Phỏng vấn GS Trịnh Xuân Thuận |
Vietsciences 29/05//2004 |
Đầu tháng 5 - 2004, nhân chuyến thăm Paris của GS Trịnh Xuân Thuận trang WEB http://vietsciences.free.fr. đã tiến hành một cuộc phỏng vấn với ông (*). GS Trịnh Xuân Thuận bảo vệ luận án tiến sĩ vật lý thiên văn tại Đại học Princeton năm 1974, hiện giảng dạy tại Đại học Virginia. Ông là chuyên gia hàng đầu về giải Ngân Hà, đã viết gần 200 bài tiểu luận về sự hình thành các yếu tố trong Big Bang và Thiên Hà cùng với sự tiến triển của chúng. GS còn là tác giả của bảy quyển sách bán chạy nhất, đã được dịch ra 15 thứ tiếng, trong đó ba quyển đã được dịch sang tiếng Việt là "Nói chuyện với Trịnh Xuân Thuận", "Giai điệu bí ẩn ...và Con người đã tạo ra vũ trụ", "Hỗn độn và hài hòa". Vietsciences gửi bài phỏng vấn này cho Tuổi Trẻ Chúa Nhật
Vietsciences: Thưa GS, GS có gặp những khó khăn mà một người Việt Nam có thể gặp phải khi bước vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học nói chung và ngành vật lý thiên văn nói riêng? Xin giáo sư cho những lời khuyên mà theo GS là quan trọng đối với người bắt đầu nghiên cứu khoa học.
GS TXThuận: Sau khi đậu tú tài năm 18 tuổi, tôi sang Thụy Sĩ một năm rồi sang Mỹ. Lúc đầu tôi chỉ biết tiếng Pháp, qua Mỹ không biết tiếng Mỹ, xa nhà, bị cắt hết liên lạc gia đình, đâu có tiền mà về thăm nhà. Xa gia đình, xa đất nước mình, thiếu chỗ nương tựa tinh thần, văn hóa lại khác hẳn nên lúc đầu rất khó khăn. Tôi rời gia đình từ năm 1966, về lần đầu năm 1974. Suốt 8 năm từ tú tài đến khi lấy bằng PhD không về nước, cảm thấy hết sức cô đơn, nhưng vẫn cố gắng để đạt mục đích của mình. Người VN ở Mỹ khi học lên đến mức cao thật cao thì khả năng càng phải cao hơn những người Mỹ thì mới được để ý đến. Nếu như mình học chỉ ngang với người Mỹ thì sẽ khó được nhận làm việc như người Mỹ, nghĩa là chỉ khi mình có tài thì họ mới dùng mình. Nên tìm trường thật tốt, có thật nhiều thầy giáo giỏi. Tôi đã chọn trường nổi tiếng nhất tại Mỹ là Đại học Princeton, nơi Einstein đã dạy, và Viện kỹ thuật Caltech, nơi có những thầy giáo giỏi nhất trên thế giới và nhiều vị đã đoạt giải Nobel. Các nhà bác học tại Caltech đều là người đi đầu trong lĩnh vực khảo cứu của họ và họ đã dạy tôi cách suy nghĩ để tìm ra những điều mới mẻ. Tôi may mắn được học các thầy giáo nổi tiếng như Richard Feynman, Murray Gell-Mann, William Fowler, Lyman Spitzer... và được các thầy trực tiếp dạy cho chúng tôi những kinh nghiệm của chính họ. Tốt nhất, sinh viên VN muốn theo ngành khoa học thì nên học giỏi ngoại ngữ. để có thể đọc các bài tiểu luận khoa học, để đi dự hội nghị, bàn luận với đồng nghiệp, trình bày ý nghĩ của mình và công việc khảo cứu của mình cho các đồng nghiệp. Cụ thể phải giỏi tiếng Anh là ngôn ngữ mà bất kỳ ai làm công việc nghiên cứu khoa học đều phải biết. Người theo đuổi ngành vật lý thiên văn phải giỏi môn toán vì ngôn ngữ vũ trụ là ngôn ngữ toán học. Khi tôi học để lấy cử nhân vật lý ở Caltech, và sau đó lấy tiến sĩ môn vật lý thiên văn ở Princeton, tôi phải lấy song song các bài giáo khoa về toán
Vietsciences: Theo GS, thầy cô giáo cùng sinh viên, học sinh cần phải làm thế nào để có thể truyền đạt sự hiểu biết hay thu nạp kiến thức nhiều hơn và nhanh hơn trong lĩnh vực khoa học?
GS TXThuận: - Tôi không thích lối học thuộc lòng như con vẹt. Thầy cô giáo phải dạy cho sinh viên hiểu cách nào để gặp một vấn đề thì biết cách giải các vấn đề mới khác. Giáo dục cần nhất là phải hiểu và biết cách nghĩ để giải quyết bất cứ vấn đề nào. Tôi thích nhất là nếu có được những người học trò có thể giúp cho tôi hiểu biết thêm, vượt qua tôi càng tốt. Cái đó cần nhất. Phải khuyến khích óc sáng tạo của học trò chứ không buộc các em học thuộc lòng. Học trò tôn trọng thầy giáo nhưng nếu thầy giáo nhầm thì phải nói điều đó với ông chứ đừng nghĩ thầy giáo lúc nào cũng đúng. Đừng bao giờ sợ nói sai. Một nền giáo dục tốt khi đào tạo những người không bao giờ sợ. Những suy nghĩ tốt cần phải được nói ra chứ đừng im lặng.
Vietsciences: Theo GS tên những nhà khoa học có nên phiên âm ra tiếng Việt không?Theo tôi, nên giữ đúng tên của nhà khoa học, thí dụ Feynman thì phải viết đúng tên Feynman
Vietsciences:
GS TXThuận: Feynman là một Nobel, là một thiên tài, ông nhìn cái gì cũng đặc biệt của riêng ông, ông không dạy từ trong sách mà tự nghĩ ra cách của ông nên rất hay. Ông thích người trẻ, tôi rất phục ông và cách dạy của ông ảnh hưởng nhiều trong cách thức dạy học của tôi . Lúc tôi dạy khoa học tôi cũng muốn cho học trò mình cái nhìn tổng quát. Tôi hay nói những triết lỳ trong khoa học của tôi. Trái đất mình đang bị những đe dọa trầm trọng, tôi chuyển nhiệm vụ bảo vệ trái đất cho các học trò của tôi vì họ là những người sẽ ra nắm giữ những chức vụ quan trọng sau này Vietsciences: Vietsciences dự tính sẽ đăng lên một loạt các bài thiên văn cho SV/HS trong nước được biết đến và học hỏi thêm. Theo ý Giáo sư, nếu như SV trong nước có những thắc mắc liên quan đến các bài giảng thì làm sao giải quyết?GS TXThuận: Hãy đưa cho tôi hết tất cả những câu hỏi cùng một lúc và tôi sẽ trả lời trực tiếp bằng điện thoại.
Vietsciences: Theo GS, trong điều kiện của VN hiện nay, ngành học về thiên văn và vũ trụ có thể phát triển trong các trưòng học và các cơ quan nghiên cứu hay không? GS có các dự định như thế nào để giúp đỡ cho các thế hệ đi sau?
GS TXThuận: - Hè năm 2000 tôi có về VN để giảng dạy vật lý thiên văn trong 2 tuần cho những sinh viên ưu tú ở Đại học Hà Nội nhưng tôi chỉ dạy lý thuyết thôi vì không có kính thiên văn để quan sát bầu trời. Nhiều sinh viên có nói cho tôi biết là không có ai dạy môn vật lý thiên văn ở Hà Nội. Thật đáng tiếc! Theo tôi, VN nên bắt đầu nghĩ đến ngành thiên văn. Bắt đầu bằng những kính thiên văn nhỏ cho sinh viên quan sát những hành tinh xa hơn Trái đất như Jupiter, Saturne, sau đó là những ngôi sao. Hè này tôi về VN một tháng để gặp các vị hiệu trưởng những trường đại học ở Hà Nội và TP.HCM. Tôi sẽ nói về việc trao đổi giữa các đại học VN và Mỹ. Cho những sinh viên qua các đại học Mỹ học rồi trở về phát triển ngành thiên văn. Đó là chuyện lâu dài nhưng phải bắt đầu gieo mầm để một ngày kia sẽ thành cây. Vật lý thiên văn là khoa học thuần túy không có áp dụng thực tế. Dù nước mình còn nghèo nhưng cũng phải nghĩ đến kiến thức, phải có căn bản hiểu biết thì mới có thể trao đổi, bàn luận với các nước khác. Tôi nghĩ mình cũng cần giàu có kiến thức chứ không nên chỉ nghĩ đến cái giàu vật chất.
Vietsciences: Là người thích viết tiếng Pháp hơn tiếng Anh mặc dù đang dạy học ở Mỹ, phải chăng theo GS tiếng Pháp thuận lợi hơn tiếng Anh để diễn đạt các vấn đề triết lý và tâm linh?
GS TXThuận: - Câu hỏi rất quan trọng. Tôi học tiếng Pháp từ nhỏ, chịu ảnh hưởng văn chương Pháp, đọc Pascal, Victor Hugo, Guy de Maupassant, Hector Malo,... nên thấy tiếng Pháp hay hơn, có nhiều nuance, _expression hơn. Tôi dạy học và viết những bài tiểu luận về thiên văn bằng tiếng Anh, còn viết cho mọi người đọc thì tôi thích viết tiếng Pháp hơn. Nhưng để có nhiều độc giả, sách phải dịch ra tiếng Anh. Tôi thích viết theo phong cách văn chương cho mọi người đọc. Viết sách khoa học một cách văn chương thì độc giả dễ hiểu và thích thú hơn. Còn với những người đã chuyên về thiên văn thì không cần phải diễn dịch một cách văn chương.
Vietsciences: Hiện GS có phát triển triển tiếp những lý thuyết hay công trình nào khác nữa?
GS TXThuận: - Công việc tôi đang làm là nghiên cứu các thiên hà đang thành hình như thế nào. Mấy tuần trước tôi có viết bài tiểu luận về chuyện này. Số đông các thiên hà hình thành 1 tỉ năm sau Big bang, nghĩa là cách ta 13 tỉ năm ánh sáng nên rất xa, ánh sáng rất yếu, rất khó khảo cứu; còn những thiên hà trẻ thì rất hiếm. Bởi vậy một trong những công việc tôi đang làm là phát hiện các thiên hà trẻ và nhỏ (blue compact dwarf galaxy). Tôi đang khảo sát thiên hà T Zwicky 18 chỉ cách Trái đất 50 triệu năm ánh sáng. Đối với vũ trụ có bán kính là 14 tỉ năm ánh sáng, khoảng cách đó rất là nhỏ. I Zwickty đã được Fritz Zwicky (1898-1974) khám phá vào năm 1966. Đây là một thiên hà bất bình thường không có dạng đĩa phẳng như thiên hà spirale hay có quầng cầu như thiên hà elliptique. Ngược lại nó rất giàu khí hydrogen và lại rất ít các nguyên tố nặng (heavy elements). Vì các chất nặng do các vì sao tỏa ra nên ít chất nặng và giàu hydrogen có nghĩa là không có nhiều ngôi sao sinh ra trong quá khứ của I Zwicky 18. Tôi đã dùng kính thiên văn Hubble của NASA để chụp ảnh I Zwicky và đã khám phá là tuổi các ngôi sao già nhất trong I Zwicky 18 không quá 500 triệu năm. Đối với tuổi của vũ trụ là 14 tỉ năm, 500 triệu năm là một chớp nhoáng. Vậy I Zwicky 18 là một thiên hà trẻ con đang thành hình.
Vietsciences: Tháng 4 vừa qua NASA vừa cho phóng phi thuyền Gravity Probe B nhằm kiểm nghiệm lý thuyết Tương đối rộng của Einstein. Theo GS sự kiện này có ý nghĩa gì đối với nền thiên văn học?
GS TXThuận: - Trước đây 40 năm, khi ba giáo sư vật lý ở Đại học Stanford đề nghị Gravity Probe B thì điều đó hết sức cần thiết cho hiểu biết của con người về vũ trụ. Đáng tiếc là mãi 40 năm sau các chuyến bay của Gravity Probe B mới bắt đầu. Khoa học đã tiến bộ quá nhanh so với cách đây 40 năm. Mục đích của Gravity Probe B là thí nghiệm kiểm chứng thuyết Tương đối rộng của Einstein nhưng trong 40 năm qua, lý thuyết Einstein đã được kiểm chứng rất nhiều lần rồi. Một trong những kiểm chứng rực rỡ nhất của thuyết Tương đối rộng dựa trên Binary Pulsar (*). Binary Pulsar là hai ngôi sao neutron rất lớn, nên đó là nơi lý tưởng để kiểm chứng lý thuyết Einstein. Trái đất chúng ta đang sống có trọng lực không mạnh và chuyển động cũng không nhanh so với chuyển động của ánh sáng, nên lý thuyết của Newton đủ để tả thế giới chúng ta đang sống, không cần đến lý thuyết Einstein. Vì vậy, nếu muốn kiểm chứng lý thuyết Einstein phải tìm những nơi có trọng lực thật lớn như lỗ đen (black hole) hay sao neutron (neutron star). Binary Pulsar được khám phá bởi hai nhà thiên văn Joseph Taylor và Russell Hulse vào năm 1974. Binary Pulsar rất quan trọng vì đó là một phòng thí nghiệm có đến hai sao neutron. Lý thuyết Einstein nói rằng hai sao neutron do trọng lực rất mạnh sẽ phát xạ sóng trọng trường và mất năng lượng, và sẽ rơi vào nhau. Quỹ đạo của hai sao neutron chung quanh nhau càng ngày càng nhỏ đi; vì hai sao neutron mất năng lượng nên chúng quay càng ngày càng bớt nhanh. Những quan sát thiên văn cho chúng ta thấy sự quay chậm dần của sao neutron đúng y như thuyết Tương đối tổng quát của Einstein đã tiên đoán. Như vậy tôi nghĩ là Gravity Probe B cũng sẽ hoàn toàn xác nhận lý thuyết Einstein, sẽ không đem lại điều gì mới lạ lắm. Đối với tôi kính thiên văn không gian Hubble mang lại lợi ích hơn nhiều. Thật đáng tiếc khi tàu con thoi Columbia bị nổ tung vào tháng 2- 2003, khiến NASA hủy bỏ các dịch vụ cho Hubble. Nếu không có các dịch vụ này, thì trong 2-4 năm nữa, những kính gyroscopes và những tấm pin mặt trời của Hubble sẽ bị hỏng và không thể dùng Hubble được nữa. Đó sẽ là một mất mát lớn lao cho các nhà thiên văn trên thế giới. Sau khi học xong phải có ý chí để tiến tới. Bây giờ đang khảo cứu thiên văn, thì tôi lại được dùng kính thiên văn không gian Hubble, tuy đường kính chỉ 2,4 mét nhưng trên thượng tầng khí quyển nên nó thu nhận mọi ánh sáng từ vũ trụ. Téléscope Hubble nhìn rất rõ, nhìn rõ sợi tóc trên mặt trăng. Lần đầu tiên tôi dùng kính thiên văn là ở Caltech, vì trường tôi có riêng đài thiên văn Palomar, là một telescope có đường kính 5 mét, lúc đó (năm 1967) là lớn nhất thế giới. Cái telescope này có thể nhìn về quá khứ tới 7 tỉ năm.
Vietsciences: Giáo sư có bị hạn chế khi dùng kính thiên văn không, nhất là kính thiên văn không gian Hubble? GS TXThuận: Vì thế giới chỉ có một kính thiên văn Hưbble, nên chỉ 13% số lần để nghị đầu tiên được chấp nhận. Nếu mình không nằm trong số 13% đó thì phải chờ đến năm sau. Mỗi lần đuợc 24 quỹ đạo của Hubble, mà mỗi quỹ đạo của Hubble là 1 tiếng rưỡi. Trong 24 quỹ đạo này Hubble chỉ nhìn thiên hà I Zwicky 18 và chụp hình đó cho riêng tôi thôi, không ai được quyền thấy. Tôi xác định và phân tích trong một năm. Sau một năm thì mọi người có quyền xử dụng những hình ảnh I Zwicky 18 này. Nhưng theo dự đoán thì chỉ còn 4 năm nữa là Hubble sẽ không còn xử dụng được nữa tức là tôi chỉ được dùng 4 lần nữa thôi.
Vietsciences: Tại sao họ không sửa nữa kính thiên văn Hubble? GS TXThuận: Từ khi shuttle Columbia bị nổ, quốc hội cấm NASA dùng shuttle vả chăng không ai dám lên đó sửa. Nếu như bị nổ lần nữa NASA sẽ sập tiệm.
Vietsciences: Là một người Phật giáo: trong bài viết của Giáo sư, Phật giáo thường được so sánh song hành với khoa học. Vậy tín ngưỡng Phật giáo ảnh hưởng đến cuộc sống của Giáo sư như thế nào? Phật giáo có làm trở ngại bước đường tiến thủ của nhà khoa học trong xã hội cạnh tranh như xã hội Mỹ hay không (publish or perish), có làm chậm sự hội nhập, nếu muốn, của khoa học gia muốn "chen chân" tìm chỗ đứng ở phương Tây không? GS TXThuận: Người Âu Châu, nhất là Mỹ Châu, cạnh tranh, cut throat. Người Âu Mỹ không do dự đạp chân người khác để bước lên. Người Á châu có thái độ nhã nhặn hơn Tôi nghĩ là Phật giáo không cản trở bước tiến con người, ngược lại còn cho thêm sức mạnh. Khi gặp những người nào không tốt đến với mình, mình ráng làm sao để không giận, có compassion (lòng thương). Phật giáo tạo cho mình lòng thương, cho mình sức để tranh đấu và cho mình niềm tự tin. Thí dụ khi mình gặp những người không tốt với nình thì mình nghĩ là họ không hiểu mình, không phải là vì mình dở. Trên đời cái gì cũng phải tranh đấu, đâu có ngồi yên cho tự nó rơi vào bàn tay. Phải có hy sinh và khổ đau. Phải làm việc nhiều hết sức mình. Bí quyết để thành công: làm việc bằng mồ hôi nước mắt đến 90%, còn "genes" (innate intelligence) chỉ là 10% thôi.. Ðối với tôi đạo nào cũng có cái hay, tradition nào cũng đều có một điểm chung là làm sao con người trong vũ trụ sống chung điều hòa với nhau.
(*) GS Trịnh Xuân Thuận là một trong những giáo sư đã nhận đỡ đầu cho trang web http://vietsciences.free.fr. Đây là một trang web chuyên nghiệp không vụ lợi nhằm giúp đỡ và góp phần đào tạo SVHS có lòng yêu khoa học trở thành các nhà khoa học giỏi. Mọi thư từ liên lạc hay thắc mắc về Vietsciences và bài phỏng vấn này, xin liên lạc về địa chỉ bbtvietsciences@yahoo.fr (*) xin xem thêm về Binary Pulsar trong trang web Vietsciences trong mục Tìm hiểu => Pulsar binaire) © http://vietsciences.free.fr Vietsciences |