Ngày 4/2/2009 Bộ GD&ĐT ra dự thảo ban hành
“Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi”
bao gồm 29 chuẩn với 125 chỉ số nhằm đánh giá sự phát triển của trẻ 5
tuổi và là khung chuẩn cho giáo viên để soạn thảo khung chương trình dạy
học cho trẻ lứa tuổi này. Có một số điểm bất hợp lý căn bản cần bàn thảo
ở đây.
Nhầm lẫn quyền hạn
Về chức năng và quyền hạn ban hành “bộ chuẩn”, không biết hay chăng
là có sự nhầm lẫn nào hay không về quy định và quyền hạn trong việc ra
“bộ chuẩn sự phát triển trẻ 5 tuổi” hay là đề xuất khung chương trình
giảng dạy cho trẻ 5 tuổi của Bộ GD&ĐT.
Theo chúng tôi, Bộ GD&ĐT có quyền hạn đề xuất khung chương trình
giảng dạy cho trẻ em 5 tuổi cho giáo viên hơn là quyền hạn đề xuất tạm
gọi là “Bộ chuẩn trẻ phát triển 5 tuổi” nhằm để đánh giá sự phát triển
của trẻ, thuộc về giới y tế, cụ thể là liên ngành Nhi khoa chứ không
thuộc lĩnh vực giáo dục.
Có “bộ chuẩn phát triển của trẻ” hay không?
Về chuyên môn y khoa, chúng tôi không có cái gọi là “bộ chuẩn phát
triển”, bởi vì phát triển của trẻ em, bao gồm lớn lên (growth) và phát
triển (development), sẽ gọi tắt là phát triển trẻ, là một quá trình
động, phụ thuộc chính vào hai yếu tố di truyền và môi trường. Tuỳ thuộc
mức độ và thời điểm cũng như hoàn cảnh tác động của các yếu tố này mà
làm cho quá trình phát triển trở thành duy nhất cho mỗi cá thể. Mỗi một
cháu có một kiểu cách phát triển riêng không giống một cháu nào. Và ngay
ở cùng trong một gia đình, hai trẻ sinh đôi cũng không hoàn toàn giống
nhau về đặc điểm phát triển. Một số trẻ có thể phát triển tốt về một
khía cạnh hoặc một kỹ năng nào đó so với các trẻ khác cùng tuổi, nhưng
cháu lại có thể kém hơn các bạn ở một số điểm khác. Và vì thế không có
một “chuẩn” nào cả, mà trong giới chuyên môn chúng tôi có thuật ngữ ‘mốc
phát triển’ (milestone). Nếu nhìn vào những con số “chuẩn” đến chính xác
từng cm, từng giây, từng hành vi nhỏ của cả 125 chỉ tiêu của “bô chuẩn”
quy định cho một trẻ 5 tuổi là một điều bất hợp lý và thiếu tính khoa
học. Thí dụ, một trẻ 5 tuổi ở nông thôn có thể có kỹ năng về vận động
thô (leo trèo, chạy nhảy) tốt hơn so với trẻ tương ứng ở thành phố;
ngược lại trẻ ở thành phố có thể phát triển sớm hơn về mặt cảm xúc xã
hội hơn so với chúng bạn ở nông thôn. Và những sự khác biệt đó không đủ
để phản ảnh được yếu tố chậm hay bất thường nào cho cả hai nhóm, vì phát
triển của trẻ là một quá trình động cần có thời gian hoàn thiện.
Tuy nhiên, để có thể nhận dạng sớm được yếu tố không bình thường hoặc
chậm phát triển của trẻ mà giới chuyên môn phải tìm ra một số các chỉ số
tham khảo để giúp cho phụ huynh và giáo viên của trẻ có thể dựa vào đó
mà đánh giá sơ bộ xem trẻ có nằm trong giới hạn chung, tính trên số đông
trẻ cùng lứa tuổi hay không; và có những dấu hiệu nào nghi ngờ là trẻ có
thể bị chậm phát triển so với lứa tuổi đó; từ đó có thể phát hiện sớm và
đưa đến cơ sở y tế hoặc bác sĩ chuyên khoa đánh giá cụ thể hơn. Ngoài ra
cũng dựa vào các đặc điểm phát triển chung này mà phụ huynh và giáo viên
có thể giúp cho trẻ hoàn thiện kỹ năng thích ứng với tuổi.
Vì phát triển là yếu tố cá nhân, nên mốc phát triển tính chung cho
trẻ từng lứa tuổi hoàn toàn không phản ánh được đặc điểm của từng cá
thể, độ dao động rất lớn, và cũng không phản ánh được trẻ có bị chậm hay
không bắt kịp sự phát triển của trẻ so với trẻ cùng tuổi hay không. Điều
này chỉ có thể xác định được thông qua đánh giá kết hợp đa chuyên khoa y
tế, bằng nhiều biện pháp chuyên môn cho từng trường hợp cụ thể.
Có nhất thiết phải có một “bộ chuẩn” riêng hay không?
Phát triển ở trẻ em cho đến nay vẫn được coi là một lĩnh vực khó đối
với giới chuyên khoa. Cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều thuyết về lĩnh
vực phát triển của trẻ và vẫn chua có một sự thống nhất nào. Quá trình
phát triển của trẻ là một quá trình động, liên tục từ sơ khai cho đến
hoàn thiện theo thời gian, và không thể xác định được một mốc tuổi chuẩn
xác nào để xác nhận kết thúc phát triển của một chức năng về thể lực hay
tinh thần cụ thể. Nhưng tựu trung lại, giới chuyên môn đồng thuận là có
hai yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình phát triển của trẻ là di truyền
và môi trường. Tuỳ thời điểm mà mỗi yếu tố đóng góp và tương tác ở mức
độ khác nhau vào quá trình lớn lên và phát triển cho một cá thể trẻ.
Trong những năm đầu đời, yếu tố di truyền đóng góp nhiều hơn trong sự
phát triển của trẻ. Và cho đến nay, chưa có một bằng chứng nào cho thấy
yếu tố chủng tộc và di truyền có tác động khác nhau đối với phát triển
trí tuệ giữa các vùng địa dư và chủng tộc.
Yếu tố môi trường như gia đình, xã hội, văn hoá có tác động ảnh hướng
đến quá trình phát triển về xã hội, tư duy nhiều hơn là thể lực. Thế
nhưng mục đích chính của việc đánh giá các chức năng tư duy, cảm xúc và
xã hội của trẻ em không phải để đánh giá biểu hiện hành vi đạo đức của
trẻ mà để nhận dạng phát hiện sớm về những lệch lạc về chức năng hành vi
theo chiều hướng bệnh lý để can thiệp kịp thời. Lệch lạc về hành vi ở
trẻ có thể là bệnh lý thực thể và cũng có thể là bệnh lý tâm thể. Thí dụ
như chậm phát triển ngôn ngữ ở một mức độ nào đó của một trẻ có thể là
biểu hiện của một rối loạn di truyền bệnh Down (bệnh thực thể), nhưng
cũng có thể là biểu hiện của chứng tự kỷ (bệnh lý tâm thể).
Dựa trên hai đặc điểm đó, có thể nói rằng sự phát triển của trẻ em
trên toàn thế giới ở cùng một lứa tuổi nếu tính trên số đông là tương
đồng nhau. Sự khác biệt chẳng qua là do yếu tố văn hoá và xã hội, nhưng
đó là tính số đông. Còn ngay cả trong cùng một đơn vị địa dư, các yếu tố
chung đó cũng không thể áp dụng được cho một cá thể nào cả, mà chỉ là
trị số tham khảo.
Cho đến nay, giới chuyên khoa trên thế giới cũng có nhiều bộ chỉ số
đánh giá mốc phát triển của trẻ, có thể khác nhau về những chi tiết nhỏ,
nhưng nhất quán về các chỉ số phát triển thể chất cũng như tinh thần
được chia làm 4 mục: phát triển thể lực (hoạt động thô và hoạt động tinh
tế), phát triển về nhận thức/trí tuệ, phát triển về cảm xúc xã hội và
phát triển về ngôn ngữ. Để giúp cho giới bác sĩ gia đình, người nuôi
dưỡng trẻ, và làm việc trực tiếp với trẻ, thì có một số các chỉ tiêu
đánh giá nhanh về sự phát triển của trẻ ở từng giai đoạn tuổi, và điều
này đã trở thành giáo khoa.
Với trẻ 5 tuổi, chỉ cần trên dưới 30 chỉ số cho 4 lĩnh vực trên đây
là có thể sơ bộ đánh giá xem một trẻ có mức độ phát triển nằm trong số
đông các cháu cùng lứa tuổi hay không. Và đi kèm theo là cũng khoảng 30
chỉ số khác là những dấu hiệu coi là khả nghi cháu có thể bị chậm phát
triển hơn so với các trẻ khác cùng lứa tuổi. Việc đánh giá mức độ phát
triển của trẻ cũng không phải diễn ra một lần, mà là một sự quan sát
thường xuyên, ghi nhận ở các thời điểm khác nhau. Nếu trẻ có các dấu
hiệu khả nghi theo hướng dẫn, thì cha mẹ hoặc giáo viên sẽ gửi cháu đến
bác sĩ chuyên khoa để khám và xác định.
Vì thế, ở Việt nam chúng ta không nhất thiết phải có một bộ chỉ số
riêng để đánh giá các giai đoạn phát triển của trẻ, mà nó đã là kinh
điển trong giáo khoa y khoa.
Tóm lại, việc Bộ GD-ĐT đưa ra “bộ chuẩn phát triển của trẻ 5 tuổi” là
không hợp lý cả về mặc chức năng lẫn chuyên môn. Các chỉ số đánh giá
phát triển của trẻ là phạm vi của y tế, còn nội dung của “bộ chuẩn” này
đưa ra hoàn toàn bất hợp lý về mặt khoa học, không những không được coi
là chuẩn để đánh giá mà cũng không phản ánh được yêu cầu của một bộ chỉ
số đánh giá sự phát triển của trẻ. Bộ chỉ số đánh giá mốc phát triển của
trẻ không phải là tiêu chuẩn nhằm để xác định trẻ có đạt chuẩn hay không
đạt được chuẩn của lứa tuổi mà chỉ là một số chỉ số sàng lọc giúp cho
những người chăm sóc trẻ hàng ngày có thể phát hiện sớm những biểu hiện
của các khiếm khuyết về mặt tâm lý, bệnh tâm thể và thực thể của trẻ để
có thể can thiệp hoặc ngăn ngừa kịp thời cho trẻ ở mức tốt nhất. Ngoài
ra cũng có thể dựa vào đó mà có chương trình huấn luyện phù hợp cho các
hoạt động thể lực và trí tuệ của trẻ.
Phụ lục:
Mốc phát triển của trẻ 5 tuổi
Một trẻ 5 tuổi tính trung bình có thể… |
Các dấu hiệu có thể có vấn đề… |
Vận động thô |
Đi lại dễ dàng trên một lối hẹp |
Dễ mất thăng bằng khi đi lại |
Chạy nhẹ nhàng trên đầu ngón chân |
Khó khăn và không đồng bộ được khi
chạy, dễ vấp ngã |
Năng hoạt và thành thạo khi leo,
trượt, đánh đu… |
Sợ hay tránh né các trò chơi ở sân
chơi (đu quay, cầu tuột…) |
Đứng bằng một chân (cả trái và
phải) khoảng 8-10 giây |
Không thể đứng bằng một chân hơn
2-3 giây |
Nhảy lò cò từ 10 lần trở lên (cả
hai chân) |
Không nhảy lò cò được 4-5 lần, kể
cả hai bên |
Bắt bóng bằng tay, tung và đá bóng
dễ dàng |
Không có khả năng này |
Chạy xe đạp không cần bánh phụ |
Không thể đạp được bàn đạp của xe
ba bánh hoặc xe hai bánh có bánh phụ |
Vận động tinh tế |
Xâu kim lớn |
Không thể xâu được kim lớn |
Nhìn vẽ lại (copy) các hình tam
giác, vòng tròn, đường thẳng |
Không thể nhìn vẽ lại các hình tam
giác, vòng tròn, đường thẳng |
Bắt đầu học viết chữ (như tên) |
Không thể nhìn viết lại được chữ mà
trẻ có thể phát âm hay đọc được |
Mô tả chi tiết khi vẽ (như cửa sổ
của ngôi nhà, rèm cửa..) |
Không vẽ được bức tranh đơn giản |
Thể hiện tiến bộ trong cách sử dụng
kéo (cắt ra các hình đơn giản) |
Sử dụng bút chì và kéo khó khăn |
Sử dụng được dụng cụ gắp thức ăn |
|
Thường thích tay sạch sẽ trước khi
vào học |
Không có ý thích tay sạch sẽ (do dơ
bẩn khi chơi) |
Ý thức |
Có thể bắt chuyện có chủ ý |
Thường xuyên gặp khó khăn trong
việc sử dụng từ đơn |
Có vài lỗi văn phạm |
Mắc lỗi văn phạm thường xuyên |
|
Không có khả năng trả lời câu hỏi
(tại sao, cái gì) |
|
Không thể hiểu hoặc giải thích được
nghĩa từ thông thường |
Hiểu được đối nghĩa |
|
Biết được sự giống nhau giữa các
vật |
|
Hiểu được giới từ (như là ở trong,
ở ngoài, bên cạnh) và đại từ nhân xưng (như con, chị, anh..) |
Mắc lỗi văn phạm, nhân xưng, hoặc
giới từ |
|
Thầy cô giáo mẫu giáo phàn nàn về
khả năng tiếp thu của trẻ |
|
Không thể lặp lại được một câu có 8
từ trở lên |
Xã hội |
Biết địa chỉ nhà (số nhà, tên
đường) |
|
Sử dụng được dụng cụ ăn |
Không tự ăn và mặc quần áo được |
Tự mặc quần áo, đi giày trừ một số
loại giày có dây hoặc nút cài phức tạp |
|
Có thể giải quyết một số chuyện:
thương lượng, nài nỉ, chia sẻ, tránh xung đột… |
Không có khả năng hoặc không hứng
thú tham gia các trò chơi hoặc sinh hoạt theo nhóm |
|
Không có kỹ năng giải quyết vấn đề
nếu việc xảy ra không theo ý muốn |
Trí tuệ |
Nhận dạng được tiền xu, tiền giấy |
Không có ý niệm gì về tiền, số và
thời gian |
Đếm được 10-20 vật |
|
Biết khái niệm thời gian sáng,
chiều |
|
Có thể so sánh (nhanh hơn, chậm
hơn) |
|
|
Chơi ở một trình độ khác hẳn với
bạn cùng lứa |
|
Có những dấu hiệu chưa đủ đến
trường |
Nguồn trích: Bộ Y tế, Tiểu bang
Queensland, Úc
www.health.qld.gov.au |