Những bài
cùng tác giả
Trong
một bài viết trước, tôi có viết rằng học vị tiến sĩ (Doctor of Philosophy,
thường
viết tắt là Ph.D) là một văn bằng cao nhất trong hệ thống văn bằng đại học.
Xã hội kính trọng những người có học vị tiến sĩ và gọi họ bằng danh xưng
“Doctor”.
Ở nước ta ngày xưa, họ là những
“ông
nghè” được xã hội rất trân trọng.
Ngày nay ở nước ta, có nhiều sinh viên có ý định theo học chương
trình tiến sĩ. Đó là một phát triển đáng mừng, vì các vị tiến sĩ là những
người đóng vai trò rường cột cho nền khoa học nước nhà, và là một lực lượng
giảng dạy tương lai. Thế nhưng có vài dấu hiệu cho thấy động cơ của việc
theo học tiến sĩ hình như không phải để đi tìm sự thật khoa học hay mở
mang trí tuệ,
mà chỉ để có cái danh “tiến sĩ” trước tên mình. Một số khác thì vì lí do
thăng quan tiến chức nên tìm mọi cách theo học và “lấy cho được” học vị tiến
sĩ. Thiết tưởng đây là những ngộ nhận nguy hiểm về học vị tiến sĩ cần phải
được giải thông.
Trong bài viết này tôi sẽ nêu ra một số câu hỏi để thí sinh trả
lời xem mình có phải là người thích hợp và xứng đáng để theo học tiến sĩ hay
không.
Những
câu hỏi thí sinh cần hỏi trước khi đệ đơn xin học tiến sĩ
Thứ
nhất, mình có muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học không?
Trước khi đệ đơn xin theo học chương trình tiến sĩ, thí sinh nên cẩn thận
cân nhắc mục tiêu lâu dài của mình. Bởi vì để có được học vị tiến sĩ thí
sinh phải làm nghiên cứu; do đó, thí sinh phải tự hỏi: nghiên cứu khoa học
có phải là sự nghiệp mình muốn dấn thân hay không? Nếu câu trả lời là
“muốn” thì học vị tiến sĩ là một “giấy thông hành” cho con đường tiến thân.
Cố nhiên cũng có một số người
tham gia nghiên cứu khoa học dù họ không có học vị tiến sĩ, nhưng đây là
những trường hợp
ngoại lệ. Nếu câu trả lời là “không”, thì học vị tiến sĩ không phải dành
cho thí sinh.
Thứ
hai, mình có muốn theo đuổi sự nghiệp khoa bảng hay không? Học
vị tiến sĩ là một cái “chứng từ” để bước vào hay được “kết nạp” vào sự
nghiệp khoa bảng (academic career). “Khoa bảng” ở đây được hiểu là giảng
dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Cố nhiên, vẫn có người có thể trở thành
giáo sư dù không có học vị tiến sĩ, nhưng cơ hội tiến thân trong các nấc
thang khoa bảng ngày nay cho những cá nhân như thế không mấy cao. Nhiều
trường đại học lớn trên thế giới đòi hỏi các giảng viên và giáo sư hay các
nhà nghiên cứu phải có học vị tiến sĩ. Tại sao? Tại vì họ muốn đảm bảo
trường đại học có đầy đủ chuyên gia để giảng dạy các môn học cấp cao và bắt
buộc các chuyên gia này phải làm nghiên cứu khoa học. Phần lớn giáo sư đại
học có học vị tiến sĩ, nhưng không phải ai có bằng tiến sĩ đều có thể trở
thành giáo sư.
Nếu mục tiêu của thí sinh là dấn thân vào quản trị thương trường,
kĩ nghệ và khoa học (như muốn làm giám đốc doanh nghiệp, giám đốc các cơ sở
khoa học) hay các chức vụ hành chính, hay các chức vụ mang tính quản lí
trong hệ thống chính phủ thì thí sinh không nên theo học chương trình tiến
sĩ (mà nên theo học chương trình thạc sĩ quản trị kinh doanh hay quản trị
hành chính, MBA – Master of Business Administration), bởi vì cốt lõi của học
vị tiến sĩ (và cũng là khía cạnh dùng để phân biệt học vị tiến sĩ với các
học vị đại học khác) là nghiên cứu khoa học, không phải quản trị.
Tôi biết ngày nay có đại học đưa ra chương trình huấn luyện Tiến sĩ quản
trị hành chính (Doctor of Business Administration), nhưng mục tiêu vẫn là
đào tạo nhà nghiên cứu và giáo sư.
Tự
đánh giá mình: có hội đủ điều kiện để trở thành tiến sĩ hay không?
Thật
là khó tự đánh giá khả năng của mình, nhưng những đề mục sau đây có thể giúp
cho thí sinh tự hỏi và trả lời:
·
Khả
năng học vấn.
Trong khi theo học chương trình cử nhân, thí sinh thường hay đạt điểm cao
hay thường đứng đầu lớp hay đứng sau cùng trong lớp? Kì thi trung học thí
sinh đạt bao nhiêu điểm? Ở các đại học Úc, thí sinh theo học tiến sĩ thường
có bằng cử nhân hạng danh dự (honours) hay có bằng thạc sĩ.
·
Thời
gian.
Thí sinh có sẵn sàng giải quyết một dự án nghiên cứu hay một vấn đề khó khăn
mà mình chưa bao giờ làm trước đây hay không? Chương trình học tiến sĩ
thường kéo dài nhiều năm (tối thiểu là 3 năm, thường là 4-6 năm) với lao
động cật lực. Thí sinh có sẵn sàng hi sinh và bỏ qua các hoạt động và sinh
hoạt thường ngày khác để theo đuổi nghiên cứu khoa học hay không?
·
Sáng
tạo.
Khám phá trong nghiên cứu khoa học thường xảy ra khi (i) nhà nghiên cứu nghĩ
ra một vấn đề mới; hay (ii) nhà nghiên cứu thẩm định một vấn đề cũ bằng một
phương pháp mới. Vì thế trước khi theo học tiến sĩ thí sinh nên tự xét mình
có cảm hứng giải quyết vấn đề (problem solving) hay không? Thí sinh đã
chuẩn bị cho những kì “nặn óc”, động não và những suy nghĩ trừu tượng hay
không? Thí sinh có thích học toán học cao cấp không?
·
Tính
tò mò cao độ.
Nghiên cứu đòi hỏi tính tò mò, nghi ngờ, và chất vấn. Có khi nào thí sinh
cảm thấy như bị cưỡng bách để tìm hiểu cho được thế giới chung quanh và tìm
hiểu sự việc hoạt động hay xảy ra như thế nào? Tính tò mò làm cho nghiên
cứu khoa học dễ dàng hơn. Thí sinh có đáp ứng được những tò mò riêng tư của
mình hay không?
·
Thích
ứng.
Kinh nghiệm người viết bài này cho thấy rất ít thí sinh sẵn sàng chuẩn bị
cho một chương trình học tiến sĩ. Họ cảm thấy chương trình học hoàn toàn
khác biệt với các chương trình cử nhân và thạc sĩ. Phần lớn thí sinh cảm
thấy như mình bước vào một thế giới mới, một thế giới mà cái gì cũng có vẻ
bất định, và hình như chẳng ai biết được câu trả lời. Vì thế, câu hỏi thí
sinh cần phải tự trả lời là: mình có khả năng thích ứng với một môi trường
như thế hay không? Thí sinh có chịu đựng nỗi tình huống mà hành trình đi
tìm lời giải đáp cho vấn đề dù không ai biết chắc câu hỏi chính xác là gì
hay không?
·
Năng
động.
Đến lúc thí sinh xong chương trình cử nhân hay thạc sĩ, thí sinh thường quen
với hệ thống thang điểm trong mỗi kì học hay kì thi. Trong một chương trình
huấn luyện tiến sĩ, thí sinh không có thi cử như thời cử nhân, việc nghiên
cứu cũng ít khi nào được phân chia một cách rành rọt, giáo sư hướng dẫn
không phải lúc nào cũng bên cạnh để chỉ bảo từng việc, và thí sinh không
nhận điểm gì cả. Thí sinh có năng động để tự mình làm việc với sự hướng dẫn
và giám thị tối thiểu của giáo sư hay không?
·
Cạnh
tranh.
Khi theo học tiến sĩ, thí sinh phải chấp nhận cạnh tranh cùng các thí sinh
khác, không những tại trường mình đang nghiên cứu, mà còn cạnh tranh với các
thí sinh khác trên thế giới. Cạnh tranh để hoàn tất nghiên cứu trước, để
được giải thưởng, để được công bố nghiên cứu trước … Một luận án mà không có
một giải thưởng nào hay không có một bài báo nào trên tập san khoa học thế
giới là một luận án tầm thường. Thí sinh có sẵn sàng tham dự vào một cuộc
thi đua như thế hay không? Trong vài ngành thực nghiệm, vì cạnh tranh, thí
sinh phải làm việc ngày và đêm trong phòng thí nghiệm hay trong phòng máy
tính (có khi đến 12 giờ khuya) để hoàn tất nghiên cứu trước “đối phương”.
Thí sinh có sẵn sàng cho một cuộc chạy đua như thế không?
·
Tính
chín chắn.
So với chương trình cử nhân và thạc sĩ, chương trình tiến sĩ là một
chương trình không có cấu trúc chặt chẽ. Thí sinh có tự do để theo đuổi mục
tiêu nghiên cứu của mình đề ra, tự do hoạch định việc làm hàng ngày cho
chính mình, và tự do theo đuổi các ý tưởng khác (nhưng không thể bỏ qua mục
tiêu của mình). Thí sinh có sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm cho chính mình
hay không? Sự thành công hay thất bại trong việc theo học tiến sĩ tùy thuộc
một phần lớn vào thí sinh.
Một
vài cảnh báo
Một số
thí sinh theo học tiến sĩ vì những lí do và động cơ sai lầm. Điều này dẫn
đến hiện tượng thí sinh cảm thấy thất vọng sau một thời gian theo học, vì
yêu cầu lớn quá. Do đó, trước khi dấn thân vào chương trình học tiến sĩ,
thí sinh cần phải nhận thức rõ ràng rằng:
·
Học vị
tiến sĩ không có nghĩa là sẽ tự động đem lại thanh thế hay uy danh cho cá
nhân.
Hầu hết các thí sinh đã đạt được văn bằng tiến sĩ đều cảm thấy tự hào về nỗ
lực và kết quả của việc phấn đấu trong học hành nghiên cứu. Tuy nhiên, thí
sinh phải hiểu rằng một khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có thể làm việc với
nhiều nhà khoa học khác cũng có bằng tiến sĩ. Học vị tiến sĩ mới chỉ là
bước đầu vào nghiên cứu khoa học, nó chẳng đem lại uy danh cho người có học
vị nếu người đó không có công trình nghiên cứu nào có giá trị.
·
Học vị
tiến sĩ không tự động nâng giá trị ý kiến của thí sinh.
Nhiều người tin rằng một khi họ có văn bằng tiến sĩ trong tay, công chúng sẽ
tự nhiên kính trọng ý kiến của họ. Niềm tin này hoàn toàn sai. Nhiều người
có học vị tiến sĩ có thể am hiểu và uyên bác về một lĩnh vực chuyên môn hẹp
nào đó, nhưng không phải là chuyên gia của mọi vấn đề khác. Sự kính trọng
phải được chứng minh qua hành động và bản lĩnh của người phát biểu, chứ
không tự động mà có được qua danh xưng “tiến sĩ”.
·
Học vị
tiến sĩ không phải là mục tiêu sau cùng trong học hành, nghiên cứu.
Học vị tiến sĩ chuẩn bị thí sinh vào sự nghiệp nghiên cứu. Nếu thí sinh chỉ
muốn có mảnh giấy để treo trên tường thì không nên theo đuổi học vị tiến
sĩ. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có cơ hội để so sánh thành quả của
mình với các nhà khoa học khác. Thí sinh sẽ nhận thức rằng cái được “tính
sổ” không phải là danh xưng hay học vị tiến sĩ, mà là nghiên cứu khoa học do
chính thí sinh tiến hành và hoàn tất.
·
Học vị
tiến sĩ không bảo đảm thí sinh sẽ có công ăn việc làm ngay.
Có khi ngược lại: sinh viên tốt nghiệp tiến sĩ có thể khó tìm việc làm hơn
là sinh viên tốt nghiệp cửa nhân hay thạc sĩ, bởi vì như nói trên tiến sĩ là
những nhà nghiên cứu. Một số công ti không muốn và không thích mướn những
người với văn bằng tiến sĩ cho những việc không dính dáng vào nghiên cứu.
Thêm vào đó là một khi nền kinh tế bị suy yếu, tất cả thành viên trong xã
hội đều chịu chung số phận. Thật vậy, một số công ti giảm thiểu nghiên cứu
trước khi giảm thiểu sản xuất, và tình trạng này có thể là một mối nguy cơ
cho những người có văn bằng tiến sĩ.
·
Học vị
tiến sĩ không phải để gây ấn tượng trong gia đình hay bạn bè.
Người thân trong gia đình và bạn bè thí sinh có lẽ rất hồ hởi và tự hào khi
thí sinh vào học chương trình tiến sĩ, bởi vì họ nghĩ thí sinh sẽ trở thành
một ông nghè, một “doctor” trong tương lai. Nhưng văn bằng tiến sĩ chỉ là
giấy thông hành cho nghiên cứu, chứ không phải để lấy le với người thân, bạn
bè hay với xã hội. Không phải lúc nào cũng đòi người khác phải gọi mình là
ông / bà “tiến sĩ”.
·
Học vị
tiến sĩ không phải là cái cớ để thí sinh thử xem mình thông minh cỡ nào.
Có một vài thí sinh nghĩ rằng học tiến sĩ là một thách thức và họ muốn chơi
trò thách thức xem xem tri thức của mình cỡ nào. Rất tiếc, quan điểm này
sai, bởi vì chương trình huấn luyện tiến sĩ không phải để thí sinh cân não
hay để thử khả năng tri thức. Ngoại trừ thí sinh dành trọn thì giờ và dấn
thân vào học hành để đỗ đạt, thí sinh sẽ không thể nào có được văn bằng tiến
sĩ chỉ vì mình “thông minh”. Như nói trên, thí sinh phải làm việc nhiều giờ
trong ngày, phải có khi thức đêm trong phòng thí nghiệm hay thư viện, phải
chuẩn bị đương đầu với những thất bại, phải chuẩn bị động não để học cái mới
và suy nghĩ cái mới.
·
Học vị
tiến sĩ không phải để kiếm nhiều tiền.
Thí sinh tốt nghiệp tiến sĩ thực ra không có lương bổng cao hơn các thí sinh
với bằng cử nhân hay người công nhân bình thường trong hãng xưởng. Xin nhắc
lại: học tiến sĩ là để trở thành nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và cái quan
tâm đầu tiên của nhà khoa học là sự thật, chứ không phải sự giàu có về tiền
bạc. Tất nhiên, có nhiều khi sự thật và khám phá cũng đem lại một nguồn tài
chính lớn cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là mục tiêu để
theo học tiến sĩ.
·
Học vị
tiến sĩ không có nghĩa là một lựa chọn tốt nhất trong đời.
Cống hiến cho xã hội có nhiều cách và cuộc đời có nhiều lựa chọn, và học vị
tiến sĩ chỉ là một trong số hàng trăm lựa chọn. Có lẽ thí sinh sẽ ngạc
nhiên khi đọc câu phát biểu này, nhưng đó là một thực tế. Thật vậy, đối với
nhiều thí sinh, học vị tiến sĩ có thể là một sự nguyền rủa! Thí sinh phải
tự hỏi mình muốn làm người lãnh đạo trong những người có văn bằng thạc sĩ,
hay là làm một nhà nghiên cứu tầm thường. Thí sinh phải biết và quyết định
mình muốn gì, và nghề nghiệp nào sẽ kích khích mình nhiều nhất hay đem lại
hạnh phúc cho mình nhất.
Vài
điều tích cực về tiến sĩ
Mặc dù
những cảnh báo trên là hoàn toàn sự thật và có thể xảy ra cho thí sinh,
nhưng tôi phải công bằng mà nói rằng cũng có một vài “an ủi” cho thí sinh
nào cảm thấy mình có đủ khả năng và đức tính để theo học tiến sĩ. Thứ nhất,
thí sinh có thể tự hào rằng mình đã hoàn tất chương trình học, hoàn tất
nghiên cứu, và được trao văn bằng tiến sĩ. Nếu thí sinh có khả năng và đam
mê, sự nghiệp nghiên cứu khoa học có thể đem lại cho thí sinh nhiều phần
thưởng vật chất và tinh thần có giá mà các ngành nghề khác không có được.
Thứ
hai, trong khi theo học tiến sĩ hay sau khi tốt nghiệp, thí sinh có thể sẽ
gặp gỡ và làm việc với những người thông minh nhất trên hành tinh này. Thí
sinh sẽ tiếp cận và tiến dần đến những lí tưởng và ý tưởng không nằm trong
tầm tay của mình, và để làm việc đó, thí sinh sẽ cảm thấy tri thức mình
trưởng thành thêm. Thí sinh sẽ giải quyết
nhiều vấn đề mình chưa bao giờ gặp trước đó.
Thí
sinh sẽ khám phá các khái niệm chưa bao giờ được nghe đến. Thí sinh sẽ phát
hiện những nguyên lí có thể làm thay đổi xã hội và con người.
Thứ ba
là lí tưởng sống của người làm nghiên cứu khoa học rất có ý nghĩa. (Tôi có
thể nói lại câu này mà không sợ bị chê là “nói ngoa”.) Nói về niềm hân hoan
trong nghiên cứu, có một “chân lí” mà có lẽ bất cứ nhà khoa học nào cũng
đồng ý: trong các hoạt động của con người nghiên cứu khoa học là lẽ sống có
ý nghĩa nhất. Tại sao nhà khoa học phải tiêu ra nhiều giờ trong phòng
nghiên cứu, mài mò sách vở, bận tâm với từng con số, quan tâm đến từng biểu
đồ, trong khi họ có thể tiêu thì giờ với gia đình để làm cỏ trong vườn, hay
tiêu ra thì giờ với bè bạn trong quán cà phê, quán nhậu ?! Đúng là nhà khoa
học cũng có thể có một cuộc sống gia đình như hàng triệu triệu người khác,
tức là làm những việc trong gia đình như bao nhiêu người khác trên thế giới
này, nhưng cái khác nhau là thay vì làm những việc đó, nhà khoa học có thể
làm việc trong một phòng thí nghiệm, trong phòng máy tính, trong thư viện,
bên giường bệnh với bệnh nhân, hay thậm chí trong chuồng … chuột, v.v… nơi
mà họ có thể khám phá những điều thú vị nhất trên đời mà chưa có người nào
biết đến. Có thể nói nghiên cứu khoa học là một niềm vui tuyệt đối. Còn gì
vui hơn khi khám phá của mình đem lại lợi ích cho hàng triệu người trên thế
giới, như khám phá vi khuẩn H. pylori của giáo sư Marshall, người vừa được
giải Nobel y học vừa qua.
Mục
đích thực và chính của việc học hành là để mở mang trí tuệ, trau dồi kiến
thức, rèn luyện nhân cách, và làm người hữu ích cho xã hội. Bằng cấp không
phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là những phân chia đẳng cấp khoa
bảng rất tương đối. Bằng cấp, dù là học vị cao nhất như tiến sĩ, chỉ là một
bước đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó chưa nói đủ về khả năng chuyên
môn của nhà khoa học. Tương tự, một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không
phản ánh chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân
loại. Người trí thức chân chính chỉ nghĩ đến những đóng góp có giá trị nhằm
đem lại phúc lợi thực sự cho nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học
vị, học hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong cộng đồng.
Xin mời đọc Trang Nguyễn Văn Tuấn
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
²
|