Vài suy nghĩ và ý kiến đóng góp về đào
tạo ở Việt Nam trong tình hình kinh tế hiện nay
Hệ thống đào
tạo (giáo dục nghiên cứu) ở Việt nam hiện nay đang bị “khủng
hoảng”. Đã có rất nhiều phát biểu phê bình, đề nghị thay đổi.
Mục đích của bài sau đây là đóng góp vài suy nghĩ, từ vị trí của
một Việt kiều ở Pháp nghiên cứu về kinh tế, nhằm góp phần phát
triển tiềm năng trí tuệ của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa.
Trước hết, có
thể nói khủng hoảng về giáo dục, đào tạo ở Việt nam là một quá
trình khó tránh khỏi. Trước 1975, dân số hai miền ở Việt nam là
khoảng 50 triệu người. Miền Bắc, với 25 triệu dân, với sự giúp
đỡ của khối XHCN (qua hình thức du học, viện trợ…) đã xây dựng
tốt một hệ thống giáo dục, nghiên cứu. Hơn 25 năm sau, dân số
Việt nam đã trở thành 80 triệu. GDP đầu người ở Việt nam, từ
1980 đến 2000, tăng khoảng 35% một năm ( 200 USD năm 1980, 400
USD năm 2000 ). Với một nhịp tăng GDP như vậy (chưa nói đến
những năm kinh tế bị trì trệ), ngân sách nhà nước khó lòng giải
quyết thỏa đáng nhu cầu về đào tạo của người dân. Ở Hàn quốc,
trong những năm 60, vào thời kỳ sơ khai của quá trình cất cánh
kinh tế, 80% chi phí về giáo dục là do xã hội công dân Hàn quốc
trang trải. Hiện nay, ở Việt nam cũng đã hình thành rất nhiều
trường dân lập. Theo tôi, nên đẩy mạnh hơn nữa sự hình thành của
các trường dân lập nhưng cần suy nghĩ kỹ một số phương thức sau:
-
Ở cấp
tiểu học, trung học, song song với việc mở rộng hệ thống
trường dân lập, nhà nước nên tập trung vào một số định hướng
về chuyên ngành, trong khuôn khổ khả năng tài chính của
mình. Các trường dân lập phải tự trang trải, đặc biệt về thu
nhập của các giáo viên. Các giáo viên được giữ biên chế nhà
nước nhưng sẽ ngưng lãnh lương nhà nước nếu họ chuyển qua hệ
thống dân lập. Thu nhập của họ (trong giảng dậy) sẽ do các
trường dân lập gánh chịu. Như vậy nhà nước sẽ thu hồi lại
một lượng tiền để tăng lương cho những giáo viên ở lại trong
hệ thống nhà nước. Tuy nhiên các giáo viên ở các trường dân
lập được quyền trở lại hệ thống nhà nước và phục hồi thu
nhập tõ hệ thống nhà nước nếu họ muốn.
Các trường
dân lập và công lập sẽ cạnh tranh với nhau về chất lượng qua số
học sinh thi đỗ phổ thông, thi đỗ vào các trường đại học (với
điều kiện là các cuộc thi được bảo đảm là đàng hoàng, công
minh). Một vai trò của nhà nước là buộc các hiệu trưởng các
trường, công lập cũng như dân lập, phải nghiêm chỉnh chấp hành
các chỉ tiêu về giáo dục (nội dung giáo trình, các giáo viên
phải dậy hết ở trường giáo trình trong năm…).
-
Ở cấp Đại
học, cũng nên “rà” lại toàn hệ thống. Nhà nước, có lẽ cũng
chỉ nên tập trung xây dựng một số trường để đạt chất lượng
cao (chất lượng cao không chỉ có nghĩa là tiến sĩ, giáo sư,
mà là còn kỹ sư giỏi, kỹ thuật viên giỏi, cán bộ ngân hàng,
quản lý xí nghiệp giỏi…. Nếu mở rộng hệ thống dân lập ở cấp
Đại học, tôi đề nghị cũng nên có những ràng buộc như ở cấp
Tiểu học, Trung học.
Một vấn đề sẽ
đặt ra: chất lượng của các bằng đại học, các luận án tiến sĩ của
các trường đại học sẽ được đo lường như thế nào? Theo ý tôi, lúc
tuyển giáo sư, phải có một hội đồng gồm những nhà khoa học do
nhà nước chỉ định, và một số được các đồng nghiệp bầu, để đánh
giá các “thí sinh”. Sau quá trình nghiên cứu giảng dậy, ta có
thể biết được thầy nào giỏi, thầy nào dở. Từ đó, sẽ biết trường
nào tốt, trường nào không tốt. Ở các cơ quan khác, quá trình này
cũng sẽ xẩy ra. Nhưng phải có một thời gian mới đưa đến một sự
đánh giá đàng hoàng về chất lượng các trường. Nhà nước cũng nên
thành lập những hội đồng đi đánh giá các trường đại học (về công
tác đào tạo, nghiên cứu…). Kết quả phải được công bố minh bạch.
-
Trong
nước, cũng có người đề cập đến việc xây dựng một số trường
đại học quốc tế; mục đích là để đào tạo một tầng lớp trí
thức ưu tú. Tôi ủng hộ ý kiến này vì những lý do sau đây.
Tầng lớp này có thể đào tạo trở lại các cán bộ giảng dậy
nghiên cứu ở Việt nam. Ngoài ra, những đại học quốc tế có
thể đào tạo tầng lớp trí thức của các nước khác trong vùng
và nếu thành công hơn nữa, của các nước phương tây. Giao lưu
trí tuệ ở các trường này có thể có tầm quan trọng trong quan
hệ đối ngoại giữa Việt nam và bên ngoài. Giáo viên của các
trường đại học này là giáo viên GIỎI được tuyển vào (qua
CV). Họ có thể là người Việt nam, nhưng cũng có thể là người
Việt kiều, hoặc người nước ngoài.
-
Làm thế
nào để xây dựng tốt hơn (hay tốt trở lại) hệ thống nghiên
cứu? Nên đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học
cấp cao. Song song, trong tình hình hiện nay của Việt nam
(các giáo viên ở đại học không có đủ thì giờ để làm công tác
nghiên cứu) nên đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm nghiên
cứu quốc gia (TTNCQG). Nhưng phải làm thế nào để có quan hệ
chặt chẽ giữa TTNCQG và các trường đại học. Ở Pháp, có rất
nhiều đơn vị nghiên cứu hỗn hợp gồm có giáo viên đại học và
nghiên cứu viên của TTNCQG.
Có nên có
những nghiên cứu viên “suốt đời” (à vie) hay không? Theo ý tôi,
nên có, nhưng phải hạn chế số lượng. Những nghiên cứu viên, sau
khi được tuyển bởi Trung tâm nói trên, phải trải qua một thời
gian “thử thách” (5 năm) để Trung tâm kiểm nghiệm xem họ có đủ
khả năng nghiên cứu suốt đời hay không? Tuyển nghiên cứu viên
cũng phải do một hội đồng khoa học (mỗi bộ môn có một hội đồng),
dựa trên các công trình nghiên cứu và đề án nghiên cứu của các
thí sinh.
-
Về chất
lượng trong giáo dục, nghiên cứu: Ngay cả trong lãnh vực
giáo dục, nghiên cứu, toàn cầu hóa cũng trở nên tất yếu. Các
đại học Việt nam, các trung tâm nghiên cứu ở Việt nam, các
nhà khoa học Việt nam, cũng sẽ phải cạnh tranh với cộng đồng
khoa học thế giới. Do đó:
a)
Cần
xem xét giáo trình ở Việt nam có ngang tầm với các giáo trình
của các trường đại học trên thế giới (một ví dụ: trong lãnh vực
kinh tế học, một giáo viên đại học Việt nam lúc làm luận án ở
Pháp, đã rất “khổ sở” vì thiếu kiến thức kinh tế cần thiết) hay
không?
b) Trong
lãnh vực nghiên cứu, các công trình phải được công bố trong các
tạp chí Việt nam và đặc biệt, trong các tạp chí khoa học quốc
tế. Mỗi giáo viên, mỗi nghiên cứu viên, nếu muốn đuợc” tăng
chức” (promoted) phải đạt tiêu chuẩn. Một tiêu chuẩn quan trọng
là các công trình đựơc đăng ở tạp chí quốc tế. Sự cạnh tranh
khoa học này đẩy mạnh sự phát triển trí tuệ, không riêng gì của
Việt nam, mà của toàn cộng đồng khoa học thế giới. Mỗi bộ môn ở
Việt nam cũng nên có ít nhất một tạp chí có tầm cỡ quốc tế bằng
tiếng Anh (do đó, một tạp chí quốc tế không bắt buộc phải là tạp
chí nước ngoài).
Nghiên cứu
cần dụng cụ và đặc biệt tạp chí khoa học, sách khoa học. Nhưng
nhu cầu này rất tốn kém. Đó một lý do để nhà nước, trước mắt,
tập trung vào một số lãnh vực.
-
Chảy máu
chất xám: có nên để các em đi học nước ngoài với khả năng có
một số em sẽ định cư lâu dài, hoặc vĩnh viễn ở nước ngoài?
Vấn đề rất nhậy cảm. Nhưng trước mắt, theo ý tôi, nên để các
em ra đi, vì những lý do sau đây:
a)
Phát triển trí tuệ, tiềm năng khoa học là một việc cần
làm. Sử dụng được ở Việt nam trí tuệ đã được đào tạo là rất quý
và tối ưu nhất. Nhưng nếu không làm được việc đó, trí tuệ đã
được đào tạo sẽ giúp trí tuệ thế giới phát triển và gián tiếp
cũng sẽ có “lời” cho Việt nam.
b) Những
du học sinh, sau khi tốt nghiệp, nếu định cư ở nước ngoài (dài
hạn, ngắn hạn) có thể giúp cộng đồng khoa học Việt nam trong
việc hợp tác khoa học, giao lưu khoa học với bên ngoài. Những
người này, nếu có vị trí tốt trong cộng đồng bên ngoài, có thể
làm nhịp cầu vững chắc giữa trong và ngoài nước. Họ có thể trở
về hợp tác giảng dậy, nghiên cứu trong khi chờ đợi Việt nam có
thể sử dụng tốt khả năng trí tuệ của họ.
c) Hàn
quốc trong những năm 60, 70 đã gửi người đi học nước ngoài. Một
số đã ở lại bên ngoài một thời gian. Đến khi kinh tế Hàn quốc đi
lên, họ trở về nước. Tôi hy vọng, và tin tưởng rằng kinh tế Việt
nam ngày càng đi lên. Cho nên tôi không phản đối việc để các em
đi du học bên ngoài. Nhưng nhà nước nên chủ động “vận dụng”
những người đi du học nhưng quyết định chưa về lại Việt nam làm
“công tác” hợp tác. Nếu không làm gì cả, thì đúng là “hoàn toàn”
chảy máu chất xám.
d) Chất
xám Việt nam sẽ ngưng chảy ra bên ngoài khi nào giáo dục, nghiên
cứu ở Việt nam đạt tầm cỡ thế giới và khi nào người làm công tác
đó được sử dụng tốt, được một cuộc sống đàng hoàng.
-
Tài
chính: Có lẽ nhà nước cũng nên “rà” lại hệ thống quản lý của
mình để giảm bớt những nhu cầu không cần thiết và sử dụng số
tiền dôi ra cho giáo dục. Nhưng theo tôi, cũng không thể nào
trang trải đủ. Do đó nên đẩy mạnh các hình thức “mạnh thường
quân” (mécénat). Ví dụ: các chủ xí nghiệp nên đóng góp vào
ngân sách các trường tiểu học, trung học, đại học và đơn vị
nghiên cứu. Thứ nhất, một số chủ xí nghiệp cũng “xuất thân”
từ đó. Bổn phận, và cũng là niềm hãnh diện, là nâng cao chất
lượng các trường đó. Hơn nữa nếu trí tuệ phát triển, năng
suất lao động (lao động chất xám hay lao động chân tay) sẽ
tăng, và năng suất sản xuất cũng tăng theo và sẽ có lợi cho
các xí nghiệp. Ngược lai, nhà nước nên có những biện pháp
giảm thuế cho các xí nghiệp “mạnh thường quân”. Các trường
cũng nên có “sổ vàng” (livre d’or) đề cao các”mạnh thường
quân”. Nói chung, nên phát triển tư tưởng: Khoa học, đào
tạo, giảng dậy, nghiên cứu là sự nghiệp chung của toàn dân,
có lợi cho mọi người.
-
Điểm cuối
cùng: tôi ý thức là những suy nghĩ, những đề nghị của tôi
rất dễ bị đánh giá là “tân tự do”, “phi XHCN”, hoặc đi ngược
lại với chủ nghĩa xã hội, phản dân chủ (antidemocratique).
Nhưng đối với tôi, chủ nghĩa xã hội là làm sao mọi người
được hạnh phúc, trong đó có hạnh phúc được hiểu biết, được
phát triển trí tuệ. Hơn nữa, qua quá trình phát triển vật
chất bảo đảm một đời sống ấm no cũng phải dựa trên phát
triển trí tuệ. Với một nước nghèo như Việt nam, “élitisme”
chỉ là một công cụ tạm thời để tạo ra một tầng lớp trí thức
có đủ khả năng thực hiện bước đầu của quá trình phát triển
xã hội mà người dân Việt nam đang mong đợi. Đối với tôi hình
thành một tầng lớp trí thức ưu tú qua các đại học quốc tế
hoặc các trường có chất lượng cao không ”phản” dân chủ. Vấn
đề là hình thức tuyển sinh, tuyển tài năng phải dân chủ,
không loại trừ tầng lớp nào trong xã hội: giầu, nghèo, thôn
quê, thành thị. Tuyển tài năng không được dựa trên quyền
lực, tiền bạc, hoặc quan hệ bạn bè.
Lê Văn Cường
Giám đốc Nghiên cứu Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học Pháp
Giáo sư ở Trung tâm CORE, Đại học Louvain
Nguồn: Hướng về Giáo dục http://www.ncst.ac.vn/HVGD/
|
©
http://vietsciences.net và http://vietsciences.free.fr Lê
Văn Cường |