Thời gian gần đây trong nước đã nảy ra nhiều
cuộc tranh luận xung quanh vấn đề giáo
dục là hàng hóa, mà thực chất là
thị trường hóa, thương mại hóa giáo dục.
Trước đây đã có một thời rộ lên chuyện kinh
tế tri thức, được chào đón như cơ hội nghìn
vàng để đi tắt đón đầu, đưa đất nước mau
chóng vươn lên giàu có, thịnh vượng, nhưng
rồi, sau những rạo rực ban đầu và nhiều mơ
mộng trên mây, khi trở về thực tại, mọi sự
lại lắng xuống, im ắng một cách dễ sợ, mặc
cho giáo dục, khoa học là những thứ cốt tử
trong kinh tế tri thức cứ tụt hậu dài dài.
Nay lại đến lượt chuyện tự do hóa giáo dục
đại học được coi như phép màu có khả năng
cứu nền đại học của ta giống như “khoán
mười” đã cứu nông nghiệp trước đây vậy. Dù
hưởng ứng hay phản đối ý kiến này cũng nên
thấy đây là vấn đề hệ trọng, không thể dựa
theo cảm tính hời hợt để xét đoán mà cần
bình tĩnh, xem xét nhiều mặt một cách nghiêm
túc mới có thể có quyết sách đúng đắn, thích
hợp.
1.
Cải tổ giáo
dục đại học trên thế giới mấy năm gần đây.
Trong khi ở nước ta giáo dục đại học (GDĐH)
ì ạch từng bước nhọc nhằn, thì khắp nơi trên
thế giới các đại học đang trải qua những
biến động sâu sắc chưa từng có để thích ứng
với toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế quyết
liệt.
Cộng đồng Châu Âu, Nhật bản, và ngay cả một
vài nước ASEAN, đang nỗ lực cải tổ GDĐH nhằm
tăng hiệu quả hoạt động của các đại học, gắn
kết đại học chặt chẽ hơn với doanh nghiệp,
trao quyền tự chủ rộng rãi và tự chịu trách
nhiệm cho các đại học. Các nước trong Cộng
đồng Châu Âu tổ chức lại nền đại học của họ
theo những nguyên tắc đã thống nhất trong
tuyên bố chung Bologna năm 1999 (chẳng hạn,
tổ chức lại đại học theo khung 3-5-8 cho
tương đồng với đại học Mỹ). Bên cạnh những
trường bình thường, người ta đặt trọng tâm
xây dựng những trung tâm xuất sắc, nhằm tăng
uy tín và sức hút để cạnh tranh với các đại
học Mỹ và giảm bớt, tiến đến chấm dứt dòng
chảy chất xám sang Mỹ. Theo hướng đưa các
phương pháp quản lý trong khu vực doanh
nghịệp tư nhân vào khu vực GDĐH, các đại học
được tăng quyền tự trị về mọi mặt, kể cả về
tài chính và nhân sự, để hoạt động gần như
một doanh nghiệp, tuy vẫn do Nhà nứơc cấp
kinh phí nhưng có thể tự tìm thêm những
nguồn tài chính bổ sung khác. Nhật là nước
thực hiện các cải cách này triệt để nhất.
Bắt đầu từ tháng 4/2004, các đại học công
của Nhật trở thành những đơn vị có quy chế
pháp nhân của những tổ chức hành chính độc
lập và từ nay giáo chức và nhân viên hành
chính ở đại học công sẽ không còn thuộc biên
chế công chức Nhà nước nữa. Một tổ chức đánh
giá chất lượng được thiết lập và kinh phí
cấp cho từng đại học sẽ căn cứ trên hiệu quả
hoạt động theo sự đánh giá đó, nhằm buộc các
đại học muốn tồn tại và phát triển phải quan
tâm nhiều hơn nữa đến hiệu quả và chất
lượng.
Ở Châu Âu rất it đại học tư. Ở Nhật và Mỹ
đại học tư nhiều hơn, nhưng ỏ Mỹ cũng chỉ
chiêm khoảng 23% (về số sinh viên). Hầu hết
các đại học tư ở các nước đều là tổ chức vô
vị lợi (non-profit), không có cổ phần, không
mưu tìm lợi nhuận, cho nên cũng được Nhà
Nước cấp một phần kinh phí. Dĩ nhiên họ được
tự chủ hoàn toàn, như vậy, sau khi cải tổ,
các đại học công sẽ chỉ còn khác các đại học
tư chủ yếu ở chỗ vẫn do Nhà Nước quản lý, dù
sự quản lý này đã được nới lỏng rất nhiều
(như Hiệu trưởng vẫn do chính quyền bổ
nhiệm). Vì thế cũng có khi sự cải tổ này
được gọi là tư thục hóa
(privatisation), hay nửa tư thục hóa
(semiprivatisation), dù không hề có chuyện
cổ phần hóa hay bán lại các đại học công cho
tư nhân. Ở Mỹ, xu thế tư thục hóa kiểu đó
cũng đã bắt đầu: năm 2004, đã có vài đại học
công lâu đời (như đại học Virginia, đại học
William and Mary, Virginia Tech) xin hưởng
quy chế tự trị giống như đại học tư, và để
đổi lại họ chịu rút bớt kinh phí tài trợ của
Nhà Nước.
Trước tình hình đó, dư luận xã hội ở các
nước phản ứng ra sao ? Tất nhiên có người
hoan nghênh, nhưng không phải ai cũng thích
thú. Tuy sự cần thiết cải cách thì đã rõ,
song cải cách như thế đúng chưa thì vẫn còn
nhiều nghi ngại, nhất là đối với những nơi
chưa hội đủ các điều kiện kinh tế xã hội cần
thiết. Đã có nhiều ý kiến hoài nghi, phản
đối hay it ra, bày tỏ sự dè dặt, thận
trọng. Chẳng hạn, nhiều bạn đồng nghiệp
Nhật mà tôi đã có dịp hỏi ý kiến đều tỏ ra
rất băn khoăn. Ở Mỹ, nhiều người nói thẳng:
giáo dục là vô cùng quý giá, nó còn đáng giá
hơn là một hàng hóa nhiều, và chắc chắn
không thể là một món hàng bán kèm, một thứ
để khuyến mãi (xem chẳng hạn J.W. More:
`Education: commodity, come-on, or
commitment ?’, Journal of Chemical
Education, 77(2000), 805). Trong một báo cáo
mới nhất (tháng 2/2005) của nhóm nghiên cứu
“Futures Poject: Policy for Higher Education
in a Changing Word” ở Đại Học Brown, các tác
giả viết : “Giáo dục đại học đang có nguy
cơ từ bỏ sự cam kết truyền thống đối với các
nhu cầu lâu dài của xã hội để chạy theo
những lợi ích ngắn hạn. Đã đến lúc cần đảo
ngược cái xu thế này trước khi trượt đến một
tình thế mà rồi sẽ rất khó khăn, nếu không
phải là không thể, thay đổi...”
Nhiều người vẫn quan niệm sứ mạng giáo dục
đại học không chỉ là đào tạo kỹ năng nghề
nghiệp cho đội ngũ lao động để đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế, mặc dù đó là nhiệm
vụ căn bản, mà ngoài ra còn phải quan tâm
đến sự phát triển toàn diện con người, giúp
cho sinh viên ý thức được vai trò của họ là
những công dân và những thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng. Cho nên “tuy các phương
pháp quản lý và hạch toán của doanh nghiệp
rất có ích cho quản lý giáo dục đại học,
song không thể biến giáo dục đại học thành
một business mà vẫn giữ được cho nó cái
khiến nó khác biệt và đáng giá trước hết...”
(Laura Couturier and Jamie Scurry:`How we
can restore the ideals of public education
in a market-driven era’, trong sách ‘The
future of higher education: rhetoric,
reality, and the risks of the market’,
www.josseybass.com).
2. Do đâu có trào lưu
tự do hóa giáo dục ?
Có mấy nguyên nhân dẫn đến trào lưu tự do
hóa GDĐH:
-
Sự gia tăng mạnh số sinh viên đại học,
khiến các đại học từ chỗ chỉ dành cho số
ít đã chuyển thành cho số đông. Đối mặt
với sự bùng nổ qui mô đó, khả năng tài
trợ của Nhà Nước ngày càng bị hạn chế,
trong khi chi phí GDĐH không ngừng tăng,
buộc Nhà Nước phải tăng quyền tự chủ của
các đại học công, cho phép họ tự tìm
thêm mọi nguồn tăng thu, kể cả bằng cách
xuất khẩu hay thu hút sinh viên ngoại
quốc.
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và xu
thế kinh tế tri thức làm gia tăng nhu
cầu tri thức cùng với khả năng mua bán
tri thức qua mạng, và nhiều phương tiện
điện tử khác, mở đường cho xu thế thương
mại hóa một bộ phận giáo dục.
Trào lưu tân tự do
(neoliberalism), khởi phát từ học thuyết
của nhà kinh tế Mỹ Milton Friedman, chủ
trương hạn chế đến mức thấp nhất vai trò
của Nhà Nước, sử dụng mạnh mẽ cơ chế thị
trường trong quản lý GDĐH.
Sự gia tăng vai trò quốc tế của tiếng
Anh, khiến nhiều nước chậm phát triển
có nhu cầu nhập khẩu giáo dục từ các
nước Anh ngữ, và các nước này không bỏ
lỡ cơ hội xuất khẩu giáo dục, tìm cách
dở bỏ các rào cản trao đổi giáo dục
xuyên quốc gia.
Song tác động quyết định là vai
trò của các tổ chức quốc tế như
WB, IMF, WTO, OCDE, ... trong khung cảnh
toàn cầu hóa. Quá trình
xác định lại (redefinition) sứ mệnh đại
học khởi sự từ đầu thập niên 90 thế kỷ
trước, đã dần dần phát triển thành những
quan nịêm nền tảng cho các cải cách hiện
nay. Trong công cuộc đó, các tổ chức
quốc tế nói trên đã đóng vai trò đầu tàu
khởi xướng, mặc dù không phải là những
tổ chức có nhiệm vụ trực tiếp với giáo
dục. Hầu hết các kế hoạch cải cách GDĐH
hiện đang thực thi đều đã được vạch ra
trong các khuyến cáo của các tổ chức nói
trên cho các nước thành viên. Chẳng hạn,
WTO đã chủ trì các cuộc bàn thảo về giáo
dục là hàng hóa và dịch vụ mua bán được
(tradable) và ký kết thỏa ước chung về
trao đổi thương mại các dich vụ (GATS,
General Agreement on Trade in Services).
Điều đáng chú ý là giáo dục là khu vực
mà các thành viên WTO còn ngại tự do hóa
nhất (theo OECD 2002, trong số 146 thành
viên WTO chỉ có 42 thành viên đồng ý cam
kết về it nhất một khu vực giáo dục).
3. Những bài học cho
GDĐH Việt Nam
Đương nhiên, trong một thế giới không ngừng
thay đổi, GDĐH cũng phải thay đổi để thích
ứng. Cải cách là cần thiết, chỉ có điều
không đơn giản và cần bàn là cải cách như
thế nào là hợp lý và hiệu quả. Về cả hai
phương diện khoa học và thực tiễn quản lý đã
nảy ra không ít câu hỏi khó trả lời về tính
chất hàng hóa của giáo dục nói chung, và đại
học nói riêng. Như trên đã thấy, ngay ở các
nước phát triển cũng còn nhiều, rất nhiều ý
kiến trái ngược nhau.
Ở VN, tuy nền đại học của ta còn rất lạc
hậu, làn sóng tân tự do cũng đã lan tới. Đã
có ý kiến cho rằng đổi mới tư duy giáo dục
hiện nay chính là phải đổi mới cách nhìn đối
với việc thương mại hóa giáo dục, chính thức
nhìn nhận giáo dục là hàng hóa, khuyến khích
mạnh mẽ tư nhân đầu tư kinh doanh giáo dục,
phát triển đại học tư, tiến tới cổ phần hóa
một bộ phận đại học công, lấy đó làm giải
pháp “khoán mười” cởi trói giáo dục đại học.
Riêng tôi nghĩ cần thận trọng hơn, vì đây là
vấn đề rất nhạy cảm của xã hội. Muốn làm gì
thì trước hết cũng phải hiểu vấn đề cho thấu
đáo. Muốn dùng trường tư làm giải pháp đột
phá cho đại học ư ? It ra cũng phải hiểu
cho đúng trường tư ở các nước như thế nào,
có phải là trường tư theo cách hiểu của ta
không ?
Để tránh tình trạng cãi nhau vô ích về từ
ngữ, cần xác định trong các cụm từ như “giáo
dục là hàng hóa”, “thương mại hóa giáo dục”
hay “kinh doanh giáo dục”, v.v. từ “giáo
dục” được dùng theo nghĩa dịch vụ giáo dục,
tức là hoạt động giảng dạy, đào tạo. Trong
các ngữ cảnh trên, tiếng Anh cũng chỉ dùng
từ “education”, không kèm thêm từ gì khác.
Còn “hàng hóa” nói đây thì ám chỉ hàng hóa
hay dịch vụ mua bán được (tradable
commodity). Khi có người chống việc thương
mại hóa giáo dục, không nên đổ cho họ coi
thương mại là xấu hay gán cho thương mại một
nội hàm tiêu cực, vì cái họ phản đối đâu
phải thương mại nói chung mà chỉ là thương
mại hóa giáo dục (hàm ý biến giáo dục thành
một ngành kinh doanh kiếm lời). Cũng không
cần thiết phải phân tích rạch ròi hàng hóa
hay dịch vụ, vì xung quanh mấy từ đó các nhà
kinh tế cũng chưa thống nhất ý kiến. Nên bàn
thẳng vào thực chất vấn đề: để thích ứng với
kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu
hóa, cần có những chính sách mới gì về quản
lý đại học ? cần vận dụng cơ chế thị trường
như thế nào, đến đâu, và đặc biệt, có nên
chấp nhận kinh doanh giáo dục đại học không
và chấp nhận như thế nào, đến mức độ nào ?
Qua sự trình bày ở trên, có thể thấy rõ ta
nên tỉnh táo trước vấn đề phức tạp này.
Chống mù quáng thì không nên, nhưng nhắm mắt
đón nhận vì tin rằng cả thế giới đều nhất
trí như vậy, thì cũng quá liều. Thiết thực
hơn, hãy xét xem kinh nghiệm của các nước đi
trước ta cho phép rút ra những bài học gì
cho VN ?
Theo tôi, bài học tổng quát là trong khung
cảnh toàn cầu hóa, cần duyệt lại, xác định
lại sứ mệnh (nhiệm vụ) GDĐH, đường lối
(triết lý, quan niệm, phương châm),
sao cho phù hợp nhất với điều kiện mới của
thế giới, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của
sự nghiệp phát triển đất nước hướng đến mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Điều này là cần thiết vì
những thiếu sót bất cập của nền đại học của
ta suy cho cùng bắt nguồn từ những mơ hồ về
sứ mệnh và đường lối GDĐH trong tình hình
mới.
Trước mắt cần phải cố gắng cao nhất
phi tập trung hóa quản lý và tăng tính tự
chủ và tự chịu trách nhiệm của các đại học.
Rõ ràng giáo dục đại học VN vừa rất lạc hậu
trong cung cách quản lý quan liêu bao cấp
nặng nề và bảo thủ, vừa có cả những yếu tố
thương mại hóa tiêu cực, kinh doanh đơn
thuần thiếu lành mạnh. Tôi không muốn nhắc
lại đây những chuyện mà mọi người đều biết
cả, báo chí và dư luận đã nêu lên từ lâu mà
đến nay vẫn chưa có dấu hiệu giảm bớt. Các
đại học trên thế giới vốn đã được tự trị khá
cao từ lâu, mà vẫn thấy bức thiết phải tăng
cường tự trị thêm nữa mới bảo đảm hiệu quả
hoạt động trong kinh tế thị trường ở thời
toàn cầu hóa, thì ở VN, trong hàng chục năm
qua, mặc cho nhiều kiến nghị của những người
tâm huyết, cung cách quản lý đại học vẫn hết
sức cũ kỹ. Đã đến lúc không nên chần chừ nữa
mà phải khẩn trương phi tập trung hóa (phân
cấp) mạnh mẽ quản lý, trao quyền tự quản
rộng cho các đại học lớn, đồng thời thiết
lập một cơ chế hậu kiểm và đánh giá có hiệu
quả để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Bộ và
các cơ quan trung ương không nên ôm hết mọi
việc lớn nhỏ để rồi xử lý rất quan liêu,
trên hình thức thì quá chặt chẽ nên trói
buộc sáng kiến của những đơn vị nghiêm túc,
trên thực tế lại quá lỏng lẻo, tạo nhiều sơ
hở dễ bị lợi dụng. Đó là lý do cảnh tượng
hỗn loạn về bằng cấp, chức danh, và bao
nhiêu những tiêu cực khác, không thể kiểm
soát được. Cần phải nới lỏng rất nhiều quy
định cứng nhắc về tuyển sinh vào đại học,
tuyển nghiên cứu sinh cao học, tiến sĩ, quản
lý tài chính, nhân sự, công nhận, tuyển dụng
GS, PGS, v. v... Cần phải trả về cho các đại
học quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm
trong hàng lọat các vấn đề ấy, làm sao cho
quyền tự quản của các đại học lớn của VN
không quá thấp so với các đại học ở nước
ngoài. Không thể viện cớ các đại học của ta
chưa đủ trình độ tự quản, vì trình độ, năng
lực của những tổ chức cấp trên đâu có gì hơn
họ. Cần phải giữ đúng nguyên tắc: cái gì,
việc gì mà đại học có thể giải quyết tốt
nhất thì họ phải được quyền quyết định, Bộ
hay cấp trên không nên ôm lấy để rồi phạm
nhiều sai lầm, như công nhận GS, PGS, quản
lý thống nhất việc thi cử, đào tạo TS,
v.v... thời gian qua.
Một vấn đề mấu chốt là việc quản lý,
sử dụng đội ngũ giảng dạy. Trong cơ
chế thị trường, có một nguyên tắc cần tôn
trọng là đánh giá đúng năng suất người lao
động và trả lương công bằng hợp lý. Nhưng
hiện nay, thầy giáo đại học của ta lương
chính thức thấp xa so với mức sống hợp lý
theo tính chất và vị trí công tác của họ
trong guồng máy xã hội, cho nên bắt buộc họ
phải xoay xở làm việc gấp 3-4 lần số giờ
bình thường: dạy thêm, dạy sô, dạy liên kết,
v.v.., mới có được mức sống ấy. Đó là cách
sử dụng lao động chẳng những bất công mà cực
kỳ lãng phí. Với chế độ lương như thế khó ai
có thể tập trung vào công việc chính của
mình. Dạy đại học mà hầu như không có thì
giờ nghiên cứu khoa học, năm này qua năm nọ,
trình độ vẫn không nhích lên nổi, thì làm
sao có chất lượng được. Chính vì cách sử
dụng như vậy nên đội ngũ giảng dạy đại học
ngày càng già nua, lạc hậu với khoa học thế
giới, chất lượng đào tạo quá thấp, không đáp
ứng các yêu cầu của nền kinh tế, mà chưa
thấy rõ khả năng có thể cải thiện nhanh. Hơn
nữa, đó cũng chính là một nguyên nhân hạn
chế khả năng phát triển quy mô đại học và đa
dạng hóa các loại hình đại học theo nhu cầu
của xã hội. Bài toán : chất lượng, quy mô,
công bằng, với ba yếu tô không phải lúc nào
cũng đồng hành nhịp nhàng— bài toán đó không
thể có giải pháp thỏa đáng chừng nào còn chế
độ sử dụng và trả lương cho giáo chức đại
học bất công và lãng phí như hiện nay.
4. Vấn đề phát triển
đại học tư : giải
pháp nào hợp lý cho VN ?
Một bài học lớn qua kinh nghiệm thế giới là
vấn đề phát triển đại học tư mà gần đây
thường mang dáng vẻ rất hàn lâm : giáo dục
là hàng hóa.
Trong lúc nhiều vấn đề mấu chốt nêu trên của
đại học còn chưa được giải quyết mà nhiều
người đã muốn đặt cược tất cả vào giải pháp
tự do hóa giáo dục đại học, phát triển đại
học tư, cổ phần hóa đại học công, thì e rằng
không thực tế và nếu không cẩn thận, kết quả
dẫn đến có thể đẩy GDĐH tụt hậu thêm nữa. Dù
trong ngắn hạn có thể tạo được sự năng động
nào đó thì lâu dài sự năng động ấy có nguy
cơ sẽ thoái hóa thành rối loạn, đưa đến hậu
quả tai hại không lường.
Tại sao như vậy ? Để hiểu rõ điều này cần
biết ta muốn phát triển đại học tư kiểu nào.
Nếu là kiểu trường tư vô vị lợi
, như hầu hết trường tư ở các nước phát
triển thì ngàn lần nên, và Nhà nước có chính
sách tài trợ bao nhiêu cho những trường tư
đó cũng đúng, không ai có thể nói gì. Đó là
cách xã hội hóa đúng nghĩa nhất, tức là để
xã hội chia xẻ với Nhà nước chi phí, công
sức, phục vụ cộng đồng. Trường tư như vậy
phải được tự quản ngang như các trường tư
ngoại quốc được phép mở ở VN, nghĩa là tự
quản cả về nội dung, chương trình, phương
pháp giáo dục, tuyển sinh, cấp phát văn
bằng, và dĩ nhiên cả tài chính và nhân sự,
bao gồm chế độ trả lương thầy giáo và thù
lao cho các họat động giảng dạy và nghiên
cứu, cũng như liên kết, hợp tác với các
doanh nghiệp và tổ chức trong và ngoài nứơc
thực hiện các chương trình đào tạo cần
thiết. Với mức độ tự quản cao đó, trường tư
sẽ có cơ hội thực hiện nhiều sáng kiến đổi
mới về quản lý, tổ chức, nội dung, phương
pháp đào tạo, mà trước mắt, do sự cồng kềnh
khủng long của bộ máy giáo dục công lập, các
đại học công khó bề thực hiện tốt. Chẳng hạn
trường tư sẽ không bị bắt buộc phải dạy
những kiến thức vô bổ, có khi chiếm tới 20%
thời lượng học ở trường công; sẽ dễ dàng
thực hiện phương pháp đào tạo theo tín chỉ,
học trình, mà hiện ở trường công tuy biết là
tốt vẫn chưa làm được nhiều; sẽ có quyền trả
lương cho thầy giáo đúng với công sức để
thầy giáo tập trung vào nhiệm vụ giảng dạy
và nghiên cứu khoa học được giao để thường
xuyên nâng cao chất lượng, đáp ứng các yêu
cầu đào tạo. Tóm lại, trường tư kiểu đó sẽ
có điều kiện hoạt động đúng với đòi hỏi của
đại học và những trường tốt nhất sẽ đóng vai
trò tiên phong trong công cuộc cải cách nền
đại học để tiến lên hiện đại.
Còn nếu ta quan niệm trường tư phải
được thu lợi nhuận (trường tư vị
lợi), và kinh doanh giáo dục như hàng hóa
(dù là hàng hóa it nhiều đặc biệt chăng
nữa), thì vai trò trường tư sẽ khác. Cần
chấp nhận các trường tư ấy, nhưng không nên
coi việc phát triển mạnh các loại trường tư
ấy là chính, mà nên coi các trường tư ấy
cũng như các lọai doanh nghiệp khác, để họ
tự lo, không nên đòi hỏi Nhà nước phải hỗ
trợ đất đai, kinh phí, v.v... Chuyện này cần
rõ ràng, sòng phẳng, minh bạch để đảm bảo
công bằng. Sự bình đẳng giữa công và tư chỉ
nên hiểu là các bằng cấp đại học có giá trị
đến đâu là tùy thuộc vào uy tín, chất lượng
của từng trường, không phân biệt công hay
tư. Đồng thời trường tư, dù vị lợi hay vô vị
lợi, cũng nên được quyền tự quản như các
doanh nghiệp tư nhân. Không nên như hiện
nay, một mặt trường tư vì lợi nhuận vẫn đuợc
Nhà nước hỗ trợ và ưu đãi, mặt khác lại chịu
sự quản lý quá chặt chẽ và khi thấy cần
thiết chính quyền có thể can thiệp sâu vào
công việc quản trị nội bộ của họ (như cách
chức, bổ nhiệm hiệu trưởng, giải thể, thành
lập hội đồng quản trị, dù là tạm thời). Theo
tôi quy chế trường tư vừa được ban hành có
nhiều điểm chưa thật hợp lý, cần được xem
xét lại và sửa đổi kịp thời.
Chúng ta nên thận trọng và dù thế nào cũng
không thể hiểu xã hôi hóa giáo dục là biến
giáo dục thành một ngành kinh doanh, phó mặc
cho cơ chế thị trường tác động và khống chế.
Ít ra cũng vì cái lẽ cơ chế thị trường rất
tốt nhưng thường chỉ tốt trong tầm nhìn ngắn
hạn, còn về lâu dài thì Nhà nước phải có tầm
nhìn sáng suốt, thông minh, chứ không thể
nhắm mắt chạy theo thị trường. Đừng để đục
nước béo cò, dẫn đến cạnh tranh thiếu văn
minh, không lành mạnh, trong giáo dục.
Còn một lý do kinh tế quan
trọng khác, khiến giải pháp trường tư
vì lợi nhuận khó có tương lai lâu dài,
đó là trong hoàn cảnh thực tế hiện nay của
VN, lợi nhuận mà trường tư có thể thu được,
nếu phân tích kỹ ra, chủ yếu là do dựa vào
chế độ lương bất công đối với giáo chức đại
học công như trên đã nói. Ta thử nghĩ xem:
với chế độ trả lương hiện nay ở các đại học
công, một giáo sư đại học phải lao động gấp
3-4 lần số giờ bình thường, mới có thu nhập
tương xứng với năng suất, trình độ, năng lực
của họ. Nay một trường tư chỉ cần trả lương
cho giáo sư của họ gấp vài ba lần thu nhập
thực tế trung bình ở trường công thì với mức
học phí hiện nay, trường tư cũng đã có thể
thu lãi khá cao, tuy chưa chắc có thể bảo
đảm một chất lượng ngang với trường công. Sở
dĩ như vậy là do chưa tính hết, tính đúng
mọi chi phí, chứ nếu tính đúng, tính hết mọi
chi phí, kể cả đất đai, và những ưu đãi
khác, thì trường tư muốn bảo đảm được một
chất lượng ngang trường công, tổng chi phí
sẽ rất cao, do đó muốn có lãi, học phí sẽ
phải tăng cao quá mức chấp nhận được, và sẽ
không thể thu hút được sinh viên. Như thế có
nghĩa, với mức học phí và chất lượng đào tạo
chấp nhận được, cái lãi của trường tư thật
ra đã do xã hội, Nhà nước gián tiếp bù vào
nhiều khoản chi phí. Đó là một sự bất công
trá hình, có nên và có thể kéo dài mãi được
không ?
Về vấn đề này, đã có một nghiên cứu rất xác
đáng của TS Vũ quang Việt, chuyên gia kinh
tế Việt kiều đang sống và làm việc ở Mỹ
(“Giáo dục tư hay công, nhìn từ góc độ kinh
tê”, http://www.vát.ac.vn/hvgd). Theo nghiên
cứu này, ở Mỹ chi phí đào tạo trung bình cho
một sinh viên là 40-75 ngàn USD một năm, học
phí ở đại học công là khoảng 3-5 ngàn USD, ở
đại học tư 15-35 ngàn USD. Như vậy, ở Mỹ đại
học tư muốn có lãi thật sự mà bảo đảm một
chất lượng trung bình ắt phải thu một học
phí rất cao (không ít hơn 35 ngàn USD), vượt
quá mức chấp nhận được, và trường sẽ không
thể hy vọng có đủ sinh viên để tồn tại. Đó
là lý do giải thích một phần vì sao ở Mỹ,
tuy trường tư vì lợi nhuận vẫn được phép mở,
mà hầu hết các trường tư đều vô vị lợi (chỉ
trừ một số it trường đào tạo nghề cụ thể).
Và cũng chính vì lý do tương tự, ở VN giải
pháp trường tư có lợi nhuận về lâu dài sẽ
đưa đến một trong hai kết cục : hoặc là chất
lượng giáo dục ngày càng tụt thảm hại, hoặc
là ngày càng có nhiều trường tư đóng cửa vì
lỗ.
5. Kết luận
Còn nhớ hồi thảo luận về kinh tế tri thức,
tôi có nhấn mạnh một ý: nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn
cầu hóa và kinh tế tri thức phải bắt đầu từ
việc nâng cao sức cạnh tranh về các lĩnh vực
công nghệ thấp và vừa của nền nông công
nghiệp truyền thống, và phải hết sức chăm lo
giáo dục và khoa học. Cần lợi dụng cơ hội
kinh tế tri thức tìm đường đi tắt, nhưng
trước hết phải chuẩn bị những bước cơ bản để
không vấp ngã ngay trên sân nhà khi ta phải
mở cửa thị trường cho sự xâm nhập quốc tế.
Về giáo dục cũng vậy, cần gấp rút chấn hưng,
cải cách, hiện đại hóa giáo dục, nhưng trước
khi muốn áp dụng những điều mới mẻ mà ngay ở
các nước tiên tiến cũng đang còn mò mẫm, như
việc thị trường hóa, thương mại hóa giáo dục
hiện nay, xin hãy quan tâm những vấn đề
thiết thực, sơ đẳng mà ta còn chưa làm được,
hãy cố gắng khắc phục lãng phí, tham nhũng,
cùng những xu hướng thương mại hóa tiêu cực
đang làm nhân dân rất lo lắng và bất bình.
C ác vấn đề của giáo dục phải giải
quyết một cách hệ thống và toàn diện, không
thể cứ gặp đâu làm đó, thí điểm đi rồi thí
điểm lại, hết cải tiến đến cải lùi, cứ thế
năm này qua năm khác, học sinh, sinh viên
phải giơ lưng ra làm vật thí nghiệm mà chưa
biết bao giờ mới được hưởng một nền giáo dục
sánh được với các nước./.
Trích từ trang
http://www.ncst.ac.vn/HVGD/
|