Bài 1:
Lợi
ích kinh tế và hậu quả môi trường
Theo tính toán của tỉnh Đắc Nông, kế hoạch
khai thác bô-xít ở tỉnh này sẽ tác động trực
tiếp đến hơn 150.000 người dân. Ngoài cam kết
ưu tiên giải quyết việc làm cho lao động địa
phương, Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam chưa
tính hết những tác động tiêu cực đối với đời
sống kinh tế, văn hoá, xã hội của các cư dân
bản địa. Các nhà nghiên cứu bức xúc, người dân
lo lắng: không chỉ huỷ hoại môi trường, đại dự
án bô-xít còn xoá sổ một nền văn hoá cao
nguyên M'Nông huyền thoại, đẩy người dân vào
cảnh không có đất sản xuất.
Vậy đâu là giải pháp để việc khai thác
nguồn tài nguyên này vừa phục vụ tốt mục tiêu
phát triển kinh tế, hài hoà lợi ích của đồng
bào, vừa giảm thiểu tối đa những tổn thương mà
dự án này có thể gây ra cho môi trường và văn
hoá Tây Nguyên.
Tổn thương cả một nền văn hoá bản địa
Đắc Nông, tỉnh phía nam Tây Nguyên, là địa
bàn cư trú lâu đời của dân tộc M'Nông, quê
hương anh hùng Nơ Trang Lơng, người tù trưởng
đã lãnh đạo các dân tộc Tây Nguyên chống thực
dân Pháp xâm lược những năm đầu thế kỷ 19. Văn
hoá M'Nông là một phần không thể thiếu làm nên
nền văn hoá Tây Nguyên huyền thoại, với những
bộ sử thi đồ sộ, với không gian cồng chiêng đã
được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế
giới. Cũng như văn hoá Tây Nguyên, văn hoá
Mơ-nông gắn liền với các sinh hoạt cộng đồng,
là văn hoá của làng, của rừng. Trước những dự
án khai thác bô-xít đang triển khai tại Đắc
Nông, các nhà nghiên cứu văn hoá lo ngại rằng,
một cao nguyên M'Nông huyền thoại sẽ chỉ còn
trong tiềm thức.
“Làng và rừng của làng là không gian
xã hội, không gian sinh tồn của con người nơi
đây; khi không gian ấy bị xâm phạm, bị biến
dạng, bị mất đi, thì làng tan, văn hoá tan,
con người trở nên lạc lõng, tha hoá. Thử đặt
câu hỏi: nếu trên 2/3 diện tích tỉnh Đắc Nông
sẽ bị “cạo sạch” rồi đào lên để lấy bô-xít,
vốn có bao nhiêu rừng và đất của bao nhiêu
làng, sự tan vỡ của các làng sẽ đưa lại hậu
quả gì? Và rồi những người bị thu hồi đất sẽ
đi đâu, tái định cư như thế nào, làm gì trên
vùng đất mới của họ; và họ đứng đâu, làm gì
trong các nhà máy hiện đại?”- Nhà văn
Nguyên Ngọc bức xúc.
Những lo ngại của nhà văn Nguyên Ngọc chính
là sự thật đã được kiểm chứng qua bài học về
việc di dân, phát triển các nông lâm trường ở
Tây Nguyên trong suốt 30 năm qua. Hiện nay,
các bon làng đều ở xa rừng, hoặc buộc phải di
dời ra khỏi rừng để có nhiều điều kiện nâng
cao đời sống cho bà con. Dù chưa có dự án
bô-xít, hàng năm, tỉnh Đắc Nông cũng vẫn mất
trên dưới 300 ha rừng vì nạn đốt nương làm
rẫy, chưa kể đến hàng chục ngàn héc-ta giao
cho doanh nghiệp thực hiện các dự án nông lâm
nghiệp. Cùng với việc mất rừng, văn hoá M'Nông
đã bị mai một nhanh chóng.
|
Những nét văn hóa
bản sắc đang dần bị mai một |
Ông Điểu Trơh, Trưởng bon Bu Dấp, xã Nhân Cơ,
huyện Đắc R'Lấp, cho biết: Những năm gần đây,
các lễ hội truyền thống của người M'Nông chỉ
được tổ chức khi có sự đầu tư tiền của Nhà
nước, mang tính chất phục dựng hoặc cổ động
cho một sự kiện của địa phương hay của quốc
gia. Sự suy giảm văn hoá Mơ-nông cũng là điều
mà các nhà khoa học trường Đại học Tây Nguyên
khẳng định qua nghiên cứu thực tế tại huyện
Đắc R'Lấp. Tiến sỹ Tuyết Nhung Buôn Krông,
trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: ngày nay,
chúng ta khó nhận biết các bon làng của người
bản địa, và chỉ nhận ra họ qua màu da, tiếng
nói, chứ không phải qua văn hoá vật thể như
trang phục, đồ trang sức. “Thời gian gần đây,
dân số tăng nhanh gấp 2,5 lần so với năm 1997,
đã làm thay đổi toàn cục về kinh tế, văn hoá,
xã hội và môi trường, xuất hiện nhiều thành
phần dân tộc, thì văn hoá M'Nông đang bị pha
tạp, mai một và trước nguy cơ hoàn toàn biến
mất”
Như vậy, việc triển khai các dự án bô-xít ở
Đắc Nông chỉ làm đẩy nhanh quá trình tác động
đến nền văn hoá M'Nông, vốn đang bị xáo trộn
và suy giảm nhanh chóng.
Nỗi lo sinh kế của người dân
Theo ông Lâm Trí Hy, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã Nhân Cơ, người dân tộc thiểu số tại chỗ
thường sống tách biệt thành một cộng đồng. Do
vậy nếu sắp xếp quy hoạch rõ ràng thì việc
khai thác bô-xít không tác động nhiều đến nếp
sinh hoạt của bà con. Điều lo nhất là đời sống
kinh tế, vì đồng bào chưa biết cách sử dụng số
tiền đền bù cho hợp lý.“Vừa qua, khi giải toả
mặt bằng khu vực nhà máy, xã cũng tập trung
các ban ngành đoàn thể vận động bà con sau khi
được đền bù có tiền thì nên đầu tư sản xuất,
không nên lãng phí. Nhưng nhiều người không
tính toán đầu tư kinh tế, họ lấy tiền về sửa
chữa nhà cửa, mua xe cộ, sắm sửa cho khang
trang hơn” - Ông Lâm Trí Hy cho biết.
Để có mặt bằng cho dự án alumin, xã Nhân Cơ
có hơn 200 hộ bị giải toả. Người được đền bù
nhiều nhất tới 1 tỷ 700 triệu, người ít cũng
có vài ba chục triệu đồng. Với người Kinh, đây
là số tiền không nhỏ để đầu tư chăm sóc cây
trồng. Với bà con các dân tộc tại chỗ, đa số
các hộ nhận tiền đền bù đều đã mang xây dựng
nhà cửa, sắm sửa đồ đạc trong gia đình.
Giống như các dự án tái định cư ở Việt Nam
từ trước đến nay, trong dự án khai thác bô-xít
ở Tây Nguyên, Tập đoàn than khoáng sản Việt
Nam (TKV) chưa tính đến sinh kế của người dân,
nhất là của người dân tộc thiểu số tại chỗ.
Bên cạnh cam kết giải quyết việc làm cho một
số lao động địa phương, nhà đầu tư này đã đưa
80 em sang Trung Quốc đào tạo cao đẳng, đại
học về luyện kim, và tổ chức đào tạo trung cấp
nghề cho gần 700 con em 2 tỉnh Đắc Nông, Lâm
Đồng. Trong số này, con em người dân tộc thiểu
số ở Đắc Nông chỉ đếm trên đầu ngón tay, vì
mặt bằng dân trí thấp, rất ít người đáp ứng
được yêu cầu tốt nghiệp lớp 9 trở lên.
Suy nghĩ về đời sống của người dân trong
vùng dự án bô-xít, Tiến sỹ Đào Trọng Hưng,
Viện khoa học và công nghệ Việt Nam, nói:
“Sinh kế không chỉ là cái tạo ra việc làm
trước mắt, cho một vài nghìn người đi học vào
làm công nhân, mà lâu dài là các thế hệ sau
sống như thế nào. Cả vùng Đắc Nông này mà bóc
đi rồi hoàn thổ, cao su cà phê đang tốt như
thế này, chặt hết đi thì sau đó chuyển đổi đất
như thế nào? Tôi cho rằng cần phổ biến thông
tin rộng rãi, rõ ràng, công khai, minh bạch và
thảo luận với cộng đồng, với người dân”.
Là đơn vị quản lý đất đai tại địa phương,
ông Trương Văn Hiển, Giám đốc Sở Tài nguyên
môi trường tỉnh Đắc Nông, nêu ra 3 phương án
trong việc hoàn thổ, sử dụng đất nông nghiệp
sau khai thác bô-xít.
Phương án 1 nghiêng về phía người dân: là
cho doanh nghiệp thuê đất khai thác quặng
trong thời gian ngắn, hoàn thổ xong lại trả
đất cho dân theo đúng diện tích, vị trí ban
đầu. Phương án 3 là muốn đẩy nhanh quá trình
tích tụ đất đai: thu hồi vĩnh viễn đất của chủ
sử dụng cũ và đền bù toàn bộ thiệt hại cũng
như hỗ trợ họ chuyển đổi ngành nghề; đất sau
khai thác bô-xít sẽ quy hoạch lập các dự án
nông lâm nghiệp, thu hút người dân vào làm
công nhân. “Phương án thứ 2 là thu hồi
đất có thời hạn, chúng ta bồi thường cho dân,
sau đó lại giao đất cho họ, nhưng không phải
nguyên trạng, mà có sự điều chỉnh. Thứ nhất là
sẽ quy hoạch, ví dụ như vùng này là trồng
rừng, hay vùng này là cao su, cà phê…trên cơ
sở đất - nước - khí hậu - cây trồng có lợi
nhất. Thứ hai là điều chỉnh ưu tiên, ví dụ là
những gia đình chính sách, hộ đồng bào dân tộc
thiểu số thiếu đất, hoặc là người nhiều đất
san cho người ít. Những người nhiều đất bị thu
hồi, sau lấy ít thì được bồi thường chênh lệch
bằng tiền, những hộ ít đất sau điều chỉnh được
nhận nhiều thì phải bù thêm tiền”- Ông Trương
Văn Hiển đề xuất.
Hoàn thổ, đánh giá tác động môi trường
và ... cân nhắc
Ông Bùi Quang Tiến, Giám đốc Công ty cổ
phần Alumin Nhân Cơ, cho rằng, với cách khai
thác cuốn chiếu, việc hoàn thổ, trả lại đất
cho dân sẽ rất nhanh chóng. Dự kiến bắt đầu
khai thác bô-xít từ năm 2011, với công suất
300 ngàn tấn alumin, mỗi năm, tổ hợp này sẽ sử
dụng từ 60 đến 80 héc-ta đất.
“Chúng tôi tính toán mùa mưa mà mưa quá thì
sẽ không khai thác, như vậy là làm 8 tháng,
mỗi tháng sử dụng khoảng 10ha, nếu gia đình
nào có vài ha thì có thể từ tuần trước đến
tuần sau là chúng tôi trả lại đất. Việc hoàn
thổ không phải là cái gì quá khó khăn: lớp đất
phủ trên mặt dầy lắm chỉ hơn 1m, chỉ cần dùng
máy móc xúc ủi ra bên cạnh, lấy quặng xong là
xúc trả lại. Một năm làm 80ha, mà cả vùng quy
hoạch là 400 ngàn ha, dự án thực hiện rất lâu,
nên không phải cùng một lúc mà bới hết cả lên,
ảnh hưởng đến tất cả dân. Thực tế qua khoanh
vùng thăm dò thời gian qua, những diện tích mà
tỉnh yêu cầu TKV không làm rất nhiều: rừng
cấm, rừng đầu nguồn, di tích lịch sử, khu vực
quân sự…
Bây giờ chúng ta chỉ làm ở những khu vực
được phép, còn đồng bào vẫn ở đó. Mà theo đề
án của Sở Tài nguyên- Môi trường, nếu tính
toán tốt, thì đó là cuộc cải cách về cơ cấu
cây trồng: lấy đất đi làm lại, quy hoạch tốt,
chọn cây trồng thích hợp hơn, thì tôi nghĩ sẽ
tạo sức mạnh mới về nông nghiệp”- Ông
Bùi Quang Tiến lập luận.
Như vậy, với quy mô vừa phải, được thực
hiện một cách thận trọng, bài bản, việc khai
thác bô-xít ở Tây Nguyên có thể đảm bảo được
lợi ích kinh tế và hạn chế những tác động tiêu
cực đến người dân trong vùng. Thay vì triển
khai một loạt các dự án lớn trên diện rộng,
làm xáo trộn đời sống kinh tế, văn hoá xã hội,
gây nguy cơ huỷ hoại môi trường, TKV nên tính
toán bố trí các dự án cho phù hợp với điều
kiện địa hình và dân cư ở các vùng bô-xít, cân
đối đầu nguồn (khai thác quặng) và đầu cuối
(điện phân nhôm).
|
Người dân sẽ hưởng lợi
hay gánh chịu hậu quả? |
Điều cần thiết là, TKV phải thực hiện ngay
việc lập các dự án đánh giá môi trường chiến
lược, tính toán những tác động của việc khai
thác bô-xít đến môi trường, đời sống kinh tế,
văn hoá, xã hội của người dân. TKV cũng phải
đưa ra lộ trình cụ thể trong việc khai thác
bô-xít, hoàn thổ tái định cư, định canh cho
người dân trong vùng dự án.
Trong quá trình phát triển kinh tế, chúng
ta luôn luôn phải giải bài toán về sự đánh
đổi, nói cách khác là làm sao hy sinh những
lợi ích nhỏ nhất để đạt được những lợi ích lớn
nhất. Trong đó, nhất thiết lợi ích của quốc
gia, khu vực và của nhân dân phải được coi
trọng. Không thể vì muốn giảm suất đầu tư khai
thác bô-xít, mà khi xây dựng một loạt các dự
án lớn, đơn vị khai thác lại bất chấp các nguy
cơ rõ ràng về môi trường, kinh tế, văn hoá xã
hội. Cách làm hiện nay của TKV không chỉ làm
các nhà khoa học bức xúc, mà khó có thể nhận
được sự đồng thuận của người dân, dù họ đang
sống nghèo trên vùng mỏ bô-xít./.