|
Do yêu cầu của Bộ Trưởng Canh Nông,
Giáo Sư Dumas đã khẩn khoản nhờ ông
Louis Pasteur xuống miền Nam nước
Pháp để nghiên cứu về bệnh tầm, một
bệnh dịch đang tàn phá nền kỹ nghệ
tơ lụa của địa phương. Miễn cưỡng
phải nhận lời, nhà khoa học Pasteur
đã ra đi cùng với người học trò giỏi
nhất là Emile Duclaux và vài sinh
viên khác. Nhóm nhà nghiên cứu này
cư ngụ tại làng Alais. Louis Pasteur
đã tìm đọc tất cả các tài liệu viết
về con tầm, cách nuôi tầm cũng như
dùng kính hiển vi để quan sát các
mầm bệnh đã giết hại loài tầm. Ông
đã làm việc không ngừng trong khi
hoàn cảnh gia đình của ông gặp các
bất hạnh liên tục: ông Jean Pasteur
qua đời rồi tới lượt người con gái
Camille, 2 tuổi, thiệt mạng vào
tháng 9-1865 vì bệnh sốt thương hàn.
10 tháng sau tới lượt người con gái
Cécile, 13 tuổi, cũng chết vì bệnh
sốt kể trên. Do bị căng thẳng và
buồn phiền, ông Pasteur đã bị tai
biến mạch máu não vào đêm
19-10-1868. Nhiều người đã tưởng nhà
bác học qua đời thế nhưng chỉ 3
tháng sau, mặc dù bị liệt một phần
thân thể, Giáo Sư Pasteur vẫn trở
lại với các công trình nghiên cứu.
Năm 1870, Louis Pasteur cho phổ biến
một báo cáo về bệnh tầm do một loại
vi trùng ký sinh. Ông đã chỉ dẫn
cách tìm ra các con tầm mắc bệnh và
cách dùng loại trứng tầm tốt để tạo
nên các con tầm khỏe mạnh, và phương
pháp này đã được các nhà chăn nuôi
khắp châu Âu xử dụng. Cũng vào năm
này, bùng nổ cuộc chiến tranh giữa
nước Pháp và nước Phổ khiến cho ông
Pasteur phải rời khỏi thành phố
Paris. Ông trở lại nơi này vào cuối
năm 1871, khi chiến tranh chấm dứt
với các bệnh viện tràn ngập các binh
sĩ bị thương. Nhà bác học Pasteur vì
vậy đã nghiên cứu các vết thương và
đã khuyên các bác sĩ phải chú tâm về
vấn đề vệ sinh khi chữa trị bệnh
nhân.
Mấy năm về trước tại xứ Tô Cách
Lan, Giáo Sư về khoa Giải Phẫu
Joseph Lister của Đại Học Đường
Edinburgh, đã đọc các luận chứng của
Louis Pasteur về vi trùng rồi tìm
hiểu nguyên do các bệnh nhân bị
nhiễm trùng. Từ năm 1867, ông Joseph
Lister đã dùng dung dịch axít
carbolic để khử trùng các dụng cụ y
khoa, các vết thương và các bàn tay
của bác sĩ giải phẫu nhờ đó đã làm
giảm số tử vong của các bệnh nhân
được 97 phần trăm. Năm 1874, trong
bức thư gửi cho Louis Pasteur,
Joseph Lister xác nhận rằng nhờ lý
thuyết về vi trùng của nhà bác học
người Pháp mà ông đã thực hiện được
hệ thống thanh trùng (antiseptic
system).
Louis Pasteur không phải là một bác
sĩ y khoa nhưng các khảo cứu của ông
về vi trùng, về các bệnh truyền
nhiễm đã khiến cho nhà bác học được
bầu vào Hàn Lâm Viện Y Học của nước
Pháp vào năm 1873. Nhà bác học
Pasteur lại có các phụ tá trẻ tuổi
tài giỏi: bác sĩ Jules-Francois
Joubert, bác sĩ Emile Roux và bác sĩ
Charles Chamberland… và phòng nghiên
cứu của ông vẫn tìm kiếm nhiều
phương pháp kiểm soát các vi trùng
gây bệnh.
Sau 20 năm nghiên cứu, các khám phá
về vi trùng và bệnh truyền nhiễm của
Louis Pasteur đã được phổ biến qua
tác phẩm "Lý thuyết về vi trùng và
áp dụng trong Y Khoa và Giải Phẫu"
(The Germ Theory and its Application
to Medicine and Surgery). Tác phẩm
này cắt nghĩa sự lây lan của các
bệnh truyền nhiễm và từ nay, các nhà
khoa học bắt đầu tìm hiểu về các
bệnh dịch như đậu mùa, dịch tả…
Vào thời kỳ đó, tại miền đông của
nước Phổ có bác sĩ Robert Koch đang
tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh
than, một thứ bệnh giết hại rất
nhiều cừu và các gia súc khác. Tháng
4 năm 1876, bác sĩ Kock đã dùng kính
hiển vi, tìm ra loại vi trùng gây
bệnh than, được đặt tên là "bacillus
anthracis". Như vậy bác sĩ Koch đã
chứng minh lý thuyết về vi trùng của
nhà bác học Pasteur.
Năm 1878, Louis Pasteur khởi đầu
nghiên cứu vi trùng gây ra bệnh dịch
tả gà (chicken cholera). Nhà bác học
đã nuôi vi trùng trong nước dùng gà
(chicken broth) rồi dùng các liều
độc chất từ yếu đến mạnh chích dần
vào các con gà và đã thấy cơ thể gà
chống cự được sự xâm nhập của vi
trùng. Louis Pasteur đã gọi phương
pháp này là chủng ngừa (vaccination)
và ngày nay, kỹ thuật miễn dịch
(technique of immunization) của nhà
bác học vẫn còn được xử dụng.
Luôn luôn nhà bác học Pasteur muốn
chia xẻ các khảo cứu và khám phá của
mình với các nhà khoa học khác. Năm
1881, Louis Pasteur thuyết trình về
phép chủng ngừa trước Hàn Lâm Viện
Khoa Học Pháp thế nhưng, ông vẫn gặp
các nghi ngờ và chống đối. Một số
người thắc mắc làm sao một nhà hóa
học lại hiểu rõ về các bệnh tật của
súc vật. Viên chủ nhiệm tạp chí Thú
Y (the Veterinary Journal) đề nghị
một công cuộc thử nghiệm công khai
về thuốc chủng ngừa bệnh than
(anthrax vaccine). Louis Pasteur
nhận lời.
Vào ngày 31-5-1881 tại nông trại
Pouilly-le-Fort thuộc vùng Melun gần
thủ đô Paris, các nông gia, các bác
sĩ thú y, các nhà khoa học và nhân
viên chính phủ đã chứng kiến Louis
Pasteur cùng các cộng sự viên là
Roux, Chamberland và Louis Thuillier
chích ngừa nhóm 1 gồm 25 con cừu
bằng các liều thuốc chủng từ yếu đến
mạnh, còn nhóm thứ 2 cũng gồm 25 con
cừu, được nuôi riêng để kiểm chứng.
Sau đó, cả 50 con cừu đều được chích
bằng liều vi trùng bệnh than cực
mạnh. Kết quả là 25 con cừu của nhóm
2 đã chết và nhóm 1 đã được chủng
ngừa không bị ảnh hưởng. Sự thành
công thực là rực rỡ. Như vậy nhà bác
học Pasteur đã khám phá ra một thứ
võ khí hữu hiệu để chống lại một số
bệnh truyền nhiễm.
Tới cuối thập niên 1870, Louis
Pasteur lại nghiên cứu về bệnh chó
dại (rabies). Đây là một trong các
bệnh khủng khiếp của nhân loại với
hình ảnh các con chó điên, miệng sùi
bọt, tấn công các người qua đường.
Bằng các phương pháp tương tự khảo
cứu về bệnh dịch tả gà, nhà bác học
Pasteur đã không tìm ra được vi
trùng bệnh chó dại trong máu của các
con chó và thỏ mắc bệnh. Vào thời kỳ
đó, các nhà khoa học như Pasteur
chưa biết rằng các bệnh như bệnh
than, bệnh dịch tả gà là do vi trùng
(bacteria) nên có thể nhận ra qua
kính hiển vi, còn nguyên nhân gây
nên bệnh chó dại là các vi khuẩn
(virus), chỉ nhìn thấy được bằng các
kính hiển vi cực mạnh mà các nhà
khoa học thuộc cuối thế kỷ 19 chưa
có. Thế nhưng, do thấy người mắc
bệnh chó dại bị co giật, Louis
Pasteur đã cho rằng bộ óc và hành
tủy (medulla oblongata) là nơi trú
ẩn của các vi trùng bệnh chó dại.
Nhà bác học Pasteur sau đó đã tìm ra
loại thuốc chủng nhưng chưa có cơ
hội áp dụng, cho tới ngày 6-7-1885,
liều thuốc chủng đầu tiên của Louis
Pasteur đã cứu sống em Joseph
Meister.
|