Chuyến
đi dạy hát đồng song thanh ở Venice (xứ Ư)
Trần
Quang Hải (Paris)
Mỗi
năm tôi đều được mời sang Venice
dạy hát đồng song thanh . Năm 2004, tôi dạy
từ 8 tới 10 tháng 10, có trên 20 học tṛ từ
khắp các nơi của xứ Ư .
Chuẩn
bị một chuyến đi mất khá nhiều th́
giờ . Ban tổ chức là một viện giao lưu văn
hóa về nghiên cứu âm nhạc đối chiếu
(Instituto Interculturale di Studi Musicale Comparati / Intercultural Institute
of Comparative Music Studies), tọa lạc trên một ḥn đảo
Isola di San Giorgio Maggiore, 30124 Venezia, Ư .
Từ
7 năm nay tôi đều dạy hát đồng song thanh .
Số học tṛ trung b́nh là 20 , có khi lên tới 30 người
. Như vậy cũng gần 200 học tṛ Ư đă « thọ
giáo » học với tôi kỹ thuật hát hai giọng
giờ đây rất được phổ biến
khắp Âu Mỹ .
Venice , một thành phố xây trên mặt nước từ thời Byzantine với nghệ thuật và văn hóa của thế kỷ 12 và 13 được tiêu biểu qua thánh đường San Marco . Ducal Palace ở cạnh thánh đường San Marco được cất theo kiểu gô-tích. Ngoài ra các di tích của nghệ thuật kiến trúc thời Tái Sinh (Renaissance) của thế kỷ 15 , cũng như thời Baroque của thế kỷ 17 được thấy qua nhà thờ Saint Maria. Venice c̣n để lại những di tích của kiến trúc thế kỷ 18 và 19 .
Venice
c̣n là trung tâm thương mại của ba thế kỷ
12, 13 và 14 và là gạch nối giữa Đông và Tây .
Marco
Polo là một người Ư đă từng làm quan trong
triều Mông cổ và đă mang về xứ Ư món ḿ , hoành
thánh mà xứ Ư đă thành công trong việc phát triển
loại bún bằng bột ḿ với nhiều loại khác
nhau (spaghetti, macaroni, tortinelli, tagliatelli, vv...) mà trên thế
giới đều ăn và biết đến qua các
tiệm Pizzeria .
Nơi đáng coi nhứt ở Venice là công trường San Marco.
Một ṭa nhà cao 98m,60 bằng gạch đỏ dùng để treo chuông thánh San Marco . Chuông này bị hư vào năm 1902 và được thay thế bằng một cái chuông khác y như bổn chánh vào năm 1912. Công trường Piazzetta có con sư tử San Marco và tượng thánh Theodore . Chính nơi đây đă chứng kiến những chuyến đi về của các thuyền buôn thời xa xưa, những cuộc lễ quan trọng như Carnaval được tổ chức hàng năm .
Thư
viện chánh của thành phố Venice do ông Jacopo Sansovino xây
cất vào thế kỷ thứ 16, tượng trưng cho
nghệ thuật thời Tái Sinh (Renaissance). Bên trong
được trang trí bởi các họa sĩ thời
đó như Titian, Tintoretto và Veronese .
Một ngôi nhà thờ vĩ đại được xây cất từ thế kỷ thứ 9 trải qua bao thế kỷ cho thấy những kiến trúc thời Byzantine, Romane và Gothique. Phía trên lầu của cửa vô chánh có 4 con ngựa lấy từ Hippodrome năm 1204 mang về Venice. Trang trí bên trong nhà thờ bằng mosaic hơn 4.000m2 qua 4 thế kỷ (thế kỷ 11 tới thế kỷ 14) là một đặc trưng của thánh đường San Marco
Nơi đây là tư dinh của ông thị trưởng thành phố Venice ngày xưa, nơi hội họp chính phủ và cũng là ṭa án . Được xây cất từ thế kỷ thứ 9. Vào thế kỷ bị hỏa hoạn nhưng được trùng tu và ngày nay trở thành một thắng cảnh được các du khách đến thăm viếng nhiều nhất tại công trường San Marco .
Chiếc cầu Rialto Bridge là một nơi đáng coi khi tới Venice . Trải qua nhiều thế kỷ từ thế kỷ 12 làm bằng cây, sau xây lại bằng đá từ thế kỷ 16 là một nơi tấp nập về hàng hóa được chuyên chở tới Venice . Hiện giờ trên cầu Rialto có rất nhiều tiệm bán kỷ vật cho du khách và trên cầu lúc nào cũng có hàng trăm du khách đứng để chụp h́nh lưu niệm
Đảo
Saint George đối diện công trường Saint Marco là nơi
có tu viện Bénédictine được xây cất từ
thế kỷ thứ 10, bị động đất
năm 1223 và được xây cất lại năm
1229 . Chỗ ngủ của tu viện do Giovanni Buora cất
gồm có những pḥng ngủ nhỏ dọc theo một hành
lang dài 128 mét có âm thanh vang dài gần 7 giây là một
kỳ công kiến trúc. Thánh đường Saint George
được cất vào năm 1579 và hoàn thành vào năm
1610 . Nơi đây có nhiều thư viện quan trọng
đặc biệt về lịch sử Venice và thư
viện âm nhạc, lịch sử thu hút rất nhiều nhà
nghiên cứu tới tham khảo . Ngoài ra có một số
viện nghiên cứu quan trọng , đặc biệt
về nhạc học, lịch sử, và từ hơn 40 năm
nay viện giao lưu văn
hóa nghiên cứu nhạc đối chiếu đặt
trụ sở trên đảo Saint George và trở thành
một trung tâm nghiên cứu nhạc dân tộc nổi
tiếng trên thế giới .
Xung
quanh Venice có một số ḥn đảo thu hút du khách như
Torcello (ngôi thánh đường cất vào thế kỷ
12 và ngọn tháp chuông là đáng thăm viếng), Burano
(viếng các ngôi nhà nhiều màu sắc.
Ngoài
ra trên đảo Murano có sản xuất các nghệ
phẩm làm bằng chai đủ màu sắc rất nổi
tiếng trên thế giới và thánh đường Santi
Maria e Donato (thế kỷ 12) . Đảo Lido, dài và
hẹp, là một nơi khá quan trọng đầu thế
kỷ 13 trong lịch sử Venice .
Venice
có 150 nhà thờ và rất nhiều dinh thự lịch
sử và nhiều viện bảo tàng rất đáng
được thăm viếng .
Viếng
Venice phải bỏ ra ít nhất là một tuần mới
có thể đi xem hết được .
Một
điểm quan trọng đáng ghi nhớ là phải có
một lần đi thuyền GONDOLA, một loại
thuyền đặc biệt của Venice do những người
chèo thuyền đội nón rơm đi trên những con
kinh nhỏ bé xuyên thành phố rất thơ mộng .
Vai
tṛ của viện giao lưu văn hóa nghiên cứu
nhạc đối chiếu
Viện giao lưu văn hoá nghiên cứu nhạc đối chiếu (Intercultural Institute of Studies for Comparative Music) được cố nhạc học gia Alain Daniélou sáng lập tại Venice vào thập niên 60 . 40 năm sau, viện này ngày nay do GS Giovanni Giuriati quản lư . Ngoài những lớp dạy múa Ấn độ,trống tabla Ấn độ, trống zarb Ba Tư, sáo ney Thỗ nhĩ kỳ và hát đồng song thanh , c̣n có một khóa về dân tộc nhạc học về một chủ đề lựa chọn, và những buổi tŕnh diễn nhạc cổ truyền . Sự đóng góp của viện này trong việc phổ biến nhạc dân tộc ở Venice rất lớn và thu hút rất nhiều nhà dân tộc nhạc học trên thế giới đến dạy và tham dự những chương tŕnh nghiên cứu . Có trên 50 nhà nghiên cứu nhạc dân tộc từ năm châu đă đến thuyết tŕnh hay tham dự hội nghị do viện này tổ chức . Trong số đó chỉ có hai người Việt Nam được mời là GS Trần Văn Khê và tôi .
Hát đồng song thanh là ǵ ?
Hát
đồng song thanh là kỹ thuật phát xuất từ Mông
Cổ và Tuva . Một người có thể hát hai
giọng cùng một lúc : một giọng trầm
từ cổ họng kéo dài trên một cao độ
suốt một hơi trong khi giọng thứ nh́ được
tạo bởi sự lựa chọn các bồi âm phía trên
để tạo thành một giai điệu .
Người Mông cổ và Tuva
sử dụng bồi âm 6, 7 , 8, 9, 10 và 12 tạo thành âm
giai ngũ cung . Ngoài ra c̣n có các xứ khác ở Tây Bá
Lợi Á cũng có hát loại này như Bashkiria, Altai,
Khakassia, Kalmoukia . Các nhà sư Tây Tạng có một
loại đọc kinh phát ra bồi âm nhưng không
giống cách hát của Mông Cổ và Tuva . Họ dùng
giọng thật trầm và mục đích chánh là tạo
một bồi âm ở quảng ba trưởng trên ba bát
độ (đó là bồi âm số 10 trên nốt chánh hát
từ cổ họng) . Truyền thống này thuộc tu
viện Gelugpa, trường phái Gyuto . C̣n trường phái
Guyme th́ làm thoát ra bồi âm số 12 ( quảng 5 đúng
trên ba bát độ) . Đàn bà Xhosa ở Nam Phi cũng có cách
hát đồng song thanh , nhưng phải hát một bát
độ thấp hơn nốt chánh làm cho giọng đàn
bà trở thành thật trầm (thí dụ họ hát 140 Hz
rồi chuyển xuống 70 Hz, một bát độ
thấp hơn bằng cách làm cho dây thanh quản giả
(fausses cordes vocales hay bande ventriculaire rung lên cùng một lúc
với giọng thật ) . Từ hơn một năm nay, tôi
khám phá ra dân tộc Dani ở đảo Arian Jaya (Tân Ghi-ni
– New Guinea hay Papuasia thuộc xứ Nam Dương) biết
cách hát đồng song thanh một cách lạ kỳ . Có
khi nghe cùng một lúc ba giọng .
Có thể đọc thêm những bài
tôi viết trên trang nhà :
Nhật kư chuyến đi Venice năm
2004
Mỗi một chuyến đi tôi
đều ghi lại những ǵ xảy ra để ôn
lại trong kư ức.
Sáng thứ năm 7 tháng 10, tôi lo
chuẩn bị tài liệu dạy học, coi lại máy vi
tính, CD tuyển các loại hát đồng song thanh ở
Tuva, Mông cổ, Tây Tạng , Nam Phi, Tân Ghi-ni (New Guinea).
Bạch Yến lo nấu cơm, nướng cá dầm nước
mắm gừng, canh cải bẹ xanh cho tôi ăn trước
khi đi lại phi trường Charles de Gaulle 2F .
Từ nhà tới phi trường
khoảng độ 45 km . Nhờ đi lúc trưa nên
đường xá vắng xe .Bạch Yến lái xe
đưa tôi ra tận phi trường . Chỉ mất có
30 phút là tới nơi .
Khi vào chỗ gởi hành lư , tôi
được báo cho biết là chiếc máy bay tôi đi
(Air France phải bớt hành khách v́ lư do trục trặc
kỹ thuật . Không phải một ḿnh tôi bị cho
ở lại . Gần 30 người bị cùng một trường
hợp như tôi . Hăng Air France đă dành chỗ cho tôi
đi chuyến 18giờ 10 thay v́ tôi phải đi
chuyến 15giờ 20. Để đền bù chuyện này, Air
France đă đền cho tôi hoặc 450 Euros nếu tôi dùng
số tiền này để mua vé máy bay đi một nơi
nào đó , hoặc 230 Euros nếu tôi muốn lấy
tiền mặt .
Tôi chọn lấy tiền mặt
để có thể dùng tiền vào việc tiêu xài bên Ư.
Ngồi tại phi trường Charles de Gaulle chờ gần
4 tiếng đồng hồ . Hăng máy bay có cho một
tờ giấy ghi ăn sandwich và một ly nước
ngọt miễn phí . Tôi vào một quán ăn tại phi trường
ngồi ăn sandwich trong khi chờ vào cửa hải quan .
Tới 17 giờ, tôi qua hải quan
vào bên trong đi tới cổng 29 chờ lên máy bay Air
France AF 2337. Hành khách đứng chờ khá đông v́
bị dồn hai chiếc vào một . Tới 17giờ 50
mới cho hành khách lên máy bay . Tôi vào máy bay, ngồi
ở hàng ghế 14A cạnh cửa sổ . Mệt quá, tôi
nhắm mắt ngủ hồi nào không hay .Tới khi
thức dậy th́ cô chiêu đăi viên đă dọn nước
uống xong xuôi và máy bay sắp đáp xuống phi trường
Marco Polo ở Venice . Từ Paris tới Venice chỉ bay
mất 1giờ 40 phút .
20 giờ, tôi chờ lấy hành lư,
xong đi ra ngoài t́m chiếc xe bus đưa đi lại
bến xe taxi tàu (taxi boat) để chở tôi tới đảo
Isola di San Giorgio Maggiore . Tôi gọi điện thoại cho bà
Patricia Spiller , người tổ chức lớp dạy hát
đồng song thanh cho tôi để bà ấy biết là tôi
đă tới Venice và đang trên đường đi
tới nơi tôi sẽ ở .
Bà hẹn tôi tại bến tàu San
Marco phía đối diện với đảo San Giorgio
Maggiore . Tới bến taxi, tôi gặp ông tài xế taxi tàu
, hỏi giá tiền là 90 Euros . Tôi không biết tiếng Ư
, bằng ḷng trả cho yên việc chứ c̣n trả giá có
khi bị từ chối th́ trễ hết mọi chuyện
.
Tàu chạy khoảng 20 phút th́
tới đảo San Giorgio Maggiore . Tôi vào gặp ông gác
dan của trung tâm Giorgio Cini . Ông ta đưa tôi phong b́ có
vé đi tàu suốt 4 ngày tôi ở đây, và tất
cả giấy tờ cần thiết để kư tên cho
đúng thủ tục hành chánh . Ông gác dan biết nói
tiếng Anh, trao cho tôi ch́a khóa pḥng số 6 , lầu 2. Tôi
lấy thang máy lên lầu 2 và tới pḥng số 6 có tên tôi
trên cửa . Đúng là pḥng mà tôi tới ở hồi năm
ngoái , rất quen thuộc. Tôi để hành lư và phải
đi ra bến tàu để đi sang bên kia sông là công trường
San Marco (nổi tiếng nhất ở Venice). Tôi chỉ
chờ có 3 phút là có tàu tới . Và chỉ đi có 3 phút
là tới bên kia sông . Bà Patricia Spiller đứng đợi
tôi nơi bến tàu .
Tôi chạy lại chào bà và
hỏi :
« Patricia, Bà mạnh giỏi không ?
Xin lỗi Bà cho việc xảy ra bất ngờ với
chuyến bay tới trễ ».
Bà đáp :
« Anh
Hải, không sao đâu. Không có trễ lắm đâu . Ḿnh
c̣n đủ th́ giờ đi ăn cơm tối . Tôi có
đọc tin trên báo chí biết là có vấn đề
kỹ thuật trên toàn xứ Ư . Không phải chỉ
ở Venice mà ở các tỉnh khác như Milano, Roma cũng
bị trục trặc nữa ».
Hai người cùng đi bộ
tới nhà hàng Antica Sacrestia, ở đường Calle della
Sacrestia 4442, Castello, 30122 Venezia . Đây là nhà hàng nấu cơm
ngon, giá phải chăng, rất đông khách dù bất
cứ ngày nào. Nếu tới trễ là phải đứng
đợi . Nơi đây là nơi mà mỗi khi tôi
tới dạy đều dùng cơm trưa chiều, v́ trên
đảo San Giorgio Maggiore không có tiệm cơm chỉ có
trung tâm Fondazione San Giorgio Cini, một ngôi nhà thờ tráng
lệ và một tu viện được dùng làm khách
sạn tương đối rẻ đối với
đời sống ở Venice (50 Euros một đêm ) nhưng
phải là người tới học hát hay các giáo sư
ngoại quốc tới nghiên cứu tại các thư
viện trong trung tâm San Giorgio Cini , chứ du khách b́nh thường
không được vào ở .
Ông chủ nhà hàng vừa thấy
chúng tôi bước vô , miệng nở một nụ cười
xă giao đúng mức, và bắt tay chào :
« Xin chào Ông Bà . »
Ông chủ nhà hàng nói tiếng Pháp
rất giỏi . Tôi đă quen ông ta từ mấy năm
nay rồi .
« Xin chào ông chủ », tôi
trả lời . « tôi rất vui mừng gặp lại
ông . »
Ông chủ nhà hàng đưa bà
Patricia Spiller và tôi vào pḥng ăn đầy khách đang
ăn uống . Chúng tôi ngồi bàn cạnh cửa ra vào .
Tôi hỏi bà Spiller :
« Patricia. Tối nay tôi nhờ Bà
lựa món ăn dùm tôi nhé . »
Bà cười đáp :
« Được rồi nếu anh
muốn . Tôi chọn cho anh một dĩa spaghetti a la vongole
(loại bún Ư với hải sản) . Sau đó một con
cá sole chiên với khoai tây luộc. Anh thích ăn cá không ? »
Tôi nhanh nhẩu trả lời :
« Thích lắm chớ . Cá
biển ở Venice rất ngon và tươi nữa . »
Bà Spiller liếc mắt nh́n tôi :
« Anh coi bộ sành thức ăn
ở đây dữ à ! Đúng như vậy . Cá ở
tiệm này được mua lúc tàu đánh cá vừa
cặp bến mỗi ngày , cho nên cá rất tươi và
ngọt thịt lắm »
Cả bà Spiller và tôi đều thích
rượu đỏ nên kêu một chai rượu đỏ
thứ thiệt ngon , đồng thời kêu hai chai nước
lạnh . Bữa ăn kéo dài tới 23 giờ . Tôi nói tôi
cần về ngủ để sáng hôm sau c̣n dạy . Bà
đồng ư và tôi đưa Bà về tới nhà rồi
trở lại lấy chuyến tàu chót để qua đảo
. Chỉ có chiếc tàu số 82 là chạy tới đảo
thôi , và chuyến chót là 23 giờ 40 . Sau đó th́
phải ngủ ngoài đường v́ không c̣n tàu nào
chạy qua đảo hết . Đó là một bất
tiện khi ở trên đảo này , không thể đi chơi
lâu được và phải canh giờ để về .
Sau khi rời tàu để đi
lại trung tâm Giorgio Cini, tôi phải bấm chuông để
ông gác dan mở cửa . Nơi lầu 2 tôi ở chỉ có
tôi, một ông giáo sư ở pḥng 5 làm việc chỉ
ở trong tuần và cuối tuần ông ấy trở
về nhà ở Milano . C̣n một ông khác ở pḥng số
3. Tôi tắm rửa xong xuôi v́ nực quá. Trong pḥng tôi
phải để thuốc trừ muỗi v́ nhà ở
cạnh sông nên có nhiều muỗi lắm . Nếu không có
thuốc trừ muỗi th́ có lẽ suốt đêm sẽ
không ngủ được v́ bị muỗi « tấn
công » liên tục và bị tiếng kêu « o ! o ! »
bên tai th́ có môn độn thổ trốn thôi .
Thế là xong một buổi
chiều đầu tiên tại thành phố Venice diễm
lệ .
Tôi
quên mang theo đồng hồ reo , nhưng cứ để
tự nhiên v́ buổi sáng tôi không có dạy nên không
bị phập pḥng ngủ dậy trễ th́ hư
chuyện hết .
8giờ sáng tôi thức dậy .
Tắm xong , đi vào pḥng khách nơi lầu 2 có một
chỗ dùng làm pḥng ăn điểm tâm . Tôi gặp bà
dọn pḥng và dọn điểm tâm . Tôi tới bắt
tay chào hỏi :
« Chào bà Anna . Tính ra cũng
một năm trôi qua , bây giờ gặp lại bà tôi vui
lắm »
« Tôi cũng vậy », bà
Anna đáp . « Nhưng mà sao ông c̣n nhớ tên tôi
chớ ? »
Tôi mỉm cười :
« Đó là trí nhớ mà Trời
ban cho tôi . Tôi hay quên nhiều chuyện , nhưng tên người
th́ tôi nhớ lắm . Hơn nữa bà rất tử
tế với tôi mỗi khi tôi tới đây . Do đó tôi
càng nhớ tên bà hơn ».
Sáng nay khoảng 10 giờ , tôi có
hẹn với bà Patricia và cô Sabrina để xem pḥng tôi
dạy hát trưa nay . Có một ông kỹ sư âm thanh
tới chỉ cho tôi cách dùng các máy phóng thanh, máy phóng
đại từ máy vi tính của tôi để cho xem h́nh
trên màn ảnh . Mọi việc đều tốt đẹp
.
12
giờ tôi lấy tàu số 82 đi qua công trường
San Marco để đi ăn cơm . Tôi tới tiệm
Antica Sacrestia ăn món bún với đồ biển (spaghetti
a la vongole). Sau đó ăn một dĩa đồ biển
chiên với cá nhỏ, mực, tôm và uống cà phê . Bên
Ư cà phê làm rất đặc, uống không quen thấy
đắng, nhưng khi quen rồi th́ thật là ngon .
Ở
cách nhà hàng có một nơi « internet point » để
kiểm thơ . Mỗi ngày tôi đều tới đó
kiểm thơ từ , rất tiện, nhưng khá mắc .
Tôi mua một thẻ 18 Euros cho 190 phút . Nhưng c̣n rẻ hơn
là mua từng giờ .
Khoảng
13giờ 30 tôi lấy tàu trở về nơi dạy .
Nhờ ở trong trung tâm Giorgio Cini nên tôi không mất th́
giờ đi lại .
14giờ
tôi tới pḥng dạy đă có 21 người ngồi
chờ . Hôm nay là ngày đầu tiên dạy. Trong số người
học có vài người đă học với tôi
những năm qua .
Với
phương pháp của tôi, chỉ hai giờ đầu,
tất cả mọi người đều hát hai
giọng rơ ràng nhờ vào chương tŕnh ở trong máy
vi tính của tôi cho thấy h́nh ảnh của giọng hát
. Tôi thử từng người để xem giọng
họ dài bao lâu . Tất cả đều không đi quá
25 giây . Những bài tập hát gồm có cách gồng
bụng, gồng cổ, giữ hơi, và phải hát
thật to . Trong ngày đầu chỉ học cách hát
với miệng và môi cùng cổ họng gồng thôi .
Muốn tạo những bồi âm cần phải thay đổi
thể tích trong miệng bằng cách phát âm những nguyên
âm « a, e, i, o, u ». Hát nhỏ, rồi hát lớn, qua
giọng mũi . Chính giọng mũi làm bôi đi những
bồi âm không cần thiết . Lúc đầu có người
làm được. Dần dần, mọi người
tập và đều hát được . Ai nấy đều
vui mừng khi thành công .
18giờ
xong ngày đầu tiên dạy . Tôi trở về pḥng
nghỉ một chút v́ hát 4 tiếng đồng hồ làm
cho giọng muốn khan tiếng .
20
giờ tôi ra bến tàu lấy tàu đi sang San Marco để
đi ăn cơm tối . Nhà hàng đông khách quá . May là
tôi có một chỗ để ăn . Món đầu
vẫn là bún Ư với sốt cà chua. Rồi tới món
thứ nh́ là thịt ḅ nướng với khoai tây chiên .
Sau đó uống cà phê . Tôi kêu rượu đỏ và nước
suối .
Ăn
xong, tôi đi dạo một ṿng công trường San Marco ,
thấy rất nhiều du khách , đặc biệt là năm
nay có rất nhiều du khách Tàu ở Trung quốc sang .
Họ đi từng đoàn, xí xô xí xào, và chụp h́nh
lia lịa v́ có lẽ là lần đầu họ tới
viếng Venice nên họ hoa mắt trước cảnh
đẹp của thành phố . Du khách Tàu bắt đầu
thay thế du khách Nhựt . Người Nhựt không c̣n
đi từng đoàn như xưa mà đi lẻ tẻ v́
họ đă quen với cách du lịch bên Âu châu .
Trở
lại bến tàu để lấy tàu qua đảo San
Giorgio Maggiore lúc 22giờ 30 . Tôi không thể đi trễ hơn
v́ tàu chạy sang đảo chuyến chót là 23giờ 20.
Nếu đi trễ hơn là tôi phải ngủ ngoài
trời hay mướn khách sạn khác để ngủ .
Thế
là xong một ngày ở Venice .
Tôi
thức dậy lúc 8giờ. Không có mang theo đồng
hồ reo nên cũng hơi bất tiện . May là tôi là người
hay thức sớm nên không bị phải lo ngại
thức trễ .
Anh
Graziano Tisato, một kỹ sư âm thanh và cũng là
một nhà nghiên cứu âm thanh học, là người tôi
quen cách đây 15 năm tại một hội nghị
về giọng ở Besancon (Pháp) . Mỗi lần tôi sang
Venice , tôi đều có hẹn với anh để gặp
nhau . Anh ấy có mời tôi tới dạy lớp âm
nhạc điều trị học cách đây 4 năm và
anh ấy cùng bác sĩ Maccarini có làm việc chung cho
một dự án về giọng của tôi cách đây 3 năm
tại Venice và có làm một bài viết về đặc
trưng của giọng hầu trong cách phát bồi âm . Bài
tham luận đó đă được xuất bản
trong một quyển sách nghiên cứu về giọng ở
Ư .
Sáng
nay anh Tisato gọi điện thoại cho tôi , hẹn
gặp nhau tại công trường San Marco lúc 10 giờ
để hàn huyên .
Đúng
10 giờ tôi tới công trường và thấy anh đứng
ngay góc hẹn rồi .
Anh
Graziano Tisato thấy tôi , chạy lại mừng hỏi :
« Hải,
anh mạnh giỏi không ? Tôi rất mừng gặp
lại anh ở Venice »
Tôi
ôm anh siết vào ḷng và nói :
« Tôi
khỏe . C̣n anh th́ sao ? »
Hai
người đi lại một quán cà phê ở cạnh
bờ sông. Trong khi ngồi nh́n cảnh vật . Anh Graziano
hỏi tôi :
« Công
việc nghiên cứu của anh có kết quả nào
mới lạ không ? »
Tôi
vui vẻ đáp :
« Từ
hôm gặp anh lần chót hồi năm ngoái, tôi chú
trọng việc nghiên cứu về cách hát tạo
những bồi âm ở dưới âm chánh của
giọng . Cách hát này đă giúp tôi trị bịnh
những người mất thanh quăng và có thể tạo
thành một phương pháp hữu hiệu cho những người
bị bịnh về giọng . Tuy nhiêu tôi đang ở
trong giai đoạn thể nghiệm nên chưa công bố
cho thiên hạ biết . Ngoài ra tôi khắc phục
được những bồi âm qua những nguyên âm phát
ra dùng vào việc dạy yoga qua giọng hát . Tôi có
thể hát 7 chakras với cao độ rơ ràng dựa trên 7
nguyên âm « u, ô, ơ, a, e, ê, i » tạo thành
những cao độ bồi âm số 4, 5, 6, 8, 10, và 12 . Anh
có muốn nghe tôi hát thử cho anh nghe không ? »
« Muốn
chớ . », anh Tisato sốt sắng trả lời .
Tôi
biểu diễn ngay cách hát giọng thật trầm qua cách
gồng giọng xuống một bát độ, rồi
xuống một bát độ và một quăng 5. Anh Tisato
trố mắt ngạc nhiên và thán phục .
« Anh
giỏi thật. Đây là lần đầu tôi nghe rơ
những nốt thật trầm và to như vậy ».
Anh Tisato nói. « Tôi thấy anh cần phải công bố
kết quả này bên Ư . Tôi sẽ t́m cách mời anh sang
dự một hội nghị về giọng ở Ư
mới được . »
« Ồ !
Nếu được như vậy th́ quư quá ! »
tôi hớn hở trả lời .
Câu
chuyện hai người kéo dài tới 12 giờ trưa th́
anh Graziano Tisato kiếu từ tôi ra về .
Tôi
đi ăn cơm và trở về dạy khóa hát đồng
song thanh ngày thứ nh́ .
Từ
14 giờ tới 18 giờ, tôi dạy kỹ thuật đồng
song thanh thứ nh́ . Có quay một cuốn video để
biết như thế nào . Bắt đầu bằng cách hát
« e – ơ », rồi để đầu lưỡi
đụng đốc giọng , kéo đầu lưỡi
xuống đọc chữ « lang ». Kế tiếp
đọc chữ « long » cũng theo kỹ
thuật của chữ « lang ». Sau đó đọc
hai chữ « lang » và « long » hai lần mau hơn,
rồi bốn lần mau hơn . Học tṛ hăng say làm
theo mặc dù rất mệt . Tôi dạy thêm cách để
giọng vô mũi, mím môi, hát mạnh rồi hát nhẹ .
Sau cùng tập hát với cách tạo bồi âm số 5 .
Tất cả đều làm được . Học tṛ xúm
nhau mua CD và đàn môi . Tôi không có mang theo nhiều ,
chỉ vài CD và 3 đàn môi . Một cô học tṛ tên Laura
Raiola nói cho tôi biết là khi cô ấy nghe bồi âm tự
nhiên nước mắt chảy ra . Cô khóc v́ bồi âm làm
cho tâm hồn cô rung động chứ không phải cô
ấy buồn khổ ǵ hết . Tôi nói cho cô Laura biết
là có thể bồi âm khơi lại những ǵ thầm kín
trong ḷng cô mà cô muốn dấu kín . Cô ấy gật
đầu rồi bỏ đi .
Có
một học tṛ tên là Marco Smergo, năm nay được
34 tuổi mà vẫn chưa có việc làm nhưng rất
ham học hát . Cậu ta xin gặp tôi riêng sau giờ
dạy .
Tôi
đưa cậu ấy lên pḥng và cậu ta biểu
diễn cách hát giọng thật cao (counter tenor) rất
tốt . Tôi chịu khó ngồi nghe và khuyến khích
cậu ta . Rồi có lẽ t́m được người
để trút bầu tâm sự, Marco mới thổ lộ
cho tôi biết cuộc đời riêng tư từ lúc
nhỏ với những xung đột với cha .Lớn lên
Marco vẫn nhứt quyết muốn trở thành ca sĩ nhưng
bị cha từ chối bắt phải học kiến trúc
.
Tới
20 giờ, tôi nói với Marco đi ăn cơm tối
với tôi ở quán cơm tôi thường ăn . Hai người
lại tiếp tục nói về sự ích lợi của
giọng hát cho tới măn buổi ăn .
Trời
về khuya, tôi phải ra bến tàu để lấy
chuyến tàu chót là 23 giờ 09 phút .
Hôm
nay tôi thấy có kết quả nhiều hơn hôm qua . Ḷng
vui thơ thới . Tôi đi tắm và đi ngủ ngay v́
mệt quá .
Venice
chủ nhựt 10 tháng 10, 2004
Sáng
hôm nay nơi tôi ở chỉ c̣n có một ḿnh tôi. Các giáo
sư khác đi về hết . Bà dọn pḥng và dọn
điểm tâm cũng không có đến và có nói với
tôi là bà có chuẩn bị sẵn bánh ḿ, bơ, mứt. Tôi
chỉ cần đi xuống chỗ có máy bán cà phê mua cà
phê uống đỡ . Như vậy bà ấy không cần
phải đến . Tôi đồng ư v́ Bà cũng có gia
đ́nh và cũng cần một ngày nghỉ với
chồng con .
9giờ
sáng tôi đi sang công trường San Marco chụp một
số h́nh, và đi bộ tới chiếc cầu Rialto (cũng
là một nơi đáng xem ở Venice) . Du khách tấp
nập đi ngoài đường . Tôi ghé một vài nơi
chụp phong cảnh để lưu niệm .
11
giờ trưa tôi trở lại gần quán cơm để
chờ giờ ăn trưa . Ghé vào một tiệm cà phê
để tên là S.Giacomo . Tôi nghĩ là một tiệm cà
phê Ư thôi . Tới chừng bước vào bên trong mới
thấy người đứng nơi quày là một người
đàn bà Á châu . Sau đó mới biết là người
Trung quốc .
Tôi
uống một ly capucino cũng tạm ngon . Rồi đi
lại nhà hàng ăn cơm trưa . Hôm nay có ông chủ
tiệm ở đó . Tôi đang ngồi chờ dọn món
bún với nước sốt cà chua , th́ th́nh ĺnh ông
chủ tiệm bước lại gần bàn tôi và nói :
« Xin
kính chào giáo sư . Ông cho phép tôi đứng chụp
một tấm h́nh với ông được không ? Con
trai tôi sẽ chụp để làm quảng cáo trên báo
« Xin
ông cứ tự nhiên », tôi đáp. « Đó là
một vinh dự cho tôi chớ ! »
Ăn
xong, tôi trở về trung tâm Giorgio Cini để dạy ngày
chót của lớp hát đồng song thanh .
Hôm
nay tôi cho ôn lại các bài tập từ ngày đầu tiên
. Kết quả là mọi người hát hai giọng
mạnh hơn và bồi âm nghe rơ hơn . Tôi dạy thêm cách
phát ra bồi am số 5 . Sau nửa giờ tập , mọi
người đều hát được bồi âm số
5 . Tiếp theo tôi bắt tập thể dục Tây tạng
để làm tăng thêm sức mạnh . Bài tập là cách
hít đất nhưng phải làm thật chậm và
phải làm theo hơi thở hít ra khi hạ ḿnh xuống
đất, đít phải hạ xuống gần đất,
đầu phải ngước lên . Khi thở ra bằng
miệng , phải phùng miệng và thổi ra với
tất cả sức mạnh và thật chậm trong khi
đít được nâng lên cao và đầu hạ
thấp xuống . Càng chậm càng tốt theo sự kéo dài
của hơi thở . Lám ba lần như vậy sẽ
xuất hạn dầm dề mới được . Có người
nghe theo và làm được. Có người không quen làm
không được như ư tôi muốn v́ làm mau quá . Tôi
chỉ muốn cho học tṛ biết nhiều cách luyện
tập chứ không thể nào bắt mọi người
phải làm được ngay .
Bài
tập chót là bài tập tôi đặt tên là « harmonic
kiss » (nụ hôn bồi âm) tức là để hai
miệng lại gần nhau nhưng không được
đụng nhau . Đây là một trong những bài tập giúp
cho một cặp vợ chồng hay t́nh nhân có thể ḥa
giải sau khi có chuyện gây gổ nhau . Mọi người
đều lấy làm lạ chưa hiểu tại sao
« nụ hôn bồi âm » có thể làm cho cặp
vợ chồng thuận thảo nhau trở lại .
Tôi
mới giải thích là khi người vợ chu miệng tṛn
cặp môi, phát ra một âm thanh « u » với
giọng hát to và đều và kéo dài khoảng 15 giây ,
trong khi đó người chồng để miệng ḿnh
tới thật gần miệng vợ và phải nín
thở cùng một lúc phải làm cái miệng theo cách
đọc chữ « oa , oa, oa » như em bé khóc
« oa ! oa ! »mà không được ra
tiếng . Với cách đó những bồi âm từ âm chánh
phát ra từ miệng vợ chạy vào miệng của
chồng và với cách thay đổi thể tích của
miệng th́ hai người có thể nghe một vài
bồi âm phát ra . Khi người vợ hát như thế ,
mắt nhắm nghiền, người chồng mắt nh́n
vợ đang chu miệng với đôi môi tṛn như
chờ đón một nụ hôn . Chính giây phút đó làm
cho người chồng có thể nhớ lại những năm
tháng chung sống hạnh phúc của thời niên thiếu
của lúc gặp nhau ban đầu . Ngựi chồng có
thể hối hận v́ đă làm buồn phiền vợ
ḿnh và cảm thấy ḿnh bậy. Anh có thể ôm vợ
xin lỗi . Người vợ sẵn sàng tha thứ cho
chồng . Đó là cách ḥa giải nhờ vào bài tập
« nụ hôn bồi âm » . Nhưng phải tập bài
tập này lúc hai người đang ôn ḥa với nhau ,
chứ đang giận nhau , gây nhau th́ khó mà bắt đầu
tập kiểu hát này . Ngoài ra có thể tập khi hai người
đang ôm nhau tắm . Chính sự âu yếm này càng có
thể làm tăng sự yêu thương . Phương pháp
này gọi là « âm nhạc điều trị học »
(music thérapy / musicothérapie), có nghĩa là dùng âm nhạc
để trị bịnh .
Tôi
chấm dứt lớp dạy bằng một màn tŕnh
diễn các loại đàn môi, muỗng . Học tṛ
trố mắt nh́n thán phục, và vỗ tay hoan nghinh quá xá
.
Tôi
cùng các học tṛ chụp h́nh kỷ niệm . Ai cũng
muốn chụp h́nh riêng với tôi để giữ
một kỷ niệm sau 3 ngày học với tôi . Một vài
người hỏi tôi có dạy riêng hay không , và cũng
có người xin địa chỉ
để mời tôi tới tỉnh của họ
dạy một lớp hát đồng song thanh cho họ và các
bạn của họ . Tôi rất măn nguyện là phương
pháp dạy hát đồng song thanh của tôi đă mang
lại niềm vui cho mọi người và tạo một
trường phái mới .
Trong
đám học tṛ , hôm nay tôi thấy có một cậu
trẻ người Á châu ngồi nghe trong pḥng mà tôi không
biết là ai . Khi chấm dứt lớp học th́ cậu
ấy chạy lại chào tôi :
« Kính
chào Bác. Con tên Vũ, học tṛ của thầy Phạm Đức
Thành dạy đàn bầu . Con ở bên Hoa Kỳ, tiểu
bang North Carolina, được học bổng sang Ư học
nhạc ba tháng . Con mới từ bên Anh về , biết Bác
có dạy ở đây nên con tới t́m Bác để chào. »
Tôi
cũng chào lại :
« Con
học đàn bầu với Phạm Đức Thành
hả ? Tốt quá . Năm nay con được
bao nhiêu tuổi ? »
« Dạ ,
con được 21 tuổi. Con rất vui được nói
chuyện với Bác . Thầy con có nhắc tới Bác . Con
lại có dịp vào trang nhà của Bác, biết Bác nghiên
cứu nhạc Việt và hát đồng song thanh . Con
rất kính phục Bác là người đă đóng góp
rất nhiều trong việc làm cho thế giới biết
tới nhạc Việt ở hải ngoại . »
Tôi
hỏi thăm cháu Vũ học hành ra sao và biết là cháu
có ư định học y khoa để trở thành bác sĩ
và sau đó sẽ để dành th́ giờ học
nhạc cổ truyền . Tôi mừng là thấy một
cậu trẻ sinh ra và lớn lên ở hải ngoại mà
c̣n biết nói tiếng Việt và lại muốn học
hỏi nhạc dân tộc hơn là nhạc tây phương
. Điều này rất hiếm trong thời buổi này .
Tôi
mới cháu Vũ về pḥng của tôi tại trung tâm . Tôi
hỏi thăm gia đ́nh cháu và sau đó mời cháu đi
ăn cơm tối với tôi . Tối nay có ba người
học tṛ : cô Jennifer , người Mễ tây cơ
lập gia đ́nh với một người Ư ở Venice
, một cậu học tṛ tên Nirjan Flavio Gorvisieri, ca sĩ và
thích về thiền và trị bịnh bằng giọng và
cũng là người coi về nhạc trị bịnh
ở một đại hội liên hoan nhạc ở
xứ Ư cùng với cô bạn người Ba Tư tên là
Mercedeh Azar Riahi cùng đi ăn cơm với tôi tại nhà
hàng Antica Sacrestia .
Tối
nay tôi ăn một pizza đặc biệt mà chồng cô
Jennifer Cabreva Fernandez cho là đặc biệt nhứt
của tiệm này v́ anh ta ăn đây mỗi tuần .
Quả
thật ngon thiệt . Pizza với thịt nguội un khói ,
có trứng gà , sốt cà chua . Ăn một pizza là đủ
no v́ to lắm . Tất cả mọi người đều
ăn pizza khác nhau . Trong khi ăn tôi giải thích về
sự ích lợi của hát đồng song thanh và cách hăm
thanh khi hát để cho người nghe rơ bồi âm mà không
c̣n nghe âm thanh chánh . Cậu Nirjan muốn mời tôi tham
dự đại hội liên hoan do anh làm giám đốc
nghệ thuật tức là người lựa chọn
nghệ sĩ cho đại hội âm nhạc . Tôi chưa
biết trả lời ra sao v́ công việc của tôi càng
ngày càng nhiều . Nhưng tôi cho biết là tôi rất
muốn tŕnh diễn tại đại hội đó trong tương
lai . Cháu Vũ làm quen được với vài bạn
mới và đề nghị sẽ biểu diễn đàn
bầu cho mấy người học tṛ nghệ sĩ
của tôi .
Buổi
tối cuối cùng tại Venice chấm dứt . Tôi từ
giă mọi người và hẹn sẽ gặp lại nhau
trong tương lai . Cháu Vũ có thể sang Paris trong tháng
11 . Như vậy tôi có cơ hội gặp lại cháu
ở Paris trong một tháng nữa . Cháu sẽ trở
về Mỹ đầu tháng 12 và tiếp tục học y
khoa như cháu dự tính .
Sáng
nay lúc 9giờ 30 có một tàu taxi đến đưa tôi
ra phi trường Marco Polo để trở về Paris .
10
giờ tôi tới phi trường . Phải làm đuôi
để gởi hành lư mất cả giờ mới
gởi được hành lư . Cách làm việc ở phi trường
này rất chậm mất rất nhiều th́ giờ .
Mới biết rằng mỗi phi trường có một cách
làm việc khác nhau .
12giờ
30 tôi lên máy bay Air France AF 2309. Về tới Pháp, Bạch
Yến ra đón tôi tại phi trường , rồi chúng tôi
đi ăn phở ở tiệm Bi Da Việt Nam, một
tiệm phở ngon nhứt nh́ ở Paris .
Chuyến
đi dạy hát đồng song thanh gặt hái thành công v́
tôi được mời trở sang Venice năm 2005 trong ba
ngày 7-8-9 tháng 10 . Tôi sẽ có thêm học tṛ người
Ư trong số hàng ba trăm người Ư đă học
với tôi từ nhiều năm qua . Tôi đă gieo hạt
giống hát đồng song thanh khắp mọi nơi ,
đặc biệt là ở xứ Ư tôi đă đi
dạy ở nhiều tỉnh từ Bắc tới Nam
(Milano, Torino, Vicenza, Venezia, Grossetto, Bologna, Genova, Bergamo,
Volterra, Siena, Cuomo, Napoli, Roma) và tại hai đảo Sicilia và
Sardinia.
Tôi
mơ một ngày có cơ hội dạy người
Việt kỹ thuật này v́ tôi ước muốn sẽ
có một người Việt tiếp tục việc làm
của tôi khi tôi không c̣n sức để quăng bá một
cách độc nhất vô nhị này .
Trần
Quang Hải (mùa thu 2004)