Lê Văn Thiêm, sinh ngày 25/3/1918 tại Đức Thọ, Hà
Tĩnh, Việt Nam (hay người ta còn gọi là Đông Dương),
mất ngày 3/7/1991 ở thành phố Hồ Chí Minh. Là sinh
viên khoá 1941, Lê Văn Thiêm đã từng học trung học
tại trường Quy Nhơn và tốt nghiệp ở Đông Dương.
Lúc đó, trường đại học duy nhất ở Đông Dương được
đặt ở Hà Nội và không có chuyên ngành Toán. Ông đã
ghi danh và đỗ thứ hai ở kỳ thi năm 1938; được nhận
học bổng sang học tại Pháp. Ông chuẩn bị cho kỳ thi
tuyển vào Trường Đại học Sư phạm đối với sinh viên
nước ngoài và đỗ năm 1941. Tại đây, ông đã học cử
nhân ngành Toán. Ở Bizuth (1941-1942), ông sống cùng
với Max Fonvieille, Robert Carol, Gérard Debreu và
Paul Roussel. Các bạn của ông miêu tả ông như một
người đàn ông khiêm tốn và kín đáo, rất ít nói. Tuy
nhiên, khu nhà trọ của ông lại rất sôi động và công
việc thường xuyên bị gián đoạn bởi sự có mặt của
những người khách với những cuộc tranh luận theo
nhiều chủ đề khác nhau.
Thiêm cũng tham gia vào tranh luận như những người
khác. Một ngày năm 1942, ông đã chỉ ra rằng những
người đồng hương của mình, trong đó có các nhà trí
thức, các kỹ sư, giáo sư và những người khác đã lần
lượt bị tước bỏ chức vị. Vào thời điểm đó, ông đã
tác động rất mạnh tới các bạn của mình, những người
có nhiều kỷ niệm với giai đoạn này. Một người Đông
Dương khác cùng khoá với ông là Trần Đức Thảo, hiện
là Giáo sư Triết học ở Việt Nam. Thường có những
sinh viên Đông Dương ở ngoài trường đến bàn bạc với
Thiêm, nhưng ông không bao giờ nói với các bạn về
điều đó.
Ông đã không tham gia kỳ thi cao học và rời trường
Sư phạm vào cuối năm 1942 để sống một năm ở Thụy Sĩ
và cùng nghiên cứu với Nevanlinna về hàm phân hình.
Chính những kết quả mà ông đã thu thập được tại đây
có ý nghĩa vô cùng quý báu đối với ông trong cả cuộc
đời. Đặc biệt, cũng tại đây ông đã thu thập được
chất liệu cho luận án mà ông bảo vệ tại Paris năm
1948 dưới sự hướng dẫn của Georges Valiron, chuyên
gia hàng đầu của Pháp ở thời kỳ đó về hàm giải tích
của một biến số phức. Luận án của ông đã được bảo vệ
tại một hội đồng gồm Arnaud Debjoy làm Chủ tịch,
Georges Valiron, Paul Dubreil. Chính tôi cũng làm
luận án dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Georges
Valiron và bảo vệ tại Đại học Strasbourg, lúc đó
đang sơ tán ở Clermont-Ferrand vào năm 1943 với một
đề tài hơi khác với chuyên đề nghiên cứu của Giáo sư
Valiron. Tuy nhiên, tôi cũng đã bảo vệ luận án tiến
sĩ với Giáo sư Valiron. Lê Văn Thiêm đã sang Thụy Sĩ
và là giảng viên tại Trường Đại học Bách Khoa Zurich
trong vòng một năm.
Năm 1949, ông rời Thụy Sĩ để trở về Việt Nam, khi đó
chiến tranh đang diễn ra rất ác liệt. Chuyến đi của
ông rất dài và vất vả. Ông đã đi trong điều kiện
tương đối bình thường từ Bangkok và sau đó đi bộ
xuyên qua các khu rừng rậm ở Nam Bộ (Cochinchine) và
cuối cùng theo đường mòn đi lên Việt Bắc, khu tự do
ở miền Bắc, đầu não kháng chiến vào thời điểm đó. Ở
đó, ông đã gặp nhiều trí thức mà trong số đó phải kể
đến Tạ Quang Bửu và Trần Đại Nghĩa. Mối liên hệ giữa
ông với hai người này, nhất là với Tạ Quang Bửu, rất
bền chặt trong suốt cả cuộc đời. Lúc đó, Việt Nam
cũng có được gần như đầy đủ các sách toán, Lê Văn
Thiêm đã mang về một bản sao cuốn sách của Courant
Hilbert: Phương pháp Toán Lý, mà một người bạn cùng
khoá đã cho mượn; cả những cuốn sách ông đã thu lượm
được ở Thụy Sĩ và ở Pháp sau đó, nhưng chắc chắn là
không nhiều vì ông đã phải trải qua một chuyến đi bộ
rất dài. Tạ Quang Bửu cũng đã học ở Pháp mấy năm
trước đó, gần cùng thời gian với tôi ở trường Đại
học Sư phạm (1934-1937), và chính ông cũng đã mang
về Việt Nam, nơi sau này ông giữ vai trò chính trị
quan trọng, cuốn sách lớn của Bourbaki: Hình học đại
cương. Lê Văn Thiêm, Trần Đại Nghĩa và Tạ Quang Bửu
đã cùng nhau cố gắng xây dựng nền khoa học ở miền
Bắc Việt Nam, trong một đất nước có tới 95% người mù
chữ. Tuy nhiên, ở đó, họ đã thành công.
Đầu năm 1950, Lê Văn Thiêm được giao trọng trách
thành lập và làm Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học
Cơ bản, trong khi ông vẫn đang là Hiệu trưởng Trường
Đại học Sư phạm (tất nhiên là cả hai trường này đều
nằm trong vùng tự do vì cuộc chiến tranh Đông Dương
chống Pháp đang quyết liệt). Cả hai trường này đều
giữ vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo các
cán bộ khoa học và kỹ thuật cho đất nước: giúp cho
giáo dục đạt đến trình độ phù hợp, mặc dù hoàn toàn
bị cô lập nhưng phát triển nhanh chóng về giáo dục
và khoa học sau khi chiến tranh kết thúc. Một số
lượng lớn các cán bộ khoa học và kỹ thuật của Việt
Nam hiện nay đã được đào tạo tại hai trường này.
Chính hai trường này đã làm cơ sở để mở lại ngay Đại
học Tổng hợp Hà Nội sau Hiệp định Genève năm 1954
với một đội ngũ giảng viên hoàn toàn của Việt Nam.
Đó thật sự là một kỳ tích. Vào thời điểm đó, ông
được bổ nhiệm là Trưởng khoa Khoa học ở Hà Nội, sau
đó vào năm 1959, Phó Hiệu trưởng trường Đại học, Vụ
trưởng Vụ Khoa học của Uỷ ban Khoa học Nhà nước.
Tiếp theo, ông là người thành lập và Chủ tịch Hội
Toán học Việt Nam, Viện trưởng Viện Toán Hà Nội. Ông
cũng là người sáng lập và Tổng biên tập đầu tiên của
Tạp chí Toán học và tạp chí Acta Mathematica
Vietnamica, xuất bản bằng tiếng nước ngoài, dần dần
được phát hành trên toàn thế giới. Dưới sự điều hành
của ông, Viện Toán học đã trở thành trung tâm nghiên
cứu toán học đầu tiên của đất nước, ở đó bây giờ
được gọi là Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Công
nghệ Quốc gia của Việt Nam. Từ năm 1980 cho đến khi
qua đời, ông đã làm việc tại cơ sở của Trung tâm
quốc gia được đặt tại Tp. Hồ Chí Minh, nơi ông thành
lập Trung tâm Toán ứng dụng và Tin học. Đó là một
cuộc đời rất có ý nghĩa và hữu ích.
Kể từ năm 1981, ông đã sống phần lớn thời gian tại
Tp. Hồ Chí Minh, nơi vợ và hai con của ông đã chuyển
đến ở từ nhiều năm trước. Năm 1976, trong chuyến đi
của tôi cùng với vợ tới Việt Nam, tôi đã có dịp gặp
lại ông. Khi đó trời rất lạnh vì vào tháng giêng,
thời tiết luôn xám xịt và ẩm ướt, và vì hình dung sẽ
đến một đất nước nhiệt đới trong khi nhà cửa không
cần sưởi ấm, chúng tôi đã mang theo rất ít quần áo
ấm và chúng tôi đã bị lạnh. Ông đã cung cấp cho
chúng tôi các loại quần áo, giầy dép khác nhau,
trong đó có cả áo khoác của chính ông.
Kể từ mười lăm năm nay, ông mắc bệnh tiểu đường cộng
thêm với bệnh cao huyết áp; ông đã ốm nặng vào năm
1989, phục hồi trở lại rồi đột ngột ra đi chỉ sau
hai ngày nhập viện.
Có thể nói rằng hầu hết các nhà toán học Việt Nam
đều là học trò hoặc học trò của học trò của ông.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam đã không
ngừng đào tạo giáo viên và nghiên cứu viên ở trình
độ cao nhất, gửi những thanh niên đã qua lựa chọn
sang Liên Xô. Điều đó giúp cho Việt Nam còn giữ lại
được cho đến ngày nay một trong những trình độ
nghiên cứu tốt nhất vùng Viễn Đông, ít nhất là những
gì liên quan đến đỉnh cao nghiên cứu. Với trình độ
trung bình thì Việt Nam lại bị một số nước được gọi
là “những con rồng” như Hồng Kông, Singapore, Hàn
Quốc và Đài Loan vượt qua. Nhưng đối với những đỉnh
cao nghiên cứu, Việt Nam luôn đứng ở vị trí hàng
đầu. Các nhà toán học Việt Nam tham gia các hội nghị
quốc tế, đi ra nước ngoài, đều được các nhà toán học
nước ngoài đón tiếp tại nhà và được mời tới giảng
dạy tại các đại học quốc tế lớn.
Lê Văn Thiêm không phải là người duy nhất tham dự
vào bối cảnh này. Ông đã làm việc chặt chẽ với Trần
Đại Nghĩa và Tạ Quang Bửu, tất cả cùng theo một
hướng. Tạ Quang Bửu là một trong những nhân vật hàng
đầu của Việt Nam; người đã ký Hiệp định Genève và đã
từng là Bộ trưởng Bộ Đại học trong một thời gian
dài. Tôi biết ông rất rõ, vì ông còn là một nhà toán
học và vẫn thường xuyên liên hệ. Hàng sáng, ông thức
dậy vào lúc 5 giờ và giải các bài toán theo ý thích
từ 5 giờ đến 6 giờ. Mặc dù gánh vác chức Bộ trưởng,
nhưng ông vẫn có thể tham gia các hội thảo của các
nhà toán học và có những báo cáo hết sức có giá trị.
Tất cả những nhà toán học nước ngoài tới thăm đều đã
có dịp gặp gỡ và ngưỡng mộ nhân vật này.
Tạ Quang Bửu và Lê Văn Thiêm đã cùng nhau đấu
tranh rất vất vả vì tính công minh trong khoa học.
Xu hướng tự nhiên lúc đó là dành những vị trí ưu
tiên cho con cán bộ, chứ không dựa trên chất lượng
khoa học. Lê Văn Thiêm và Tạ Quang Bửu đã đấu tranh
không mệt mỏi và hướng cuộc đấu tranh khó khăn này
tới việc đề cao chất lượng khoa học. Cả hai người đã
phải trải qua những thời kỳ khó khăn.Chính Lê Văn
Thiêm đã phải làm một bản tự kiểm điểm công khai về
quan điểm “chủ nghĩa nhân tài”. Ông đã phải chịu
đựng rất nhiều. Tạ Quang Bửu thì được bảo vệ tốt hơn
vì dù sao ông cũng là Bộ trưởng, một chính trị gia,
trong khi Lê Văn Thiêm chỉ là một nhà toán học. Tạ
Quang Bửu đã không ngừng bảo vệ cho Lê Văn Thiêm.
Tất cả những nhà toán học hiện nay của Việt Nam đều
giữ sự kính trọng rất lớn đối với hai nhân vật này.
Lê Văn Thiêm luôn được những người đồng hương của
mình đánh giá là rất khiêm tốn và cao thượng, giống
như sự nhận xét của những người bạn cựu sinh viên
trường Đại học Sư phạm và cũng là cảm tưởng của tôi
về ông. Lê Văn Thiêm và Tạ Quang Bửu, như tôi đã nói
nhiều lần, đều được đào tạo ở Pháp, biết tiếng Pháp
một cách hoàn hảo, đã đóng góp vào những tiến bộ của
khối Pháp ngữ và mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp.
Tất nhiên là công việc nghiên cứu của Lê Văn Thiêm
cũng bị chi phối nhiều bởi rất nhiều các trách nhiệm
hành chính. Tuy nhiên, ông cũng là tác giả của hai
chục công trình nghiên cứu đã được công bố ở Việt
Nam và nước ngoài. Ông đã giải quyết được một vấn đề
khó, như bài toán ngược về sự phân bổ các giá trị
của hàm phân hình, theo hướng của Nevanlinna. Điều
đó đã mở ra một hướng nghiên cứu mới trong lý thuyết
hàm phân hình của một biến số phức. Ông cũng đã sử
dụng phương pháp đối xứng của hàm giải tích để tìm
ra cách giải bài toán thâm nhập trong miền không
đồng nhất. Ông cũng đã nghiên cứu và ứng dụng lý
thuyết hàm giải tích đề giải quyết vấn đề chuyển
động của chất lỏng. Kết quả đã được công bố tại Hội
nghị Toán học Quốc tế Vancouver năm 1974. Ông cũng
đã tham gia vào các vấn đề ứng dụng khác nhau trong
xây dựng, thủy lợi, kế hoạch hoá nền kinh tế của đất
nước.
Giới khoa học Việt Nam sẽ không bao giờ quên hai
hình ảnh lớn về Tạ Quang Bửu và Lê Văn Thiêm.
|