Những ngày tôi bắt đầu bước chân vào trung học. Dạo đó, dường như
tôi đang theo học lớp đệ ngũ hay đệ tứ thì phải. Hình bóng Võ Hồng đã trở
thành thân yêu nhất trong đời sống tôi. Thân yêu nhất không phải vì ông là
một ông Giáo sư dạy hay hay dạy giỏi, mà chính là nhân cách và tâm hồn phiêu
bồng của ông. Có lẽ hồi ấy, tôi cũng chưa biết gì về tác phẩm của ông - tôi
chỉ thấy ông mang một phong độ khác hẳn với những giáo sư khác, ở những giáo
sư khác tôi thấy có gì quá tầm thường và quá an phận (có lẽ với tuổi hồi ấy,
tôi đã đòi hỏi quá nhiều, đòi hỏi những gì mà chính vị đó không thể có
được). Riêng Võ Hồng, người đã mang đến cho tuổi thơ tôi những xao xuyến,
hoài nghi, những chất vấn về thân phận phù ảo của kiếp người - và cũng từ đó
ông đã gợi cho tôi thấy một chút mộng mơ nào đó của đất trời. Hình như
Gandhi đã nói đâu đó rằng, những gì mà tuổi thơ ta đã sống, thì những điều
đó sẽ điều động ta suốt một đời. Tuổi thơ ngồi trong lớp học, vào những giờ
của Võ Hồng, tôi thấy ông thường bâng quơ nhìn qua khung cửa sổ. Ngôi trường
cạnh bên dãy núi, có những ngôi tháp cổ, cây phượng trước sân trường. Sau
này khi có dịp đọc văn Võ hồng, tôi thấy ông viết đúng như tôi đã thấy vào
cái thời thơ ngây ấy (mấy ngôi cổ tháp đứng ở sân sau trường lặng lẽ suy
tư. Những cây sao thân cao mọc ở ven chân núi thong thả để rơi từng cánh hoa
màu trắng xuống những bụi gai thấp. Nơi này thỉnh thoảng ngồi trong lớp nhìn
qua cửa sổ tôi thấy một con sóc chuyền cành... Những giọt đắng tr 61).
Tôi đã nhìn thấy và đã xúc động Võ Hồng từ những điều vu vơ trên. Có những
buổi chiều tan trường, tôi thấy ông thường lửng thửng bước ra khỏi sân
trường sau cùng. Gương mặt của ông lúc đó trông buồn buồn. Sau khi những
bước chân, những tà áo cuối cùng đã vắng bóng. Vào những khi như vậy, tôi
thường có dịp đứng nghe ông nói chuyện. Ông nói đến nỗi buồn của cuộc sống,
nỗi cô độc của kiếp người cùng những ly tan của cuộc sống. Có thể nói đó là
những nỗi ám ảnh lớn trong toàn thể cuộc sống của Võ Hồng. Sống và khổ đó là
những gì quá tầm thường và quá quen thuộc. Những gì của thực tại muôn đời và
thực tế muôn nơi, xảy ra ở khắp mọi chân trời. Nhưng dường như, bất cứ lúc
nào chúng ta nghe nói đến tiếng Khổ, thì nỗi xúc động trong ta sẵn sàng bừng
dậy. Bởi vì càng lớn lên, ta thấy kiếp người càng buồn và vô nghĩa thêm ra.
Vào khoảng năm 1960-1962 khi anh Phạm Công Thiện còn ở Nha Trang, anh
đang tu trên một ngôi Chùa. Tôi nhớ, vào một buổi chiều mưa, anh trở về Chùa
một mình, anh có đọc cho tôi nghe hai câu thơ :
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Tôi được anh cho biết, là anh đã làm hai câu thơ trên từ nhà Võ Hồng
trên đường trở về Chùa. Sau đó, nếu tôi không lầm, thì hình như Võ Hồng cũng
viết một câu truyện ngắn Hoa khế lưng đồi bắt nguồn từ cảm hứng hai
câu thơ trên của anh Phạm Công Thiện, cũng cây khế trỗ bông ấy và ngọn đồi
ấy (những cây khế ở lưng đồi trổ hoa tím, những chùm hoa hình khối lục
lăng mường tượng những ngôi cổ tháp... Những giọt đắng, tr 56).
Vào khoảng thời gian ấy, tôi thấy mỗi chiều Võ Hồng thường lên Chùa thăm anh
Phạm Công Thiện. Hai người thường ngồi nói chuyện với nhau trong một vùng
cây rậm nhìn xuống chân đồi. Tôi không biết hai người nói với nhau những
gì. Nhưng tôi cần gì phải biết, tôi cứ tưởng tượng theo những nhân vật như
thế này : một người từ phố mang cả cái mệt mỏi và hiu quạnh của đời sống tẻ
nhạt với (nhiều uẩn ức, nhiều bức thúc, nhiều dày vò. Thân phận con người
quằn quại trong những đau khổ muôn hình... Bên kia đường, tr 119). Còn
một người đang ở trên núi, thì sẽ đem hết cái tịch liêu, những hoài vọng
triền miên của tuổi trẻ mình để nói chuyện với nhau. Và rồi, đến một lúc thì
thế nào anh Phạm Công Thiện cũng sẽ như một nhân vật nào đó của Võ Hồng (...
nhẹ nhàng kéo tôi vào một nẻo suy tư nào đó với anh, về một chân lý, một
tư tưởng triết học. Lịch sử Ấn Ðộ dày quá khứ và quá khứ đó dày tư tưởng...
Bên kia đường tr 36).
Tôi có thể tưởng tượng như trên, để viết lại một ít hoài niệm mà tôi
đã biết về Võ hồng vào khoảng thời gian xa xôi ấy.
Ðứng trước chiến tranh, Võ Hồng cũng như tất cả những người cầm bút
khác, đều nói lên lòng đau đớn của mình. Nhưng Võ Hồng thì khác, ông thâm
trầm hơn, ông đưa chúng ta đến một trầm tư thê thảm, trước thân phận đau
buồn của quê hương (...chòi canh cao bay phất phơ lá cờ. Một người lính
ngồi ôm súng nhìn không gian chập chùng đồi núi. Lô cốt. Trại lính. Người
dân không có thì giờ nghỉ ngơi. Hai mươi năm đủ để tạo một thế hệ. Người
lính đang ngồi trên chòi canh đó, có thể là con của người lính mà tôi đã gặp
hai mươi năm trước. Các thế hệ nối tiếp nhau đã truyền cho nhau tiếng nói và
cây súng. Nước chảy dưới cầu. Những đồi cát nằm giữa dòng sông... Bên
kia đường tr 145). Những giòng lặng lẽ trên đang bay lất phất trong những
làng mạc, những đồi núi chập chùng của quê hương. Một buổi chiều mùa đông âm
u nào đó, trong một chuyến xe đò băng ngang qua những vùng âm u của quê
hương, rồi nhìn những người trẻ tuổi đang cầm súng đứng trong mưa, thì những
giòng trên mới thấm vào trái tim buốt giá của ta. Có phải bóng đêm đang vồ
chụp xuống trên những mái đầu xanh của những đứa con tại Việt Nam ?
Tôi đọc văn thường không để ý lắm đến cách hành văn hay bố cục (có lẽ
tôi không biết gì nhiều hơn tác giả). Tôi chỉ đọc những gì trong đó thấy có
bóng dáng của mình. Như bây giờ đang là buổi xế trưa, những buổi trưa thức
dậy nghe bỗng xiêu đổ lạ thường. Ánh nắng vàng vọt của buổi chiều qua cửa
sổ. Một người con gái vừa ra đi để rồi không bao giờ gặp lại. Tất cả chỉ còn
lại một cái gì thật mơ hồ, thật xa xôi. Giọng hát từ đâu vọng lại, ta không
cần biết nó hay, nó dở thế nào. Nhưng chiều nay, nghe tiếng hát đó, bỗng
nghe ta trong ngậm ngùi của nỗi đời ly biệt (nhưng chiều nay giọng hát
trầm trầm và sai giọng ấy, mỗi lần nghe đến là Doãn tưởng rằng như mình đang
dự vào buổi chiều cuối cùng của trái đất khi nhân loại bị phóng xạ nguyên tử
đang cầu kinh... Vết hằn năm tháng tr 175). Tôi đã đọc câu chuyện Vết
hằn năm tháng vào một buổi xế trưa. Những nét mặt quen thuộc của thuở ấu
thơ, những nét mặt xa lạ, những cái bắt tay, những buổi họp vừa tan, chỉ còn
lại bàn ghế trơ vơ. Ngày đi, tháng đi và năm đi. Những tà áo hồng cũng đã xa
dần, xa dần... đó là gì? Ðó là vết hằn của tháng năm. Trong đời sống hằng
ngày, tôi đã nghe và cảm thấy như thế, nhưng tôi chưa có dịp nói được. Khi
đọc Võ Hồng, tôi thấy ông đang nói thay mình. Tôi đọc và buồn đến nghẹn thở.
Tôi cũng tưởng như mình đang sống trong những ngày cuối cùng của trái đất.
Tác phẩm của Võ Hồng, ta có thể ví như những tấm gương. Trong đó phản
chiếu những tâm tư của một đời người, nhất là trong hoàn cảnh đau buồn của
Việt Nam hiện nay. Sống và phản ứng lại cuộc sống -đó là tất cả những gì ta
bắt gặp nơi Võ Hồng. Những hy vọng, tuyệt vọng, đau khổ, hạnh phúc, những
bất lực của thân phận con người. Một chút xanh mộng nào đó mà ta đang hoài
vọng. Vào một đêm mưa, một người con gái đến gõ cửa, nàng kể cho ta nghe một
mối tình câm lặng, người yêu của nàng vừa nằm xuống vĩnh viễn - đang khi
đó, ngoài trời những cơn gió đầu mùa thổi đến làm lạnh lòng người. Và làm
rụng những lá me bên kia đường. Ta chợt nghe một chút nồng ấm của cuộc đời,
một đốm lửa vừa nhóm lên trong đêm mưa lạnh. Cho dù ta vẫn biết cuộc đời vốn
là ảo mộng
(từng cơn gió lạnh lùa vào phòng. Nước trên tàn cây me rơi lộp độp
xuống mặt đất từng hồi mỗi khi có cơn gió lạnh ào tới. Liên giã từ tôi, và
tôi lẳng lặng đưa nàng xuống sân.
Tôi lẩm nhẩm suy nghĩ :
Hãy an nghỉ, Adul Rahim. Hãy ngủ yên giấc ngủ vĩnh cửu của anh. Cái
bản thân tứ đại vốn là giả họp. Anh đã có lần nói với tôi như vậy và chắc
là anh không tiếc. Liên nó đang nghĩ đến anh và nó đang yêu anh đó. lúc
sống, anh không dám hỏi và chắc là nó cũng không trả lời. Nhưng hôm nay
anh không còn nữa và do đó nó đang lặng lẽ yêu anh... Bên kia đường,
tr 48).
Và sống là gì ? Có phải vẫn luôn luôn là hoài niệm ? The mission of
man on earth is to remember. Sứ mạng của con người trên mặt đất này là hoài
niệm. Henry Miller đã nói như thế. Mỗi khi ta bắt đầu hoài niệm thì mọi sự
đều tiêu tan hết. Ta không biết đố ky, không còn hận thù, lòng thương yêu sẽ
bắt đầu ngự trị. Bởi vì khi ấy ta sẽ nhận ra sự phù ảo của kiếp người trên
trần gian này. Mọi sự rồi sẽ đi qua, ta bỗng muốn ghì ôm trong tay những
mong manh phù ảo ấy, bao nhiêu là kỷ niệm thương yêu thuở nào chợt bay về
trong trí nhớ : những người tình, những con đường ta đã đi qua, bây giờ (tâm
hồn tôi chợt thấy âm u. Con đường kỷ niệm. Những thôn xóm yên lặng nằm hai
bên đường như chưa bao giờ biết đến sự thay đổi. Mái nhà xám đen và vách đất
cũng xám đen... Bên kia đường, tr 144).
Chuyện Trở về, Võ Hồng đã đưa ta vào những hoài niệm mênh mông
của tháng ngày quá khứ ấy. Ai đã từng sống mà không có quá khứ. Cho dù quá
khứ có thể im lìm hay xót xa đi nữa. Nhưng tất cả, tất cả sẽ làm ta ngậm
ngùi. Thời gian vẫn là nỗi ám ảnh đen tối nhất của con người. Chúng ta sống
bằng những khoảng thời gian. Sự sống được đánh dấu bằng những lần thay đổi,
một nơi chốn mà ta vừa ra đi, bỏ lại những thành phố, những con đường , một
người tình đã mất. Có nghĩa gì với khoảng đời trong năm hay mười năm (mười
năm là khoảng thời gian đủ để biến một đời nguời. Từ ngày Bảo mất đi, tôi
không muốn trở lại thành phố này. Những con đường, những đồi thông sẽ nhắc
đến những ngày cũ... Trở về trong Bên kia đường tr 146). Ðó là chuyến
trở về của một người, về để làm gì ? Trở về dể hoài niệm. Hoài niệm những
tháng ngày quá khứ ấy. Những ngày mà người tình chưa mất. Sự trở về như thế,
thật là êm đềm nhưng cũng thật là xót xa (bao nhiêu năm tháng đã trôi
qua. Tôi muốn tìm lại một cái gương để soi bóng mình. Tôi muốn nhìn lại bóng
dáng mình bước những bước cô đơn trên con đườnh heo hút này... Trở về
Bên kia đường tr, 147).
Tôi liên tưởng đến chuyến trở về của Jérôme trong La porte étroite
của André Gide. Trong phần cuối của cuốn truyện. Khi Alissa đã mất. Mười năm
sau, Jérôme trở về thành phố Prevence, nơi em Alissa tức là Juliette đang
sống với chồng con ở đấy. Jérôme trở về đến nơi khi (bóng chiều dâng lên
bàng bạc, mọi vật trong phòng mờ dần, và trong bóng đêm như đương cùng nhau
sống dậy và ngậm ngùi kể lại chuyện xưa. Tôi mơ màng thấy lại gian phòng
Alissa... Khung cửa hẹp, bản dịch của Vân Mồng tr 182).
Thời gian với bao nhiêu là thay đổi, bao nhiêu bể dâu đã xảy ra và
con người chợt nhìn lại mình, thấy mình đã già đi, nắng đã xế... và rồi thời
gian đưa đến cái chết. Cái chết là đìều khủng khiếp nhất của kiếp người.
Hình như trong đời sống thường nhật, ta đi lui đi tới, ngược xuôi lên xuống,
tranh chấp mà quên đi cái chết, quên đi không nghĩ đến hay ta cố làm ngơ. Ta
không dám đối mặt thẳng với nó. Nhưng cuối cùng nó vẫn đến, nó đến sừng sững
trước mặt ta. Nếu mỗi phút giây trong đời sống thường nhật, ta thường nghĩ
đến cái chết, sống với cái chết, ăn ngủ với cái chết, thì chắc chắn mọi sự
sẽ không tan hoang như ngày hôm nay. Bởi vì nghĩ đến cái chết, ta sẽ biết
thương yêu nhau, thương yêu mọi thảm hoạ, mọi bi kịch trên trần gian này,
ngay đến những gương mặt thù hận cũng sẽ không còn nữ. Ta thù hận. Bởi nhiều
khi ta cứ ngỡ ta sống đời đời (làm như cuộc đời người dài hằng sáu trăm,
bảy trăm lần khoảng thời gian đó... Bên kia đường tr 162). Tất cả đều là
cuộc chơi trong ván bài của sanh tử. Ðứng trước cái chết ta thấy gì (đứng
trước cái chết, lòng tự ái không có tiếng nói nữa. Ðối với người giã từ cuộc
sống để ra đi mãi mãi, giả từ hết mọi ghét thương, âu lo mừng giận, anh thấy
lòng thương tràn đầy... Vết hằn năm tháng tr 8). Mọi sự đều phải dừng
trước cái chết, mọi tranh đấu khác đều không quan trọng, chỉ có một điều
quan trọng duy nhất, đó là cuộc tranh đấu với cái chết. tranh đấu với cái
chết là lúc ta lên đường đi đến sự thất bại lớn lao của cuộc đời (Phú
thất bại trong cuộc tranh đấu lớn, cuộc tranh đấu cuối cùng, tranh đấu với
cái chết... Vết hằn năm tháng tr 38).
Truyện Dấu chân sa mạc trong Con suối mùa xuân. Võ Hồng
ghi lại đời của một người đàn bà . Cô Ba. Người đàn bà ấy đã sống bằng tất
cả hung hăng của cuộc đời mình : chê bai, thù ghét, gieo rắc bực dọc, hành
hạ người khác và tự hành hạ chính mình. Giàu sang nhưng bỏn sẻn. Nhưng vào
những ngày cuối đời, khi da đã nhăn, tóc trên đầu đã bạc, thì mọi sự đi đến
một cách tang thương, canh bạc đã kết thúc (tôi thương xót cho cô Ba đang
đóng vai người bại trận đó, bơ vơ lạc lõng hơn bất cứ người bại trận nào
khác, bởi lẽ cô dống cô đơn. Không có ai để thở than sau đó. Không có ai để
bàn tính cân nhắc trước đó. Trước mặt, sau lưng, bên phải ,bên trái đều là
sa mạc . Dấu chân sa mạc trong Con suối mùa xuân tr 165). Con người
hung hăng ấy rồi ra cũng phải bại trận. Cuối cùng tìm về một ngôi chùa -điều
mà khi còn xuân cô ầm ĩ chê bai- về đó, như một con gấu đã hết khí lực (như
thế, cô bước đi giữa cuộc đời còn sót lại, lạc lõng mơ hồ như người đi trong
giấc mộng. Tất cả đều chập chờn hư ảo. Chặng cuối cùng của người lực sĩ yếu
sức... Dấu chân sa mạc tr 169). Con gấu ấy trở về để làm gì ? (con
gấu mò về cửa tam quan, cúi nhìn xuống thân phận mình và gối đầu lên cái
chết... Dấu chân sa mạc tr 167). Ðó là một trong những câu văn đã gây
xúc động lớn cho tôi. ta sinh ra ở đời, sống với nhau, để rồi một ngày nào
đó, sẽ cùng nhau rời bỏ trần gian hiu quạnh này.
Phải có một tấm lòng thật bao la tràn đầy tình thương thì mới viết
được những câu chuyện như vậy. Ở đây, ta nên lưu ý đến một điều là, tình
thương đối với Võ Hồng (cũng như những nghệ sĩ nhân bản khác) không phải
xuất phát từ những luân lý. Vì một tình thương như vậy chỉ là hậu quả của
tập quán xã hội. Tình thương ở đây vượt lên trên tất cả, nó nảy nở một cách
tự nhiên từ trong trái tim của ta. Tự nhiên, đó là điều khó khăn nhất mà ta
phải đạt đến. Nói như Khrishnamurti (tình yêu tự hiến dâng tràn đầy tựa như
đóa hoa hiến dâng hương thơm).
Võ Hồng quê ở Phú Yên, xứ sở của núi non trùng điệp. Quê hương của
những ngưới nông dân điền dã. Quanh năm lận đận với những mảnh khoai trên
rừng, những thửa ruộng ngoài đồng. Bầu bạn với cây cuốc, cái cày. Lam lũ và
cực nhọc vô cùng, nhưng đời sống vẫn bao hàm trong cái thơ mộng nguyên thủy
của đồng quê. Chỉ có những ai đã sinh ra và lớn lên ở những nơi khô cằn miền
Trung thì mới thấy được cái thơ mộng này : (ở đây tất cả đều trầm mặc,
trang nghiêm. Rừng già màu xanh tối, đứng bao vây những sườn núi an phận.
Rẫy lúa, rẫy bắp, đất thổ trồng đậu xanh đậu phụng. Con trâu, con bò. Suối
nước chảy qua khe đá, con chim hót trên cành. Và linh hồn của cả cái cảnh
hoang sơ này là sự yên lặng rộng lớn bao trùm từ khoảng cao đến miền xa...
Con suối mùa xuân tr 137).
Có lẽ từ một quê hương như thế, Võ Hồng mới đủ chất để viết những câu
chuyện về quê hương một cách tuyệt vời. Như truyện Tình yêu đất chẳng
hạn. Ðọc Tình yêu đất ta thấy lại cái gì chất phác, điền dã của nông
dân Việt Nam. Ðó vẫn là đìều khó khăn đối với những con người thành phố hôm
nay, xung quanh chỉ thấy những tòa nhà đồ sộ những công viên, những quán cà
phê đèn xanh đèn đỏ, mà quên đi đời sống kia. Ta có thể quả quyết rằng, đời
sống nông dân Việt Nam đúng nghĩa, là đời sống thơ mộng nhất thế giới. Còn
gì thơ mộng hơn khi cuốc đất mà vẫn nghe được tiếng chim sơn ca rung rinh
trên tầng cao, suối chảy róc rách quanh vườn. Lảo Túc trong Tình yêu đất
đã tóm thâu tất cả những thơ mộng ấy. Mọi sự đều phản bội Lão, đứa con duy
nhất cũng bỏ Lão mà đi, người vợ thì luôn luôn hiếp đáp Lão. Lão còn lại chỉ
có mảnh đất. Lão sống với mảnh đất đó, bởi vậy (Lão thương đất như thương
con, như thương chính da thịt mình). Suốt đời lão chỉ còn có mảnh đất,
bởi đất không gian dối như lòng người (đất không phản bội người, chỉ có
người mới phản bội đất. Người giậm chân nguyền rủa rồi bỏ đi. Ðất vẫn ở lại;
nhẫn nại trung thành. Khi người về, người cứ tưới mồ hôi xuống là đất lại
nảy ra lá xanh, đơm hoa, kết quả). Ðời sống của Lão Túc cũng được kết
thúc trên mảnh đất của Lão. Một bữa đi ra đám đất, một con rắn từ trong bụi
rậm trườn ra và cắn Lão chết. Cho đến khi chết mà Lão vẫn còn ám ảnh đất,
miệng vẫn thì thào : Miếng đất Gò Ðình.
Tác phẩm của Võ Hồng thật nhiều và quá nhiều khía cạnh. Tôi chỉ nhìn
thấy một khía cạnh nào đó thôi, như đã thấy ở trên.
Hồi còn ở Nha Trang, cũng như bây giờ mỗi khi có dịp về thành phố ấy,
tôi thường ghé lại thăm ông. Ðời sống của ông lúc nào cũng hiu quạnh, nhưng
ông bảo là có sống như thế, sáng tác mới là điều cần thiết, để làm vơi đi
phần nào nỗi buồn trên. Ở đời mọi sự đều phù ảo, bởi vậy sáng tác cũng là
một cách đùa rỡn với cái phù ảo ấy. Tôi đã có lần nghe ông nói như vậy. Và
tôi tin chắc rằng ông vẫn còn tiếp tục đùa rỡn hơn nữa trong nỗi đời hiu
quạnh còn lại của ông.
Đặc san Văn 14.02.1974
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Trần Hữu Cư
|