Joseph Priestley (1733-1804)
là một trong những nhà khoa học Anh đầu tiên nghiên cứu về sự thở cuả
thực vật. Với khả năng đặc biệc cuả mình, ông đã là mục sư, nhà thần
học, là nhà khao cứu, là tác giả cuả nhiều sách giáo khoa về văn phạm,
giáo dục, điên, hoá và cũng là một chiến sĩ bảo vệ tự do.
Ông cho đăng các bài viết chính trị và phải trốn sang
Mỹ vì tư tưởng tiến bộ của mình. Đam mê nghiên cứu các
chất khí, ông đã đoán
nhận khá nhiều sự tồn tại cuả các
chất khí và năm 1771 đã chứng minh
rằng cây cối có thể tái tạo lại chất khí bẩn do động vật thở.
Chính Lavoisier đã đặt tên chất khí đó là "oxygène". Bốn
năm năm sau, Jan Ingenhousz (1730-1799), một bác sĩ Hoà Lan chứng
minh rằng thực vật chỉ thải ra khí oxygen khi có ánh
sáng. Ban đêm, cây cối thải ra chất khí mà đèn cầy không thể
cháy được trong chât khí này.
Thật
ra lúc đó người ta chưa thể hiểu có sự hô hấp
thực vật. Các thí nghiệm đầu tiên trên sự trao đổi
khí của thực vật được thực hiện bởi Horace
Bénédict de Saussure (1740-1799),
nhà khảo cứu địa chất Thụy Sĩ (và là người tiên
phong leo núi: ông là người đầu tiên lên
núi Mont Blanc năm 1787).
Một người Thụy Sĩ khác,
Jean Sénebier (1742-1809), cho rằng thực
vật hấp thu khí carbonic và xác định rằng dước
tác dụng ánh sáng, chất khí này bị phân tích thành
oxygen
Con trai của H.B.
de Saussure, Nicolas Théodore (1764-1845), thường
làm việc và du lịch theo cha nên cũng có
lòng ham thích khảo cứu. Lúc bấy giờ có
nhiều lý thuyết khác nhau về dinh dưỡng thực vật: từ sự biến
đổi nước khoáng cho đến thuyết mùn (théorie de l'humus)
cho rằng cây lấy từ đất thực phẩm
hữu cơ. Các thuyết này đã vẩn được chấp
nhận rộng rãi cho dù không có
các thí
nghiệm xác minh. Ngược lại, De Saussus chứng
minh bằng thí nghiệm rằng cây hút cùng một lúc
nước và muối khoáng được hòa tan trong
nước và khẳng định kết luận của mình
bằng cách cấy trong môi trường khoáng nhân
tạo. Ông chứng minh rằng thực vật đồng hóa
carbon từ khí carbonic nghĩa là dùng carbon của khí
carbonic để tạo ra chất sống, nhưng ông cũng tưởng
lầm như Sénebier là oxygen thải ra là từ khí này.
Ông nhận xét rằng nước cần thiết cho sự
chuyển động các hiện tượng này, nhưng
phải cần đến những kỹ thuật cầu kỳ của thế kỷ
20 mới chứng minh rằng thực tế oxy thải ra là
do những phân tử nước bị phân tích.
Đến
cuối thế kỷ thứ XVIII,
các nghiên cứu sinh lý học
thực vật công nhận
rằng cây cối cũng thở như động vật ngoài ra chúng còn có
khả năng chế biến chất hữu cơ từ chất vô cơ khi được đặt trong ánh
sáng. Tính chất này gọi là sự tự dưỡng (autotrophie), giúp chúng
sống mà không
cần dùng chất hữu cơ lấy từ các động vật. Tóm lại, mọi
động vật (gọi là hétérotrophe), không những phụ thuộc vào thực phẩm
trực tiếp (động vật ăn cây cỏ) hay gián tiếp (động vật ăn
thịt) mà còn không phải
là nguồn tạo ra oxygen, vì luíc bấy giờ thực nghiệm xác minh
rằng chì cây cối mới thải ra oxygen trong khí quyển.

Cấu trúc phân tử diệp lục |
|
 |
Năm 1837,
René Dutrochet
(1776-1847)
nổi tiếng nhờ công trình trên sự khuếch tán (diffusion). Ông khám phá ra rằng sắc tố màu
xanh của lá cây, diệp lục tố (Chlorophylle) là thiết
yếu cho hiện tượng này. Tiếp theo là J.R. Mayer,
cha đẻ ngành động nhiệt học (thermodynamique), sau khi
chứng minh sự tương đương giữa nhiệt năng
và động năng, ông dùng ý tưởng
của mình cho thực vật và quả quyết: "Cây
cối hấp thụ thu
năng lượng ánh sáng, và tạo
ra một
năng lượng hoá học". Ông có lý: như tất cả các dạng
năng lượng khác, có sự tương đương
giữa hóa năng và quang năng. Đặc tính dùng các
biến đổi năng lượng là một trong những đặc tính
quan trọng cho sự sống.
Năm 1862, Julius van
Sachs, là nhà sinh lý học lớn thời
bấy giờ, chứng minh rằng sự đồng hóa
diệp lục tố xảy ra trong những thể lạp lục của tế bào thực
vật. Người ta thấy nơi đây chứa rất nhiều
diệp lục tố
cho sự tổng hợp
tinh bột bằng ánh sáng
Năm 1898,
Charles Barnes
(1858-1910) đầu
tiên đề nghị dùng
chữ photosynthèse (sự quang hợp).
1905, Blackmann nhận
thấy rằng sự quang hợp tùy thuộc ánh sáng và
nhiệt độ trong lúc phản ứng hóa học tùy thuộc
một trong hai yếu tố này, hoặc quang hóa, hoặc
nhiệt hoá. Từ sự quan sát trên đã dẫn đến giả
thuyết rằng sự quang hợp phải do hai phản ứng khác
nhau, phản ứng quang hóa và nhiệt hóa.
H. Fischer trình bày
cơ cấu hóa học của chlorohphylle.
Năm 1906 Richard Martin
Willstätter (1872-1942) trích ly tinh thể của chất này .
Năm 1932 Robert Emerson
(1903-1959) và William
Arnold (1904-2001)
chiếu sáng một nhóm rong bằng những đợt sáng
tối xen kẽ và nhận thấy rằng sự quang hợp cao hơn
khi được chiếu sáng liên tục. Phản ứng với ánh sáng gọi
là phản ứng quang hoá
(photochimique) và phản ứng trong bóng tối là
phản ứng nhiệt hoá (thermochimique). Cuối cùng họ thiết lập
một khái niệm đơn vị quang hợp, tổng số những
chất màu trong đó một phân tử chlorophylle, trung tâm
quang hợp, biến đổi quang năng sang hóa năng
trong lúc vài trăm phân tử chất màu khác
được dùng để
thu nhận ánh sáng

Richard Willstätter |
Khoa học
tiến bộ rất nhiều nhờ những kỹ thuật phân tích mới như phép
sắc ký
(chromatographie)
nhờ công cuả Richard
Martin
Willstätter
(1872.-1942),
được Nobel hóa học năm 1915. |
Năm 1937 Robin Hill chứng
minh rằng các thể lạp lục (chloroplaste) trưng bày dưới ánh sáng
có thể thải ra khí oxygen với điều kiện môi trường
phải chứa một hóa chất có khả năng giữ các électron
lại. Ngoài ra năng lượng chuyển hóa (énergie métabolique)
trong khi quang hợp, giống như các hiện tượng
năng lượng khác được biết nơi người và động
vật, đều có nguồn gốc từ các phản
ứng oxy hóa-khử
Tuy nhiên phải đến
giữa thế kỷ XX nhờ những kỹ thuật tân kỳ như
sự tinh lọc và sự đánh dấu các đồng phân
cộng với tài năng lẫn kiên nhẫn của các
nhà nghiên cứu mà hiện ta mới có được
những giải nghĩa ở mức độ phân tử.
http://vietsciences.free.fr
|