Kỳ thi tốt
nghiệp THPT vừa kết
thúc. Chúng ta thấy ngay
thành công của một kỳ
thi chống gian lận và
chống bệnh thành tích.
Nếu như trước đây năm
nào tỷ lệ tốt nghiệp của
mọi tỉnh , thành phố hầu
như đều đạt trên 90% thì
năm nay hầu như chỉ có
TP Hồ Chí Minh (95,1%)
và Nam Định (90,31) là
đạt được tỷ lệ này. Đạt
tỷ lệ trên 70% còn có
Thái Bình (86,39%) ,Hà
Nội (86,26%), Tiền Giang
(83,69%), Lâm Đồng
(80,79%), Vĩnh Phúc
(79,54%), Cần Thơ
(79,54%), Đà Nẵng
(76,2%), Phú Yên
70,85%)... Những tỉnh có
tỷ lệ tốt nghiệp dưới
60% là Hà Tây (57%),
Lào Cai (56,01%), Kon
Tum (55,48%),Sóc Trăng
(51,27%), Đắk Lắk
(50,93%), Điện Biên
(45,97%), Hòa Bình
(33,01%), Yên Bái
(26,68%), Tuyên quang
(14,04%)....
Đáng buồn đến
mức không thể nào hiểu
nổi là có những trường
tỷ lệ đỗ tốt nghiệp là
dưới 10% : THPT Tủa chùa
(13,18%),THPT Mường Luân
- Điện Biên(13,01%),
THPT tư thục Phó Cơ Điều
, Kiên Giang (12,16%),
THPT Mường Nhè
(6,86%)...Thậm chí có
gần chục trường tỷ lệ
tốt nghiệp là....0% (!).
Phóng viên báo Tuổi trẻ
đã về thăm một trong số
các trường này. Đó là
trường PTTH Đinh Tiên
Hoàng (Sơn Dung, Sơn
Tây, Quảng Ngãi). Tại
đây 6/6 xã thuộc diện
đặc biệt khó khăn, 78%
các hộ dân thuộc diện
đói nghèo, 80% học sinh
THPT thuộc về đồng bào
dân tộc thiểu số, trên
30% học sinh lớp 12 đã
có vợ hoặc chồng (!).
Đáng ngạc nhiên là cũng
trường này niên học
2004-2005 đã có tỷ lệ
tốt nghiệp là...99% (!).
Không thể nói là học
sinh “đột biến” dốt đi,
chỉ có thể nói kỳ thi
trước các thầy cô đã
thương tình cho đỗ gần
hết.
Xét đến hệ THPT
bổ túc văn hóa thì thật
sự đáng buồn. Trừ một
vài tỉnh, thành phố có
tỷ lệ đỗ khá cao như TP
Hồ Chí Minh (64,83%),
Nam Định (59,73%) còn
hầu hết đều có tỷ lệ tốt
nghiệp rất thấp. Ngay
Thủ đô Hà Nội mà chỉ có
42,7% tốt nghiệp. Tỷ lệ
này ở các nơi khác là
Tiền Giang (30%), Ninh
Thuận (30%),Vĩnh Phúc
(29,28%), Đà Nẵng
(24,98%), Lâm Đồng
(24,37%), Điện Biên
(23,85%), Hà Tây
(20%)Phú Yên (12,7%),
Quảng Nam (9,25%), Đắk
Lắk (8,89%),Gia Lai
(3,6%)... Tôi đã hỏi một
công nhân tốt nghiệp
năm ngoái hệ THPT bổ túc
văn hóa về tang,
cotang, sin, cosin và
cháu cho biết là chưa
nghe thấy bao giờ các
khái niệm này (!). Tôi
hỏi thêm thế cháu có
hiểu bài giảng của thầy
hay không. Cháu trả lời
hồn nhiên: Cả lớp hầu
như chỉ chép chứ chả
hiểu gì cả!. Tôi hỏi
tiếp: Thế sao cháu
lại đỗ được tốt nghiệp?
Cháu bảo: Các thầy
thương học sinh lắm ,
cho dở sách thoải mái
(!).
Kiểu đào tạo hàng
loạt theo kiểu như vậy
không hiểu để làm gì? Vô
hình chung đã làm cho
mảnh bằng Bổ túc văn hóa
trở nên vô giá trị đối
với nhà tuyển dụng lao
động. Đã đến lúc cần xem
lại mục tiêu của ngành
Bổ túc văn hóa và có lẽ
cần chuyển sang hình tức
tín chỉ để người lao
động có thể học dài hay
ngắn tùy điều kiện của
từng người, nhưng phải
học và thi nghiêm chỉnh
để cùng có bằng THPT
nghiêm chỉnh như các học
sinh khác.
Lại bàn về học
sinh vùng cao, vùng sâu.
Có nhiều lý do: Các em
quá nghèo nên phải tham
gia lao động giúp đỡ gia
đình và rất ít thời gian
để học. Không có điều
kiện mua đầy đủ sách
giáo khoa và các sách
tham khảo tốt. Các thầy
cô giáo dạy tại các vùng
này thường không giỏi và
có nhiều thầy cô chưa
yên tâm (vì đến tuổi lập
gia đình rồi mà không
được thuyên chuyển cho
nên rất khó tìm đối
tượng). Tôi đến thăm một
trường ở cách Sa Pa
không xa lắm. Các cô
giáo từ vùng xuôi lên, ở
chung trong một phòng
không có điện, còn nước
thì phải xách từ chân
núi lên rất xa. Các cô
cười rất hồn nhiên: “Gian
khổ mấy chúng cháu cũng
chịu được, chúng cháu
rất thương các em học
sinh nhưng chả có anh
trai nào thương chúng
cháu, có mỗi một anh bộ
đội thì chị Hiệu
trưởng...lấy mất rồi”.
Chuyện như đùa mà lại là
sự thật. Đã đến lúc phải
đặt nghĩa vụ luân chuyển
giáo viên để nâng cao
trình độ giảng dậy cho
vùng cao và cũng để các
cô giáo không bị nhỡ
nhàng.
Chuyện đột
nhiên chuyển sang thi
trắc nghiệm mà học sinh
không đủ thời gian làm
quen cũng gây khó khăn
không nhỏ cho học sinh
nông thôn, nhất là học
sinh vùng cao, vùng xa.
Trong báo cáo công tác
của đoàn cán bộ Bộ GD&ĐT
sau khi khảo sát tại
Trung Quốc đã cho thấy:
Bạn có quan điểm cho
rằng cần hạn chế thi
theo hình thức trắc
nghiệm khách quan, vì
việc này không phản ánh
đúng trình độ học sinh;
hơn nữa, nhiều vấn đề
thực tiễn, xã hội có
nhiều phương án giải
quyết đòi hỏi phải trình
bày cả tư duy, suy nghĩ
sáng tạo, ý kiến cá nhân
của người giải quyết chứ
không phải là sự lựa
chọn một hoặc một số
phương án cho sẵn khi
tiến hành theo trắc
nghiệm.
Vì vậy, cần tăng
cường hình thức thi tự
luận, vừa tránh được
việc học vẹt, học máy
móc theo SGK, GT, học
tủ, vừa kiểm tra được
tính sáng tạo, khả năng
tổng hợp, ứng dụng của
học sinh. Đối với các
môn học có liên quan đến
thực hành (như Lý, Hóa,
Sinh), học sinh còn phải
qua kiểm tra thực hành
tại phòng thí nghiệm.
Ngoài ra, còn có hình
thức đề thi mở, công bố
trước kỳ thi cho học
sinh biết để chuẩn bị,
khi thi học sinh được
mang tài liệu vào phòng
thi và trình bày bài làm
trong một khoảng thời
gian quy định những hiểu
biết của mình về vấn đề
đề bài ra. Thí dụ, ở
tỉnh Cát Lâm, học sinh
được công bố đề thi
trước một tháng đề bài:
"Em hãy trình bày
hiểu biết của em về tình
hình kinh tế xã hội của
tỉnh trong năm 2002".
Trong tháng đó, học sinh
phải thu thập, phân tích
tư liệu, cập nhật số
liệu mới để có thể làm
bài và trình bày với
giám khảo.