Một lần nữa Newton lại không muốn
công bố phát minh của ông về sự bí mật lớn nhất của
vũ trụ. Tuy nhiên đương thời cũng có nhiều nhà khoa
học nỗ lực tìm kiếm giải đáp cho những câu hỏi về sự
chuyển động trong thái dương hệ. Nhiều nhà thiên văn
học cho rằng: các hành tinh chạy theo mặt trời là vì
lực hấp dẫn, trong số đó có Robert Hooke xưa nay
chuyên môn đả kích Newton rất dữ dội. Tuy vậy vẫn
không có vị nào chứng minh được lý thuyết của mình
bằng toán học. Vào giai đoạn này, Newton đã trở nên
nhà toán học nổi tiếng, và nhà thiên văn học Edmund
Halley trình bày bài toán xong, tới thăm ông ở
Cambridge, yêu cầu ông giúp đỡ. Khi ấy Halley mới vỡ
lẽ ra rằng từ hai năm về trước Newton đã giải đáp
được bài toán này rồi. Hơn nữa Newton còn tìm ra
những định luật về sự chuyển động của các vật thể
chịu sự chi phối của lực hấp dẫn. Ấy vậy mà Newton
không hề có ý định công bố những phát minh của ông.
Halley thấy ngay tầm quan trọng
những phát minh của Newton và ông hết lòng thuyết
phục Newton phải khai triển trên bình diện lý
thuyết. Phần vì nhiệt tình của Halley, phần vì ông
lại cảm thấy hứng khởi với khoa học, Newton khởi
công viết tập Nguyên tắc toán học mà Langer
gọi là: “Một kho báu của khoa học, một tác phẩm mới
lạ nhất từ xưa đến nay”.
Điều
ly kỳ là Newton chỉ mất có mười tám tháng đã viết
xong bộ Nguyên tắc Toán
học. Trong thời gian đó, quá say sưa vào bộ
sách đến nỗi ông quên ăn, quên ngủ.
Chỉ có một bộ óc siêu phàm, có sức làm việc siêu
phàm mới có thể hoàn tất một công trình vĩ đại như
bộ Nguyên tắc Toán học
trong một thời gian ngắn ngủi như vậy. Viết xong bộ
sách Newton gần như kiệt sức về cả vật chất lẫn tinh
thần.
Trong thời gian viết bộ Nguyên
tắc toán học, Newton còn bị quấy rầy vì những
cuộc tranh luận thường xuyên, nhất là những cuộc
tranh luận với Hooke, người đã tự cho chính ông ta
mới là người tìm ra thuyết chuyển động của hành
tinh, có thể giải thích bằng luật hấp dẫn bình
thường đối nghịch. Bực mình vì những lời vu cáo đó,
Newton chán nản không viết tiếp bộ sách Nguyên
tắc toán học mà ông đã viết xong được hai phần
ba. Một lần nữa Halley lại phải van nài Newton viết
tiếp phần còn lại, và là phần quan trọng nhất của bộ
sách.
|
|
Trong lịch
sử bộ Nguyên tắc toán học người ta
không thể không nhắc đến vai trò của Edmund
Halley. Không những ông đã khuyến khích,
thúc đẩy Newton làm việc, mà ông còn vận
động để Hội khoa học Hoàng gia xuất bản bộ
sách, và chính ông đã bỏ rơi mọi việc riêng
để trông nom công việc ấn loát.
Về sau Hội khoa học Hoàng gia lại từ chối
tài trợ và Halley phải bỏ tiền túi ra để chi
cho việc xuất bản, dù ông không giàu có gì
và có cả một gia đình phải nuôi dưỡng. |
Edmund Halley
và sao chổi |
|
|
Năm 1687, sau không biết bao nhiêu
trở ngại, cuốn sách Nguyên tắc Toán
học in xong, khổ nhỏ, bán 10 hay 12 shillings
một cuốn. Trang in nhan đề sách có ghi: giấy phép
xuất bản của Samuel Pepys, Chủ tịch Hội khoa học
Hoàng gia. Có người nhận xét rằng: rất có thể Pepys
không hiểu một câu nào trong sách của Newton.
Tóm
lược sách Nguyên tắc toán học bằng những
lời lẽ thông thường là việc khó khăn nếu không nói
là không thể làm được. Tuy nhiên ở
đây chúng ta có thể ghi ra mấy điểm chính yếu của bộ
sách. Trong Nguyên tắc toán học Newton đề
cập đến sự chuyển động của các vật thể trên bình
diện toán học, nhất là sự áp dụng động lực học và
luật vạn vật hấp dẫn vào hệ thống mặt trời. Khởi
đầu, Newton trình bày phép toán học vi phân, một
phát minh được dùng làm phương tiện tính toán trong
toàn thể bộ sách. Kế đó Newton định nghĩa về không
gian, thời gian, trình bày những định luật về sự
chuyển động và các ứng dụng. Nguyên tắc cơ bản là:
mọi vật thể đều hút lẫn nhau với một lực nghịch với
bình phương khoảng cách. Ngoài ra Newton còn đưa ra
các định luật về sự va chạm các vật thể. Newton dùng
những hình kỷ hà cổ điển để trình bày các thuyết vật
lý của ông.
Quyển đầu tiên của bộ sách Nguyên tắc toán học, đề
cập đến sự chuyển động các vật thể trong không gian.
Phần thứ hai của quyển này đề cập đến sự chuyển động
trong môi trường trở lực, thí dụ như chuyển động
dưới nước. Trong phần cuối Newton đề cập đến sự
chuyển động phức tạp của thể lỏng và những bài toán
về sự chuyển động này đều được giải đáp. Ngoài ra
Newton có tính các tốc độ của âm thanh và diễn tả
bằng toán học sự chuyển động của làn sóng.
Quyển một này là nền tảng của
khoa học vật lý toán học, khoa thủy tĩnh học và thủy
động học ngày nay.
Quyển thứ hai Newton đả phá vũ trụ hệ của Descartes
đang thịnh hành. Theo thuyết của
Descartes những chuyển động của các vật thể trong
không trung đều là do cơn lốc mà ra. Tất cả không
gian đều tràn ngập một “chất lỏng” và ở nhiều nơi
những chất này quay cuồng thành bão lốc. Hệ thống
mặt trời gồm 14 trung tâm bão lốc, trong trung tâm
lớn có mặt trời. Các hành tinh đều chỉ là những vật
thể bị cuốn theo cơn bão lốc như những miếng gỗ nhỏ
trong xoáy nước. Descartes đã dùng thuyết “Báo
lốc” này để giải thích hiện tượng hấp dẫn trong vũ
trụ. Trái với Descartes, Newton chứng minh bằng thực
nghiệm và bằng toán học rằng: “Thuyết bão lốc hoàn
toàn mâu thuẫn với những sự kiện thiên văn và không
giải thích nổi sự chuyển động của các vật thể trong
không gian”.
Quyển thứ ba được đề là: “Vũ trụ hệ” đây là phần
quan trọng nhất trong công trình của Newton.
Trong phần này Newton đề cập đến những hệ quả thiên
văn học của định luật hấp dẫn, ông viết:
“Trong những quyển trước tôi
đã xác định những nguyên tắc của khoa học, những
nguyên tắc không phải là triết lý mà là toán học...
Những nguyên tắc đó là những định luật và điều kiện
của một số những chuyển động, những năng lực...Tôi
đã chứng minh nguyên tắc đó ở nhiều đoạn...với...sự
giải thích rằng: đây là những sự kiện thông thường
trong tạo vật... như là trọng lượng và sức cản của
ánh sáng, của âm thanh. Bây giờ, cũng từ những
nguyên tắc đó tôi trình bày vũ trụ hệ”.
Giải thích tại sao ông không phổ
thông hóa thuyết của mình, Newton viết:
“Phần thứ ba này, thoạt đầu
tôi dùng ngôn ngữ phổ thông để nhiều người có thể
hiểu. Nhưng về sau nghĩ lại, tôi viết phần này bằng
những công thức toán học và chỉ những người nào nắm
vững các nguyên tắc trình bày ở những quyển trước
mới hiểu được. Sở dĩ tôi viết khó khăn như vậy, để
những ai có nắm vững những nguyên tắc đó thì mới ước
lượng được tầm quan trọng của nó, và do đó mới gạt
bỏ được những định kiến về vũ trụ mà họ quen thuộc
từ trước. Tôi không khuyên mọi người phải nghiên cứu
những nguyên tắc tôi đã đề ra, vì ngay những độc giả
có trình độ toán học cao cũng phải mất nhiều công
phu mới hiểu được”.
Vì những lẽ đó, đã có người gọi
cuốn Nguyên tắc toán học có giọng văn “xa
vời, lạnh buốt, giọng văn của một giáo chủ nói để mà
nói”.
Ở đoạn mở đầu, Newton trình bày ý
kiến mang tính cách mạng rằng: những hiện tượng trên
mặt đất cũng không khác gì những hiện tượng trong
không gian.
“Những nguyên nhân như nhau
cho kết quả như nhau, loài người và loài vật cũng
thở như nhau, đá rơi ở châu Âu hay châu Mỹ thì cũng
thế, ánh sáng ở bếp lửa không khác gì ánh sáng mặt
trời, sự phản chiếu ánh sáng trên mặt đất cũng tương
tự như ở các hành tinh”.
Với lời xác định này Newton đã đả
phá quan niệm cổ truyền cho rằng chỉ có trái đất là
xấu xa còn các thế giới khác đều hoàn mỹ cả. Mac
Muray bình luận: Những định luật duy lý “đem lại
trật tự và do đó làm sáng sủa những chốn xưa nay vẫn
được coi là hỗn mang và bí mật”.
|