Bài thuyết trình tại Hội Hành Thiện ngày
27/10/2002
Bác sĩ Alexandre
YERSIN (1863 - 1943)
Yersin dưới mắt người đồng thời
Các đồng nghiệp của ông Yersin tại viện
Pasteur Paris và những người Pháp tại Đông Dương thấy ông
phân tán trí thức lấy làm gai mắt, cho ông là một người kỳ
dị. Càng gai mắt hơn nữa là ông thành công trên nhiều lãnh
vực.
Luôn luôn tiên phuông trong những lãnh
vực mới, những phát minh tối tân, ông là một tư nhân đầu
tiên có được :
- Máy phát thu bằng chữ morse để liên lạc
Nha Trang, Suối Dầu, Hòn Bà ;
- Máy thu thanh tân tiến, bắt được các
đài bên Pháp ;
- Kính thiên văn ;
Năm 1910, ông lại muốn tậu một chiếc phi
cơ, nhưng vì Đông Dương không có sân bay, ông đành bỏ dự
định này.
Trong khi công sứ tại Nha Trang chưa có
xe nhà thì Yersin đã gởi mua tại Pháp chiếc Serpollet năm mã
lực, chiếc xe Clément và một thuyền máy.
Hai năm sau, ông bán lại chiếc Serpollet
năm mã lực cho ông công sứ Nha Trang, rồi sang Paris tậu
chiếc xe Serpollet sáu mã lực đem ra Hà Nội làm lác mắt
chẳng những dân cư Hà Nội mà cả chánh quyền. Viên tướng chỉ
huy quân đội Pháp còn nhờ ông đưa xe đi diễn binh qua cầu
Long Biên.
Tháng Giêng năm 1905, Yersin bán chiếc
Serpollet sáu mã lực, tậu chiếc Serpollet mười một mã lực.
Năm 1907, ông mua một chiếc Alcyon. Năm 1912, ông mua chiếc
Clément Bayard mười lăm mã lực, nhưng khi chiếc xe này không
chạy được nữa, ông trở lại dùng xe đạp.
Đến năm 1925 vì cần phương tiện liên lạc
giữa Nha Trang, Hòn Bà, Dran, Djiring, ông lại tậu chiếc
Zèbre vừa mau vừa êm. Nhưng một hôm về ngang Phan Rang, ông
suýt đụng một em bé, nên ông bán chiếc Zèbre, và từ đấy ông
dùng lại xe đạp.
Năm 1943, vì phổi yếu, ông dùng xích-lô.
Nhắc đến Yersin, ai cũng hình dung một ông cụ già khiêm tốn
ăn mặc xuềnh xoàng đi chiếc xe đạp cũ kỹ, quên rằng
Alexandre Yersin đã làm bực mình các giới chánh quyền bấy
giờ với những chiếc ô-tô tối tân.
Luôn luôn tiên phuông trong những lãnh
vực mới, năm 1932, khi chuyến bay đầu tiên của hàng không
Pháp nối liền Sài Gòn - Paris thì ông dùng máy bay để vận
chuyển. Tháng 3 năm 1940, Yerin bảy mươi bảy tuổi, lấy máy
bay về Pháp để dự buổI họp hằng năm của viện Pasteur Paris.
Một cuộc hành trình rất gay go. Ngày 30 tháng 5 năm 1940,
chuyến máy bay cuối cùng đưa ông về Việt Nam, trước khi quân
đội Đức vào Paris.
Nơi cư trú của Yersin
Yersin thích sống chung với ngườI dân
nghèo chài lưới và đã chọn cái lô-cốt hai tầng lầu bỏ hoang
gần xóm Cồn và cửa sông cái. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí
quyển XI về Khánh Hoà, đó là một đồn biên phòng rất lâu đời.
Từ năm 1895, Yersin đã tạo lập cho mình
chỗ ở tuyệt vời để hằng ngày quan sát và hoà nhập với thiên
nhiên.
Lô-cốt mỗi bề khoảng 7m50. Mỗi tầng có
hành lang rộng bao bọc. Có thể đi dọc hành lang để quan sát.
Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc
và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng
tròn để dựng kính thiên văn.
Nhà bác học vị tha
Đó là một người không chạy theo danh
vọng, quyền lợi cho riêng mình.
Ông đầu tư ngay số tiền kèm theo các giải
thưởng vào các công trình đang thực hiện. Huân chương Bắc
Đẩu Bội Tinh đem lại cho ông 250 quan Pháp mỗi năm. Giải
Audiffret của Hàn lâm viện Tâm lý và Chính trị có kèm theo
15000 quan Pháp. Ông dùng số tiền này tiếp trợ cho nền tài
chánh Suối Dầu. Giải thưởng Lassen đem lại cho ông 8000 quan
Pháp. Ông dùng ngay tiền đó vào việc mở đường mòn nói liền
Suối Dầu - Hòn Bà.
Tháng 12 năm 1927, khi nhận giải thưởng
Leconte của viện Hàn lâm Khoa học, ông tuyên bố :"Giải
thưởng nầy là vinh dự cho viện Pasteur và số tiền nhận được
sẽ giúp cho các cuộc thí nghiệm trồng cây quinquina".
Ông không hãnh diện, không phô trương huy
chương. Đây là một đoạn thư ông viết cho mẹ năm 1890 khi ông
hai mươi bảy tuổi :" Mẹ hãy tưởng tượng xem ông Pasteur đã
xin được cho con huân chương của Hàn lâm viện. Các thành
viên của viện đại học Pháp rất mong muốn có được tấm huân
chương màu tím này, song bản thân con lại không hề thấy mình
xứng đáng được nhận".
Khi vua Bảo Đại trao tặng bội tinh Kim
Khánh cho ông, vì phép lịch sự ông buộc lòng phải cho vua
Bảo Đại đeo Kim Khánh vào cổ mình, nhưng khi vừa bước xuống,
ông đã e lệ dùng chiếc mũ ép lên ngực che hết chiếc huân
chương Kim Khánh. Năm 1938, trường trung học Đà Lạt muốn có
một bức tượng bán thân của Yersin, ông cương quyết từ chối
làm mẫu.
Khi toàn quyền Decoux muốn biết tên những
người quyền quí, danh tiếng mà Yersin đã gặp, ông trả lời
:"Ở Đông Dương tôi ít giao thiệp với những hạng người ấy."
Thật ra Yersin đã có lần gặp nhiều người
danh tiếng. Năm 1896, thống chế Lyantey (lúc bấy giờ là
thiếu tá) đến Nha Trang có ghi vào sổ tay :"Vị bác sĩ trẻ
này tận tụy với vi trùng học, nghiên cứu, chế tạo "vắc-xe"
vớI một niềm tin tưởng, ý chí đam mê của một nhạc sĩ cao
siêu. Những giờ thăm viện của ông làm phấn khởI tinh thần,
mặc dầu viện còn thô sơ."
Người con hiếu
Xa nhà, dầu ở Pháp, Việt Nam hay Trung
Quốc, hầu như tuần lễ nào ông cũng viết thư cho mẹ. Tính đến
khi mẹ ông mất, năm 1905, ông đã gởi ngót 1000 bức thư, cho
bà biết sức khỏe và công việc hằng ngày của mình.
Khi mẹ mất rồi, Yersin tiếp tục gởi thư
cho chị là bà Emilie.
Trong thư nhiều khi đầy vẻ hài hước, như
khi ông ở Hồng Kông viết cho mẹ :"Con còn nhiều điều nữa
muốn thưa với mẹ, nhưng có hai xác chết đang chờ con. Họ
muốn ra nghĩa địa cho sớm. Tạm biệt mẹ thân yêu. Mẹ rửa tay
sau khi đọc thư này kẻo bị lây dịch hạch, mẹ nhé."
Yersin nhà nhân ái
Noẽl Bernard viết về A. Yersin có câu
:"Ít có người không vụ lợi như Yersin. Khiêm tốn, giản dị,
lịch sự".
Ông ăn mặc xoàng xĩnh bộ đồ kaki bạc màu
cũ kỹ, áo khoác bốn khuy ba túi, áo sơ-mi vải trắng hở cổ,
quần kaki trên rộng dưới hẹp giặt sạch mà không bao giờ ủi.
Giày vải bố. Trong túi ngực bên trái đựng một cái đồng hồ
trái quít đeo bằng một sợi dây gai đỏ. Phải nói rằng Yersin
không thiếu đồng hồ. Năm 1945, người ta tìm thấy trong tủ
sắt của viện Pasteur Nha Trang rất nhiều đồng hồ trái quít
chế tạo tại Thụy Sĩ, phần lớn bằng vàng, dây đeo cũng bằng
vàng, bên trong cái nắp đều có dòng chữ : Chế tạo riêng cho
Bác Sĩ Yersin.
Ngày 22 tháng 11 năm 1920, ông đáp tàu
Paul Lecat đi Marseille. Một phục vụ viên trẻ của tàu không
biết ông, cương quyết không cho ông vào phòng ăn. Nội qui
của tàu bắt buộc phải thắt cravate khi bước vào phòng khách.
Yersin trở về cabine. Sau đó, ông quay lại phòng ăn nói với
phục vụ viên :"Chiếc cravate nầy cậu có chấp nhận không ?"
Vừa nói ông vừa chỉ tay vào chỗ hở ở cổ áo nơi ông vừa đút
tấm huân chương "Bắc Đẩu Bội Tinh" vào.
Năm 1925, một buổi sáng ông đến hãng xe
gặp một người khách sang trọng từ Pháp mới tới. Tên nầy thấy
ông ăn mặc xoàng xĩnh buột miệng kêu lên :"Tên bụi đời lang
thang nầy làm gì ở đây ?
Bữa ăn của ông thường đạm bạc. Món ăn ông
ưa thích thường ngày chỉ là món xúp rau cải ăn với bánh mì
hoặc biscotte. Trong thời gian chiến tranh ông phải ăn bánh
tráng thay cho bánh mì. Ông thích ăn cá hơn là thịt. Các
loại cá được ông ưa chuộng là cá thu, cá mú.
Món rượu khai vị của ông thường chỉ là
thứ nước có bột quinquina do ông tự chế. Nước uống đôi khi
ông dùng nước lá sả mà ông bảo rằng dễ tiêu hoá. Có lần đi
thám hiểm vùng cao nguyên, ông chỉ ăn cơm không trong hai
tháng.
Vì Nha Trang thường có bão táp, Yersin
nghiên cứu về khí tượng, thời tiết để giúp ngư dân.
Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính
một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo
lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo
hiệu.
Tháng 11 năm 1939, đoán biết rằng một cơn
bão lớn sẽ đổ vào bờ biển Nha Trang, Yersin vội tập trung
tất cả ngư dân xóm Cồn vào trong nhà mình. Cơn bão biển dữ
dội đêm ấy đã cuốn trôi nhiều nhà cửa xóm Cồn, nhưng bà con
vẫn an toàn.
Từ hôm ấy, Yersin được nhiều người dân
xóm Cồn tặng cho biệt hiệu "người đã trị con sóng thần".
Viết về Yersin, và viện Pasteur Nha
Trang, Henri Jacotot đã có những lờI ca ngợi tốt đẹp :
"Trong những thời điểm quan trọng, Yersin
luôn luôn sống trong tình trạng báo động thường trực cả ngày
lẫn đêm." (Yersin et son temps, H. Jacotot-1937)
Chẳng những lo bảo vệ dân chúng tránh tai
nạn bão lụt, Yersin còn luôn luôn tỏ ra nhân ái đối với
người dân ở Nha Trang, nên ông được người Việt yêu chuộng và
kính phục. Ông tự coi mình như một người dân trong làng, một
người có phần may mắn hơn ngườI khác, vì vậy ông thấy có bổn
phận an ủi và giúp đỡ thuốc men.
Một hôm đi xe đạp từ nhà đến sở, ông bị
một tài xế bất cẩn đụng ngã. Không nói một lời nào, ông vội
vã dựng xe đạp lên, rồi đi đến viện để băng bó, không đá
động gì đến người tài xế có lỗi.
Lần khác ông gặp người nông phu nằm ngủ
trong xe bò dưới gốc cây bàng. Mặt trời lên cao, bóng mát
thay chiều, ông bảo những người phụ tá đẩy xe bò vào chỗ
mát.
Ông rất thương yêu trẻ con xóm Cồn,
thường chiếu phim cho chúng xem. Trẻ con cũng thích ông chia
kẹo hằng ngày cho chúng. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa,
ông bảo ngườI giúp việc :"Đừng rầy đánh, người ta sợ."
Ông thường đọc báo chí Việt ngữ. Một hôm
đến viện ông trao cho ông Bùi Quang Phương, người cộng sự từ
năm 1897, bài thơ Năm Cụ Ông chép trong báo Tiếng Dân của cụ
Huỳnh Thúc Kháng nói về năm bộ trưởng đương kim bị cách chức
và thay thế bằng năm người khác do Pháp chỉ định. Bài thơ
khó hiểu vì có nhiều nghĩa bóng.
Yersin rất nhẫn nại tử tế vớI những ngườI
cộng sự bản xứ, không bao giờ to tiếng, không bao giờ thị
oai.
Ông Năm
NgườI dân Nha Trang gọi ông là Ông Năm vì
theo ngạch nhà binh ông là Y sĩ Đại tá. Một tác giả Pháp
Elisabeth Duclosel ghi ông là Nam, bác sĩ Annam, là sai.
Ông sống thanh đạm độc thân, tiết chế xa
hoa nhục dục.
Elisabeth Duclosel thêu dệt cho ông một
quan hệ tình ái giữa ông và một công chúa của bộ lạc Rhadé,
thật đáng buồn cười.
Yersin đến với ngườI Việt Nam bằng một
tấm lòng chân thật. Đó là chìa khoá kỳ diệu đã mở cửa cho
ông đi vào tình cảm của người Việt Nam.
Ông ra đi rất thanh thản, ngày 01 tháng
03 năm 1943 vào lúc 01 giờ sáng, vừa đúng tám mươi tuổi.
Một ngày trước khi từ giã cõi đời, ông
còn ngồi trên ghế xích-đu dùng ống dòm đo mực thủy triều.
Mặc dầu có lời căn dặn của ông trong di
chúc muốn được an táng đơn giản, đám táng của ông to lớn
chưa từng thấy ở Việt Nam. Ngoài đại diện của chánh quyền
còn vô số người Việt, người Pháp, người Chà, ngườI Hoa,
người thượng. Dân chúng bày hương án hai bên đường từ Nha
Trang lên tận Suối Dầu nơi an táng ông.
Trong năm mươi bảy năm hoạt động khoa học
(1886 - 1943) Yersin đã công bố năm mươi lăm công trình và
bốn mươi tác phẩm về y học, trong đó có mười ba đề tài
chuyên cứu về dịch hạch, và mườI lăm đề tài chuyên về nông
nghiệp trồng cây quinquina và hévéa.
NgườI dân Việt Nam vẫn tiếp tục tôn thờ
Yersin. Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang, vẫn còn giữ nguyên đường
Yersin.
Bên cạnh mộ Yersin có xây một cái miếu
nhỏ đặt ảnh ông và hương án. Tại chùa Linh Sơn và Long Tuyền
có bàn thờ ông bên cạnh bàn thờ Phật, mặc dầu lúc sanh thời,
ngườI dân Nha Trang không hề thấy Yersin bước chân vào chùa
hoặc nhà thờ.
Mỗi năm đến ngày 01.03 ngườI dân Nha
Trang đến đốt hương và nghiêng mình trước mộ Yersin.
Yersin mãi mãi đi vào lòng của người Việt
Nam. Đó là đền Panthéon của Ông Năm và ông còn sống mãi mãi,
vì đại văn hào Lỗ Tấn có nói :
" Người chết chỉ thật là chết, khi không
còn tồn tại trong lòng người sống nữa."
" Người quá khứ mà hình ảnh còn tồn tại
trong lòng người sống, thì chưa hẳn là chết."
Di chúc của Bác Sĩ Alexandre Yersin
***Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu.
Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang,
đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin
tặng hết cho viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự
lâu năm.
Đám táng làm giản dị, không huy hoàng
không điếu văn.***
Những kỷ vật của ông còn lại, viện
Pasteur Nha Trang đã trân trọng giữ gìn. Chiếc giường, ghế
xích-đu, bàn làm việc, ghế ngồi, tủ sách, kính hiển vi, kính
viễn vọng, đều được trưng bày trong viện Bảo Tàng Nha Trang.
Bác sĩ NGUYỄN VĂN BA tức thi sĩ VĂN BÁ
cùng ban thuyết trình : Các bà Sylviane
Nguyễn, Lệ Châu, Lệ Sương, và ông Nguyễn Văn Đức.
(Ivry-Sur-Seine ngày 27/10/2002) |