau 3 năm ở UCD, với nhiều
nghiên cứu thành công và thích thú, để rồi khoảng 10 năm
sau, khi có dịp trở lại Dubblin, được ngạc nhiên chứng kiến
sự phát triển kinh tế của hòn đảo này, từ nước nghèo nhất,
trì trệ nhất, đang trở thành nước có tốc độ phát triển kinh
tế cao nhất, với thu nhập bình quân đạt mức cao nhất trong
các nước Liên minh Âu Châu hiện nay (27 nước).
Thanh niên Ireland không còn nghĩ đến việc di dân, nhiều
người trước ra đi nay về lại; nhà cửa, hãng xưởng, phi
trường, xa lộ... mọc lên; Dublin trở thành một thành phố quá
đắt đỏ so với thời tôi sống ở đó.
Giáo dục làm nên điều kỳ lạ
Tôi hỏi các đồng nghiệp về nguyên nhân của điều "kỳ diệu
kinh tế" (economic miracle) này, tất cả đều cho rằng đó là
nhờ kết quả của nền giáo dục. Thật vậy, ở những năm cuối
1990, khi nền công nghệ thông tin (IT) phát triển toàn cầu,
Ireland đã thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài, một phần
nhờ một chính sách đầu tư hấp dẫn và thuế khoá phù hợp, phần
khác là nhờ họ có sẵn một lực lượng nhân công (còn) rẻ và
giỏi ở nhiều trình độ khác nhau.
Thanh niên Ireland có học vấn, trước đây phải lang thang đi
làm khắp nơi, nay có dịp làm việc tại quê mình. Chất lượng
và trình độ giáo dục cao của nhiều thế hệ đáp ứng được nhu
cầu và cho phép các công ty quốc tế tiếp tục đầu tư.
Thành công về IT kéo theo các hãng công nghệ hoá học, dược
phẩm, năng lượng... cũng đầu tư nhiều vào đây. Có thể nói,
Ireland là một trong vài nước đã thành công việc phát triển
kinh tế nhờ vào IT và công nghệ mũi nhọn, và nhân tố cho sự
thành công đó là một nền giáo dục đại chúng, công lập, miễn
phí và chất lượng cao... xây dựng trong nhiều thế hệ, từ khi
còn rất nghèo.
Theo tôi, kinh nghiệm này của Ireland, với tất cả những hoàn
cảnh và điều kiện riêng của nước này, cho thấy vai trò của
nhà nước trong nền giáo dục. Trong mọi hoàn cảnh, một nhà
nước cho dân và vì dân phải tìm cách tổ chức tốt nhất nền
giáo dục, và không thể vì thiếu ngân sách để từ nhiệm, tìm
cách giao bớt "gánh nặng giáo dục" lại cho các thành phần
dân chúng.
Hiện nay ở Việt Nam, việc này được gọi là "xã hội hoá" và đã
được giới thiệu như một "triết lý giáo dục" mới (1). Trong
khuôn khổ của bài viết ngắn này, tôi chỉ xin được đưa ra hai
nhận xét:
a) Trong "Từ điển tiếng Việt" do Văn Tân chủ biên (1967), đã
có ghi từ xã hội hoá với định nghĩa: "Đem tư liệu sản xuất
của cá nhân làm của chung của xã hội" (như: Xã hội hoá các
phương tiện giao thông vận tải).
Gần đây hơn, "Từ điển tiếng Việt" do Hoàng Phê chủ biên
(2005), định nghĩa xã hội hoá là "làm cho trở thành của
chung của xã hội" (như: Xã hội hoá tư liệu sản xuất). Như
vậy, khi danh từ "xã hội hoá" được dùng trong nghĩa nôm na
là dân phải đóng tiền cho trường học, bệnh viện... thì hoàn
toàn ngược lại nghĩa đúng của nó.
b) Mọi người dân trong một nước đều không có thể đóng thuế
như nhau. Việc chia đều nghĩa vụ đóng tiền cho những việc
công ích như giáo dục, y tế,... là một bất công; xét cho
cùng không khác gì việc lấy tiền của (đa số) người nghèo cho
(số ít) người giàu.
Việc đóng học phí (và học phí khác nhau) trong các trường
tiểu học và trung học công lập, trước sau sẽ dẫn đến một bất
công xã hội khác, là cơ chế chọn lọc trẻ em bằng tiền (của
cha mẹ) chứ không chỉ bằng tài năng (của các em).
Và cuối cùng, trong một nền kinh tế thị trường, việc các cá
nhân tham gia quản lý trong một trường công lập dựa trên
việc đóng tiền, cùng với sự từ từ rút lui của Nhà nước, sẽ
có khả năng dẫn đến việc tư hữu hoá.
Tôi nghĩ rằng, với một ngân sách khá cao của Chính phủ Việt
Nam dành cho giáo dục (8,3% GDP, 2005)(2), việc tổ chức một
nền giáo dục có thể so sánh được với Ireland khi nước này
còn rất nghèo, là khả thi. Ở đây, vấn đề cần là giảm nhiều
lãng phí và tham nhũng trong ngành giáo dục, chứ không phải
tốn thêm thì giờ và công quỹ đi tìm những "triết lý" mới để
biện minh!
Ngày 30.7.2007
***
(1) Phan Xuân Sơn,
vietnamnet.vn/bandocviet/2007/07/723492/, ngày
28.7.2007.
(2) Vũ Quang Việt, 2007.