... Tháng
9 năm 1967 khi đến Caltech tôi khám phá một cách
thán phục phẩm chất của lối giáo dục và nghiên cứu
tại đây. Ðúng là một nơi nghiên cứu Khoa học
ngoại lệ. Với 800 sinh viên được chọn từ những
trường trung học và đại học ưu tú nhất của nước
Mỹ, thì có 400 giáo sư và nhà nghiên cứu. Và
không phải bất cứ ai: những nhà nghiên cứu
tiếng tăm trên thế giới, những vị "leader" trong
ngành của họ, và năm giải Nobel ! Ông có nhận
thấy vậy không? Phần lớn trong số các giáo sư là
hội viên của Hàn lâm viện Mỹ. Trên campus
có những nhà vật lý vĩ đại, như Richard Feynman
(1918-1988), giải Nobel Vật lý 1965 và
một trong những người lập ra ngành Lượng từ Ðiện
từ (Electromagnétique du Quantum) , hay Murray
Gell-Mann (1929-),
giải Nobel Vậyt lý
1969, khám phá ra Quark (thành phần căn bản
của vật chất)Nhưng
định mệnh thứ ba đưa đẩy là trên campus có
bóng của Edwin Powell
Hubble
(1889-1953)
bay
lượn, bởi vì nơi đó, tại Pasadena là chỗ mà
ông đã làm tất cả những nghiên cứu lớn về bản
chất của thiên hà và sự bành trướng của vũ trụ,
những nghiên cứu được làm trong những năm
1920-1930 đã sản sinh ra thuyềt Big Bang.
|
|
|
Murray
Gell-Mann |
Edwin Powell
Hubble |
Richard
Feynman |
Ðể làm việc này, ông đã dùng
kính thiên văn 2,5 mét của Caltech trên núi
Wilson. Ngoài ra, từ đầu thế kỷ, trường đã có lần
luơt những kính thiên văn lớn nhất thế giới, và
năm 1967, khi tôi đến , trường đã có kính thiên
văn rất chiến đường kính 5 mét trên núi Palomar.
Chuyện này cũng vậy, khi đến đo tôi mới biết.
Ông đã
rơi nhằm đúng nơi mà ông cần để học ngành vật lý
Thiên thể, và không chủ định!
Vâng, sự
tình cờ (nhưng phải chăng đó là sự tình cờ?) đã
làm nên việc . Rất nhiều khám phá quan trọng về vũ
trụ đã làm tại đó, bởi vì các kính thiên văn này
đã lôi cuốn các nhà nghiên cứu lớn. Năm 1963,
Marteen Schmidt, giáo
sư tại Caltech, đã khám phá ra những
quasars, là những
thiên thể ở biên giới vũ trụ đã chiếu ánh ánh sáng
tuyệt diệu. Năm 1967, ông đã trị vì ngành Thiên
văn thật sống động trên campus.
Thật là một nơi lý
tưởng để nảy sinh thiên hướng cho một thanh niên
19 tuổi đang vô cùng khát khao tìm hiểu mọi thứ.
Thật là xúc động khi được đắm mình trong tất cả
những khám phá này và được những giáo sư dạy cho
chúng tôi học những công trình của chính họ, và
như chúng tôi không quá mười lăm người cho mỗi
lớp nên chúng tôi được
tiếp xúc thật gần gũi với từng giáo sư, cả những
vị nổi danh nhất ! Thật là tuyệt vời!
Thế là tôi đã đổi thay, là kẻ bưóc ra từ một hệ
thống giáo dục Pháp trong đó thầy giáo và học trò
luôn giữ một khoảng cách. Thí dụ như tôi chẳng
hạn, tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy
Richard Feynman,
một trong những đỉnh cao của ngành Vật lý hiện
tại, trả lời một cách kiên nhẫn những câu do
những đứa bé mười chín tuổi hỏi ông.
Ông tranh luận và pha trò với chúng tôi. Ðó là
chưa kể sự tự do lạ thường mà chúng tôi có được.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy sinh viên đến
bằng chân trần, ăn mặc lôi thôi đến dự giờ do
một Nobel giảng dạy! Nhưng nói cho cùng, sao lại
không đuợc? Sau lần chấn động đó, tôi bắt đầu thích
môi trường quá phong phú cho sự nảy nở tài năng
của mỗi người, bất kể hình thức hay tầng lớp xã
hội. Và đặc ân tối cao là
chúng tôi có thể gõ bất cứ
cửa nào và bất cứ lúc nào, tất cả những đầu
óc vĩ đại đó sẽ thong thả trả lời cho chúng
tôi từng câu hỏi!
Feynman
mà ông kể, là một trong những nhà Vật lý Hiện
đại khổng lồ. Ông vừa mới mất. Ông là người phổ
biến Khoa học thiên tài và đã gợi nên một số lớn
không thể tưởng những thiên hướng cho các nhà
vật lý.
T
ình yêu của ông dành
cho Vật lý thật dễ lây. Ông liên kết giữa tài
nghiên cứu hiếm có và khoa sư phạm đặc biệt.
Chúng
tôi muốn biết hơn về những giờ giảng của ông.
Ông đối với học trò như thế nào?
Ông luôn làm cho bầu không khí bớt căng
thẳng bằng cách kể một chuyện vui đùa hay một
giai thoại dễ thương, làm chúng tôi thoải mái
ngay tức khắc Tôi không hề thấy nơi ông một
thái độ trịch thượng dù nhỏ.
Ông coi trọng chúng tôi.
Tôi nghĩ rằng đó là nhờ ông được giáo dục,
bởi vì lúc còn nhỏ,
ông không ngừng hỏi cha ông. Cha ông phải
ngưng mọi việc để trả lời cho ông ngay.
Tôi nghĩ rằng ông yêu chuộng những
câu hỏi liên tục nơi lớp trẻ rồi ông thích hỏi
những câu bắt bí. Ðó là một giáo sư ngoại
hạng. Ông có quan điểm hoàn toàn của riêng ông
về việc dạy Vật lý.
Ông luôn nhìn thiên nhiên
bằng đôi mắt mới lạ, ngây thơ, diễn dịch lại theo
cách của riêng ông. Ông
không hề đi theo con đường mòn và luôn đặt lại
câu hỏi cho những ý tường đã được công nhận.
Ông có một trực giác khác thường về những hiện
tượng vật lý. Khi ông tấn công một vấn đề, ta có
cảm giác rằng ông đã có ngay câu trả lời và lập
luận cho hợp lý tiếp theo đó chỉ dùng để trực giác
của ông tựa lên. Ðiều này không phải không gây
khó khăn cho những người mới bắt đầu, đáng
thương như chúng tôi. Bài giảng của ông như ảo
thuật. Ông giảng cho chúng tôi bằng cả sự giản dị
và sáng tỏ đáng ngạc nhiên. Chúng tôi co cảm
giác như đã hiểu thấu hoàn toàn như bằng sự thẩm
thấu: thiên nhiên tổ chức như thế nào, những
ngôi sao tiến triển ra sao, nước chảy ra sao,
những nguyên tử được hình thành như thế nào. Ông
làm cho chúng tôi thông minh trong lúc ông dạy,
nhưng khổ thay khi chúng tôi trở về phòng, một
mình trước bài ghi, chúng tôi trở nên khô cạn!
Chúng tôi còn lâu lắm mới có được thiên tài như
ông. Cuối cùng trườn đại học mới thấu hiểu rằng
cách dạy của ông thích ứng với những nhà vật lý
hơn là sinh viên bước đầu đại học. Ngày nay, những
bài giảng dạy của ông được in ra và dùng làm
sách tham khảo cho các nhà vật lý trên thế giới.
Ðiều này
có thể là một kinh nghiệm đáng ngại vì tưởng mình
là "ngon" khi có mặt Feynman nhưng khi trở về
phòng thì chẳng biết làm gì hết.
Vây, với những sinh viên mới
chưa có đối đầu với những kinh nghiệm nơi phòng
thí nghiệm, khi luyện những con toán, những
phương trình khó đến chóng mặt, có lẽ đó không
phải là phương pháp tốt nhất để học Vật lý,
nhưng nói chung thật mê hoặc khi nghe ông, khi
nhìn thấy ông nhấn mạnh mỗi câu bằng những cái bỉu
môi đầy ý vị. Ông kích đông lòng phấn khởi thật
lạ lùng và là thần tượng của tất cả
mọi sinh viên không những họ
ngưỡng mộ vì tài năng khoa học của ông mà luôn
cả sự sống động phi thường. Ông sống
hết mình, chơi trống bongo (nơi trang đầu tiên
của sách giáo khoa Vật lý của ông có hình ông
đang chơi dụng cụ này), chải chuốt, thích đàn bà
đẹp. Thêm nữa là ông khôi hài độc địa lắm. Năm
1989 khi ông mất sau khi cố chống trả bịnh
cancer trong thời gian lâu, cả campus đã
khóc. Người nào may mắn được tiếp xúc
với ông, nhớ lại sự hiện diện rực rỡ đầy phẩm
chất thật lạ lùng. Ðể thưởng thức nhân vât ngoại
hạng này hơn , tôi các bạn đọc quyển tự truyện,
đã dịch ra tiếng Pháp. Ông có muốn cười không,
ông Feynman?
Và cho
dù ông ấy như thế, vậy mà ông lại không trở
thành nhà vật lý. Cái gì đã khiến ông thành
nhà vật lý thiên thể?
Ông biết không, trong các
trường đại học Mỹ, người ta chọn môn "majeur" làm
môn sinh hoạt chính chẳng hạn như trường hợp
tôi, đó là môn Vật lý. Nhưng ở Caltech, thiên
đường khoa học ở mức cao nhất, người ta dạy mọi
ngành khoa học, Sinh học, Ðịa chất học.. vân vân..
và lẽ dĩ nhiên Thiên văn học. Tôi tìm hiểu
mỗi ngành một chút và tự hỏi sẽ làm luận
án cho lĩnh vực nào. Theo tôi, chủ đề nghiên cứu
chủ yếu nhất là vật lý những phần tử cơ bản
(particules élémentaires). Ðó là lĩnh vực của
những ông chúa tể của campus, hai ông giải Nobel
Richard Feynman và Muray Gell-Mann. Năm 1963 giáo
sư Muray cùng với một giáo sư khác của campus vừa
mới đề nghị hạt quark như là viên gạch cơ bản
hất của vật chất. Với hạt quark, Gell-Mann có thể
xây dựng một lý thuyết để giải thích những tính
chất của nhiều phần tử vật chất bắt đầu sinh sôi
nảy nở trong những máy gia tốc dùng năng lượng
cao... Tôi bị mê hoặc bởi mọi thứ khai triển
này.
Tuy nhiên một lĩnh vực khác
cũng lôi cuốn tôi, Thiên văn học. Trước tiên,
có lẽ vì bóng của Hubble - người đã khám phá ra
những thiên hà và sự bành trướng vũ trụ- phất
phơ trên campus, nhưng cũng vì phần đông các
giáo sư vật lý của tôi cũng làm ngành Vật lý thiên
thể và hay nói về nó trong giờ dạy của họ.
Hai lần thực hành mà tôi làm trong hai mùa
hè 1967 và 1968 đã ảnh hưởng đến tôi vô cùng
sâu đậm. Vì cần tiền để sinh sống, tôi làm
việc mùa hè. Tôi tìm một summer job,
như ở Mỹ người ta nói. Một hệ thống trợ cấp
-hay grants - thuê tạm thời các sinh
viên để làm những con toán hay những thí
nghiệm và, lẽ đương nhiên trong một nơi như
Caltech không phải dễ gõ cửa giáo sư nào để
làm môn nghiên cứu mà tôi thích. Việc làm đầu
tiên của tôi ở trong phòng thí nghiệm của
William Fowler (1911-1995),
một Nobel Vật lý (1983)
khác, cha đẻ của ngành Vật
lý Thiên
thể Hạch nhân.
Chính ông đã giải thích
những nguyên tố nặng như thế nào, những nguyên
tố nặng hơn Hydrogen và Helium, và chúng làm ra
căn bản của đời sống, được chế tạo từ những
ngôi sao.
Trang web nói về Gs. Feynman (Tiếng Anh)