Pasteur nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm.

Phạm Văn Tuấn                          ngày 05 tháng 05  năm 2004
 


Do yêu cầu của Bộ Trưởng Canh Nông, Giáo Sư Dumas đã khẩn khoản nhờ ông Louis Pasteur xuống miền Nam nước Pháp để nghiên cứu về bệnh tầm, một bệnh dịch đang tàn phá nền kỹ nghệ tơ lụa của địa phương. Miễn cưỡng phải nhận lời, nhà khoa học Pasteur đã ra đi cùng với người học trò giỏi nhất là Emile Duclaux và vài sinh viên khác. Nhóm nhà nghiên cứu này cư ngụ tại làng Alais. Louis Pasteur đã tìm đọc tất cả các tài liệu viết về con tầm, cách nuôi tầm cũng như dùng kính hiển vi để quan sát các mầm bệnh đã giết hại loài tầm. Ông đã làm việc không ngừng trong khi hoàn cảnh gia đình của ông gặp các bất hạnh liên tục: ông Jean Pasteur qua đời rồi tới lượt người con gái Camille, 2 tuổi, thiệt mạng vào tháng 9-1865 vì bệnh sốt thương hàn. 10 tháng sau tới lượt người con gái Cécile, 13 tuổi, cũng chết vì bệnh sốt kể trên. Do bị căng thẳng và buồn phiền, ông Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm 19-10-1868. Nhiều người đã tưởng nhà bác học qua đời thế nhưng chỉ 3 tháng sau, mặc dù bị liệt một phần thân thể, Giáo Sư Pasteur vẫn trở lại với các công trình nghiên cứu.
Năm 1870, Louis Pasteur cho phổ biến một báo cáo về bệnh tầm do một loại vi trùng ký sinh. Ông đã chỉ dẫn cách tìm ra các con tầm mắc bệnh và cách dùng loại trứng tầm tốt để tạo nên các con tầm khỏe mạnh, và phương pháp này đã được các nhà chăn nuôi khắp châu Âu xử dụng. Cũng vào năm này, bùng nổ cuộc chiến tranh giữa nước Pháp và nước Phổ khiến cho ông Pasteur phải rời khỏi thành phố Paris. Ông trở lại nơi này vào cuối năm 1871, khi chiến tranh chấm dứt với các bệnh viện tràn ngập các binh sĩ bị thương. Nhà bác học Pasteur vì vậy đã nghiên cứu các vết thương và đã khuyên các bác sĩ phải chú tâm về vấn đề vệ sinh khi chữa trị bệnh nhân.
 Mấy năm về trước tại xứ Tô Cách Lan, Giáo Sư về khoa Giải Phẫu Joseph Lister của Đại Học Đường Edinburgh, đã đọc các luận chứng của Louis Pasteur về vi trùng rồi tìm hiểu nguyên do các bệnh nhân bị nhiễm trùng. Từ năm 1867, ông Joseph Lister đã dùng dung dịch axít carbolic để khử trùng các dụng cụ y khoa, các vết thương và các bàn tay của bác sĩ giải phẫu nhờ đó đã làm giảm số tử vong của các bệnh nhân được 97 phần trăm. Năm 1874, trong bức thư gửi cho Louis Pasteur, Joseph Lister xác nhận rằng nhờ lý thuyết về vi trùng của nhà bác học người Pháp mà ông đã thực hiện được hệ thống thanh trùng (antiseptic system).
 Louis Pasteur không phải là một bác sĩ y khoa nhưng các khảo cứu của ông về vi trùng, về các bệnh truyền nhiễm đã khiến cho nhà bác học được bầu vào Hàn Lâm Viện Y Học của nước Pháp vào năm 1873. Nhà bác học Pasteur lại có các phụ tá trẻ tuổi tài giỏi: bác sĩ Jules-Francois Joubert, bác sĩ Emile Roux và bác sĩ Charles Chamberland… và phòng nghiên cứu của ông vẫn tìm kiếm nhiều phương pháp kiểm soát các vi trùng gây bệnh.
 Sau 20 năm nghiên cứu, các khám phá về vi trùng và bệnh truyền nhiễm của Louis Pasteur đã được phổ biến qua tác phẩm "Lý thuyết về vi trùng và áp dụng trong Y Khoa và Giải Phẫu" (The Germ Theory and its Application to Medicine and Surgery). Tác phẩm này cắt nghĩa sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm và từ nay, các nhà khoa học bắt đầu tìm hiểu về các bệnh dịch như đậu mùa, dịch tả…
 Vào thời kỳ đó, tại miền đông của nước Phổ có bác sĩ Robert Koch đang tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh than, một thứ bệnh giết hại rất nhiều cừu và các gia súc khác. Tháng 4 năm 1876, bác sĩ Kock đã dùng kính hiển vi, tìm ra loại vi trùng gây bệnh than, được đặt tên là "bacillus anthracis". Như vậy bác sĩ Koch đã chứng minh lý thuyết về vi trùng của nhà bác học Pasteur.
Năm 1878, Louis Pasteur khởi đầu nghiên cứu vi trùng gây ra bệnh dịch tả gà (chicken cholera). Nhà bác học đã nuôi vi trùng trong nước dùng gà (chicken broth) rồi dùng các liều độc chất từ yếu đến mạnh chích dần vào các con gà và đã thấy cơ thể gà chống cự được sự xâm nhập của vi trùng. Louis Pasteur đã gọi phương pháp này là chủng ngừa (vaccination) và ngày nay, kỹ thuật miễn dịch (technique of immunization) của nhà bác học vẫn còn được xử dụng.
 Luôn luôn nhà bác học Pasteur muốn chia xẻ các khảo cứu và khám phá của mình với các nhà khoa học khác. Năm 1881, Louis Pasteur thuyết trình về phép chủng ngừa trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp thế nhưng, ông vẫn gặp các nghi ngờ và chống đối. Một số người thắc mắc làm sao một nhà hóa học lại hiểu rõ về các bệnh tật của súc vật. Viên chủ nhiệm tạp chí Thú Y (the Veterinary Journal) đề nghị một công cuộc thử nghiệm công khai về thuốc chủng ngừa bệnh than (anthrax vaccine). Louis Pasteur nhận lời.
 Vào ngày 31-5-1881 tại nông trại Pouilly-le-Fort thuộc vùng Melun gần thủ đô Paris, các nông gia, các bác sĩ thú y, các nhà khoa học và nhân viên chính phủ đã chứng kiến Louis Pasteur cùng các cộng sự viên là Roux, Chamberland và Louis Thuillier chích ngừa nhóm 1 gồm 25 con cừu bằng các liều thuốc chủng từ yếu đến mạnh, còn nhóm thứ 2 cũng gồm 25 con cừu, được nuôi riêng để kiểm chứng. Sau đó, cả 50 con cừu đều được chích bằng liều vi trùng bệnh than cực mạnh. Kết quả là 25 con cừu của nhóm 2 đã chết và nhóm 1 đã được chủng ngừa không bị ảnh hưởng. Sự thành công thực là rực rỡ. Như vậy nhà bác học Pasteur đã khám phá ra một thứ võ khí hữu hiệu để chống lại một số bệnh truyền nhiễm.
 Tới cuối thập niên 1870, Louis Pasteur lại nghiên cứu về bệnh chó dại (rabies). Đây là một trong các bệnh khủng khiếp của nhân loại với hình ảnh các con chó điên, miệng sùi bọt, tấn công các người qua đường. Bằng các phương pháp tương tự khảo cứu về bệnh dịch tả gà, nhà bác học Pasteur đã không tìm ra được vi trùng bệnh chó dại trong máu của các con chó và thỏ mắc bệnh. Vào thời kỳ đó, các nhà khoa học như Pasteur chưa biết rằng các bệnh như bệnh than, bệnh dịch tả gà là do vi trùng (bacteria) nên có thể nhận ra qua kính hiển vi, còn nguyên nhân gây nên bệnh chó dại là các vi khuẩn (virus), chỉ nhìn thấy được bằng các kính hiển vi cực mạnh mà các nhà khoa học thuộc cuối thế kỷ 19 chưa có. Thế nhưng, do thấy người mắc bệnh chó dại bị co giật, Louis Pasteur đã cho rằng bộ óc và hành tủy (medulla oblongata) là nơi trú ẩn của các vi trùng bệnh chó dại. Nhà bác học Pasteur sau đó đã tìm ra loại thuốc chủng nhưng chưa có cơ hội áp dụng, cho tới ngày 6-7-1885, liều thuốc chủng đầu tiên của Louis Pasteur đã cứu sống em Joseph Meister.