Chương III
Từ
quân Thập tự chinh đến quân Đế quốc
chủ nghĩa
Các
cuộc Thập tự chinh hiển hiện rất
rõ trong tâm thức và ngôn từ
vùng Trng đông hiện đại , đối
với cả những người theo chủ nghĩa
quốc gia Ả -rập và tín đồ chính
thống Hồi giáo , nhất là Usama bin
Ladin . Nhưng không phải lúc nào
cũng như vậy .
Việc
các chiến binh Thập tự chinh
chiếm đóng Jerusalem vào năm
1099 CE là 1 chiến thắng của đạo
Cơ đốc , nhưng lại là 1 tai họa
cho người Hồi giáo và cho cả
người Do thái sống trong thành phố .
Căn cứ theo tài liệu lịch sử thời
kỳ này , thì việc chiếm đóng này
không được quan tâm mấy trong khu
vực . Những lời kêu cứu cầu
viện của dân Hồi giáo bản địa
không đựơc Damascus và Baghdad trả
lời , và các lãnh địa mới do
Thập tự chinh thành lập chẳng bao
lâu lại chui vào cuộc đỏ đen
chính trị của vùng đất mặt trời
mọc ( Levantine ) , gồm các liên
minh giữa các tôn giáo để giải
quyết những tranh giành quyền lực
giữa các ông hoàng đạo Hồi và Cơ
đốc .
Cuộc
chiến tranh chống Thập tự chinh
cuối cùng đánh bại và đuổi được
quân Thập tự chỉ xảy ra sau đó 1
thế kỷ . Nguyên do trực tiếp là
các hoạt động cứơp bóc tràn lan của
1 lãnh tụ quân Thập tự , Reynald
od Châtillon , người vây hãm pháo
đài Kerak , hiện nay là nam
Jordan , trong thời gian từ 1176
và 1187 CF , và từ đó tung ra
1 loạt các cuộc tấn công vào các
thương đoàn Hồi giáo tại các vùng
phụ cận , kể cả Hijaz . Các sử gia
chuyên về Thập tự chinh có lẽ đã
đúng khi nói rằng động cơ của
Reynald chủ yếu là kinh tế , nói
cách khác , là ý đồ cướp bóc.
Nhưng người đạo Hồi lại cho rằng
những chiến dịch của ông ta có tính
khiêu khích và thách thức
nhằm tấn công các vùng đất
thánh của đạo Hồi . Vào năm 1182 ,
bằng cách vi phạm cam kết giữa
vua của quân Thập tự tại
Jerusalem và vua Hồi giáo là
Saladin , Reynald đã tấn công và
đánh cướp các thương đoàn Hồi giáo
, kể cả 1 đoàn hành hương đi
Mecca. Lại càng xấc xược hơn theo
quan điểm đạo Hồi , khi ông ta đe
doạ Arabia , nhất là cuộc hành
quân cứơp bóc tại Biển Đỏ , khi
tấn công vào các thuyền bè Hồi
giáo và tại các cảng Hijaz phục
vụ cho Medina và Mecca . Chính do
những biến cố này dẫn tới việc
Saladin đích thân tuyên bố
Jihad chống lại quân Thập tự
chinh – đây là một minh chứng hùng
hồn về vai trò trung tâm của bán
đảo Arabia trong nhận thức của
người theo đạo Hồi .
Những chiến thằng do Saladin đạt
được và sau đó chiếm lại đựơc
Jerusalem từ quân Thập tự chinh
năm 1187 từ đó cho đến ngày nay
luôn là nguồn hứng khởi đối với
các nhà lãnh đạo Ả -rập. Saddam
Hussein thường nhắc đến 2 nhà
lãnh đạo xa xưa trong lịch sử
Iraq mà ông ta coi như người đi
trước làm gương cho mình- đó là
Saladin đã chấm dứt được mối đe
đọa phương tây thời đó khi
đánh bại và hất cẳng quân
Thập tự , và Nebuchadnezzar , người
đã giải quyết chóng vánh và dứt
điểm các vấn đề thuộc chủ nghĩa
Zion . Vào ngày 8 tháng 10 năm 2002
, thủ tướng Pháp , Jean-Pierre
Raffarin , trong 1 diễn văn tại
Quốc hội Pháp , đã cho biết bằng
cách nào mà Saladin "có thể đánh
bại đựơc quân Thập tự và giải
phóng Jerusalem". Việc sử dụng
từ"giải phóng"một cách thú vị
này của 1 Thủ tứơng Pháp để mô tả
việc Saladin chiếm đựơc
Jerusalem từ quân Thập tự có
thể coi như là sự phản ánh tình
trạng dàn trận hiện nay , hoặc nói
cách khác , đó là 1 trừơng hợp ăn
nói đúng về mặt chính trị một
cách quá đáng . Ở những nước
khác thì cách xếp đặt này có thể
coi như là do dốt nát về lịch
sử , nhưng đối với nước Pháp ,
điều này chắc chắn là không phải
như thế .
Ngay cả tại châu Âu Cơ đốc giáo ,
Saladin cũng đựơc tán dương và ca
tụng vì đã đối xử rộng rãi và
hào hiệp đối với các kẻ thù bại
trận . Tuy nhiên , Roger of
Chatillon không được hưởng sự
rộng rại này . Sử gia Ả -rập vĩ
đại Ibn al-Athir đã giải thích
tình huống này như sau:"Saladin
nói , ta đã 2 lần thề sẽ giết
hắn nếu tận tay bắt đựơc ; một
lần khi hắn cả gan dẫn quân đến
Mecca và Medina , và khi hắn đã
quỉ quyệt tấn công thương đoàn
trên đường đi đến Hijaz” . Sau
chiến thắng vẻ vang , Saladin cho
thả các ông hòang và tù truởng
tham gia Thập tự chinh bị bắt ,
nhưng tách riêng Roger of
Chatillon ra rồi tự tay Saladin
giết và cắt đầu Roger.
Sau khi jihad thành công
và chiếm lại Jerusalem , Saladin
và các người kế tục dường như
không còn quan tâm đến thành phố
này nữa , và vào năm 1229 , họ
nhường Jerusalem cho Hòang đế
Frederick III cắn cứ theo cam kết
thỏa thuận giữa nhà lãnh đạo Hồi
giáo và các Thập tự binh. Thành
phố này bị tái chiếm vào năm 1244
, khi các Thập tự binh cố biến đổi
thành 1 thành phố hòan tòan Cơ đốc
. Sau một thời gian dài ít được
nhắc tới , đến thế kỷ 19 mới khơi
dậy mối quan tâm về thành phố .
trước tiên là những tranh chấp
giữa các cuừơng quốc châu Âu về
việc cai quản các nơi thiêng
liêng của đạo Cơ đốc và sau đó
là các đợt di dân Do thái mới .
Chính
trong giai đoạn này , người Hồi
giáo bắt đầu quan tâm đến những
đợt Thập tự chinh , mà lúc mới xảy
ra quả tình ít được lưu ý . Sử Ả
-rập chép đầy đủ và phong phú về
các chiến binh Thập tự , lúc họ đến
, những chiến trận và các quốc
gia mà họ thành lập nhưng lại
không nêu được bản chất và mục
đích cuộc phiêu lưu của những
chiến binh này . Những từ ngữ Thập
tự chinh và quân Thập tự thậm chí
không hề có trong lịch sử Ả -rập
vào thời ấy , mà bản thân các
Thập tự quân chỉ được coi là những
kẻ vô đạo , người Cơ đốc , hoặc
thường gặp hơn , người Frank , là
1 từ chung cho người Châu Âu Cơ
đốc - và sau này còn có Tin
lành - theo Thiên chúa giáo , để
phân biệt với những tín đồ Chính
thống giáo và các đồng đạo phương
đông của họ . Sự nhận biết các
đợt Thập tự chinh như là một hiện
tượng lịch sử riêng biệt chỉ mới
có từ thế kỷ 19 và qua các bản
dịch sách vở châu Âu về lịch sử
. Kể từ đó , các đợt Thập tự
chính đựơc ghi nhận như là hình
mẫu sơ khai của sự bành trứơng
chủ nghĩa đế quốc châu Âu vào thế
giới Hồi giáo . Nếu mô tả chính
xác hơn thì các đợt Thập tự chinh
này chỉ là 1 sự chống trả lại
jihad kéo dài nhiều năm , rất
hạn hẹp và cuối cùng không đạt
hiệu qủa gì . Các đợt Thập tự
chinh kết thúc bằng thại , và sau
đó tại các nước Hồi giáo chẳng
còn mấy ai nhớ đến , nhưng các
nổ lực của châu Âu gần đây nhằm
chống trả và đảo ngược sự tiến
công Hồi giáo vào lãnh thổ Cơ
đốc giáo lại thành công nhiều hơn
và mở đầu cho một loạt những thất
bại đau đớn tại các vùng biên
giới thế giới Hồi giáo .
Dưới sự cai trị của các Caliph Ả
-rập thời trung cổ và một lần nữa
, dứơi các triều đại Ba tư và Thổ
nhĩ kỳ , đế quốc Hồi giáo là 1
vùng giàu có nhất , hùng mạnh nhất ,
sáng tạo nhất và khai sáng nhất
trên thế giới , và trong súôt thời
Trung cổ , thế giới Cơ đốc luôn
luôn ở thế thủ . Vào thế kỷ 15 ,
người Cơ đốc mở rộng các cuộc phản
công . Người Tatars bị hất ra khỏi
nước Nga , người Moors ra khỏi
nước Tây ban nha . Nhưng tại
vùng đông nam châu Âu , nơi các
sultan Ottoman đối đầu trước tiên
với hoàng đế Byzantine và sau
đó là Hoàng đế Lamã thần thánh ,
thế lực Hồi giáo còn thắng thế
và các phản công nói ở trên
chỉ là những bứơc lùi ở ngoài rìa
và không đáng kể . Cho đến thế kỷ
17 , các pasha Thổ vẫn còn cai
trị Budapest và Belgrade , quân
đội Thổ còn đang bao vây Vienna ,
và bọn cứơp biển vẫn còn tấn
công thuyền bè và các bờ biển
đến tận nước Anh , Ái nhĩ lan và
đôi khi , đến tận Madeira và Băng
đảo . Bọn cướp biển này nhận đựơc
nhiều sự giúp đỡ của người Âu ,
những người vì lý do này hay lý do
khác , đã định cư tại Bắc Phi
và chỉ cho họ cách đóng , lèo
lái những con tàu vượt đại dương ở
biển Bắc và thậm chí ở Đại tây
dương . Giai đoạnnày kéo dài không
lâu .
Thếrồi
có sự thay đổi lớn . Lần bao vây
thứ 2 thành Vienna của người Thổ ,
vào năm 1683 , đã thất bại hoàn
toàn , dẫn đến 1 cuộc thoái lui
thiếu suy nghĩ - một kinh nghiệm
hoàn toàn mới đối với quân đội
Ottoman . Sự thất bại này , lại
xảy ra cho chính 1 thế lực quân sự
hùng mạnh trong thế giới Hồi giáo
, đã làm phát sinh một cuộc tranh
luận mới , mà trongmột nghĩa nào
đó cho đến bấy giờ vẫn còn tiếp
tục. Bắt đầu trong tầng lớp ưu tú
về quân sự , chính trị và sau đó
là trí thức Ottoman tranh luận về
2 vấn đề : Tại sao những đội quân
Ottoman bách thắng lại bị kẻ
địch Cơ đốc đáng khinh kia
đánh bại tan tác ? Và làm cách
nào phục hồi được vị thế thống
trị trước kia ?. Cólúc cuộc tranh
luận đi từ tầng lớp ưu tú sang
các thành phần khác , từ nước Thổ
sang nhiều nước khác và các chủ
đề càng lúc càng mở rộng .
Có nhiều lý do để lo ngại. Bị thất
bại liên tiếp , trong khi đó các
lực lượng châu Âu Cơ đốc , sau khi
giải phóng đất đai của họ , lại
tiếp tục truy đuổi những kẻ xâm
lược trước kia cho đến tận nơi
xuất phát ở châu Á và châu Phi .
Ngay cả những nước nhỏ như Hoà
lan và Bồ đào nha cũng tạo
dựng được những đế quốc rộng lớn
tại phương Đông và đóng vai trò
nổi trội trong buôn bán . Vào năm
1593, Selaniki Mustafa Efendi , một
viên chức Ottoman giữ nhiệm vụ ghi
chép các biến cố xảy ra , ghi
lại hình ảnh đến Istanbul của
viên đại sứ nước Anh . Viên chức
này không chú ý nhiều đến viên
đại sứ , nhưng lại rất kinh ngạc
khi nhìn thấy chiếc tàu chở viên
đại sứ đến . Ông ta viết :" Một
con tàu chưa thấy bao giờ cập bến
Istanbul . Nó đã vựơt 3700 dặm
trên biển và ngoài các khí giới
khác , còn mang 83 khẩu súng lớn …
Đúng là 1 kỳ quan của thời đại ,
chưa bao giờ thấy hoặc ghi nhận
một chiếc nào tương tự .” Một sự
ngạc nhiên khác đó là đấng quân
vương đã gởi sứ giả đến"Người
cCai trị đảo quốc Anh là 1 phụ nữ
được thừa kế vương quyền … có
đầy đủ quyền lực".
Một
chi tiết kỷ hơn , không được nhà
chépsử Ottoman nhắc đến , cũng
có đối phần quan trọng . Vị Đại sứ
nước Anh đang nói ở đây quả thật
đựơc Nữ hoàng Elizabeth chính thức
bổ nhiệm , nhưng lại không do
chính quyền nước Anh mà do 1 công
ty thương mãi tuyển chọn và trả
lương – là 1 sự sắp xếp có ích
vào thời điểm mà sự quan tâm
chính của thế giới phương Tây
đối với vùng Trung đông chỉ là
việc kinh doanh . Thật vậy , chính
sự mở mang kinh tế và kỹ thuật đầy
sáng tạo và nhanh chóng của phương
Tây - nào là các nhà máy , tàu
chở hàng vượt đại dương , công ty
cổ phần- đã mở màn cho 1 thời
đại mới . Các con tàu châu Âu ,
được đóng để vựơt Đại tây dương ,
dĩ nhiên sẽ vượt hẳn những con
tàu chỉ quanh quẩn trong vùng Địa
trung hải , Biển Đỏ , và biển Ấn
độ , trong chiến ranh và trong
thương mại , và thương mại lại
được củng cố thêm nhờ 2 thói
quen của người phương tây – đó là
hợp tác và cạnh tranh. Vào thế kỷ
18 , những sản phẩm truyền thống
của vùng Trung đông như càphê và
đường lại đựơc trồng tại các
thuộc địa mới của phương Tây tại
châu Á và châu Mỹ và được các
lái buôn và công ty châu Âu đem
xuất khẩu sang Trung đông . Ngay
cả các khách hành hương Hồi giáo đi
từ Đông nam Á và Nam Á sang
những đô thị thần thánh tại bán
đảo Ả -rập đôi khi cũng nhờ đến
tàu châu Âu , bởi vì nhanh hơn ,
rẻ hơn , an toàn hơn và tiện
nghi hơn .
Đối
với phần với các sử gia Trung đông
cũng như Tây phương , thì thời
điểm khởi đầu theo qui ứơc của
lịch sử hiện đại tại vùng Trung
đông bắt đầu từ năm 1798 , khi
cách mạng Pháp , qua hình ảnh
của 1 viên tứơng trẻ tên là
Napoleon Bonaparte đổ bộ lên đất
Ai cập . Chỉ trong 1 thời gian khá
ngắn , tứơng Bonaparte và đạo
quân viễn chính nhỏ bé của
mình đã chinh phục , chiếm đóng
và cai trị đất nước này . Trước
khi việc này xảy ra , đã từng
có những đợt tấn công , thoái
lui và mất mát đất đai tại
những vùng biên thuỳ xa xôi ,
nơi người Thổ và người Ba tư đối
đầu với nước Áo và nước Nga .
Nhưng khi 1 lực lượng phương Tây
nhỏ bé tấn công 1 trong những vùng
trọng tâm của đạo Hồi quả là
1 cú sốc nặng nề . Sự tháo lui
của quân Pháp , trong chừng mực
thậm chí lại là 1 cú sốc lớn hơn
. Quân Pháp bị buộc phải rời Ai
cập không phải do người Ai cập ,
cũng không phải do người Thổ ,
nhưng lại do một đội quân nhỏ
thuộc hải quân Hoàng gia Anh ,
dưới sự chỉ huy của 1 đô đốc
trẻ tên là Horatio Nelson .Đây là
một bài học cay đắng mà người Hồi
giáo phải học : không những 1 cường
quốc châu Âu có thể đến , xâm
lăng , cai trị tuỳ ý rồi chỉ có
1 cường quốc chấu Âu mới đẩy họ
đi mà thôi .
Chủ
nghĩa đế quốc là 1 chủ đề đặc
biệt quan trọng đối với Trung
đông và đặc biệt hơn , là Hồi
giáo chống lại phương Tây . Đối với
họ , từ chủ nghĩa đế quốc
có 1 ý nghĩa quan trọng . Lấy 1 ví
dụ , người Hồi giáo không bao giờ
dùng từ này để chỉ các đế quốc Hồi
giáo - đế quốc đầu tiên do người Ả
-rập dựng nên , những đế quốc sau
do người Thổ , những người chinh
phục nhiều vùng đất và dân cư
rộng lớn , đem sáp nhập vào Nhà
Hồi giáo . Theo người Hồi giáo thì
thật là hoàn toàn chính đáng khi
chinh phục và cai trị châu Âu và
người Âu và như thế là giúp cho
họ - nhưng không phải bó buộc -
tiếp thu đức tin chân chính . Còn
ngược lại là 1 trọng tội và là
tội ác khi người Âu chinh phục và
cai trị người theo đạo Hồi , và
tệ hơn nữa là đưa họ vào con đường
lầm lạc . Theo nhận thức Hồi giáo
, thì sự trở lại đạo Hồi là 1
điều ích lợi cho người đựơc cải
đạo và là 1 công đức đối với
người giúp họ cải đạo . Theo luật
Hồi giáo , từ đạo Hồi chuyển sang
1 đạo khác là phản đạo - đây là
1 tội vô cùng nghiêm trọng cho cả
người bị lầm lạc và người làm cho
người kia lầm lạc . Về vấn đề này ,
luật rất rõ ràng và dứt khoát .
Nếu 1 người Hồi giáo từ bỏ đạo Hồi
, ngay cả đối với một kẻ tân tòng
quay trở lại đạo cũ , hình phạt là
tội chết . Trong thời đại ngày nay
, quan niệm và thực hiện
takfir , tức là nhận biết và tố
cáo hành vi phản đạo đã đựơc mở
rộng rất nhiều . Không phải là
hiếm khi các nhóm cực đoan và
chính thống cho rằng rằng một số
chính sách , hành động hoặc thậm
chí chỉ là ý kiến của người rao
giảng đạo Hồi cũng được coi
là hành vi phản đạo , và án cho
kẻ phạm tội là tử hình .Đây là
nguyên tắc đựơc nêu trong
fatwa đối với Salman Rushdie
, việc ám sát Tổng thống Sadat
và nhiều người khác .
Các
hoạt động của người Âu tại các
nước Hồi giáo trải qua nhiều giai
đoạn . Giai đoạn đầu là sự bành
trứơng thương mại và , theo cách
nhìn của người đạo Hồi , đã bóc
lột họ và đất nước của họ , trên
2 mặt thương trừơng cũng như
nguồn nguyên liệu .Sau đó là
những đợt xâm lăng và chinh phục
bằng vũ lực , nhờ đó mà các
cường quốc châu Âu mới xây dựng
đựơc sự thống trị trên nhiều vùng
đất quan trọng thuộc thế giới Hồi
giáo- người Nga tại vùng Caucasus
và vùng Transcaucasus và sau đó là
vùng Trung Á ; người Anh tại Ấn độ ,
người Anh và người Hoà lan tại
Malaysia và Indonesia , và giai
đoạn chót là người Pháp và
người Anh tại vùng Trung đông và
Bắc phi. Tại những nơi này chủ
nghĩa đế quốc đã cai trị trong
nhiều thời kỳ dài ngắn khác nhau
- tại một sô nơi trong hàng thế
kỷ như tại Đông nam Á và Ấn độ
; ở nơi khác , như tại vùng đất
người Ả -rập tại Trung đông , chỉ
trong một thời gian tương đối
ngắn.
Trong mỗi trừơng hợp , chủ nghĩa
đế quốc đều để lại dấu ấn . Trong
thế giới Ả -rập , thời kỳ cai trị
của đế quốc Anh Pháp bắt đầu
bằng sự đô hộ của người Pháp tại
Algeria ( 1830) , người Anh tại
Aden ( 1839 ) , tiếp tục với sự
chiến đóng của người Anh tại
Aicập ( 1882) , người Pháp mở
rộng kiểm soát tại Tunisia
( 1881) và Morocco ( 1911) và ảnh
hưởng của người Anh tại vùng vịnh
Ba tư và cúôi cùng là sự phân
chia các tỉnh thuộc đế quốc
Ottoman Ả -rập tại vùng Lưỡi
liềm Phì nhiêu giữa 2 đế quốc
Tây Âu chính . Lần này các lãnh
thổ mới bị chiếm đóng không
những chỉ sáp nhập đơn thuần ,
theo kiểu truyền thống , thành
các thuộc địa hoặc vùng lệ thuộc
. Các lãnh thổ này đựơc Hội quốc
liên giao cho Anh và Pháp cai trị
với nhiệm vụ rõ ràng là giúp cho
họ tiến đến độc lập . Giai đoạn
này rất ngắn , từ sau thế chiến thứ
1 đến sau thế chiến thứ 2 , khi
quyền uỷ trị chấm dứt và các lãnh
thổ bị ủy trị dành độc lập .
Phần lớn bán đảo Ả -rập vẫn nằm
ngoài tầm của đế quốc .
Tuy
nhiên , tác động của chủ nghĩa đế
quốc được coi là rất lớn , và
dưới mắt của số đông dân cư
trong khu vực , quả là cực kỳ độc
hại . Tác động và sự thiệt
hại chắc chắn là rất đáng kể ,
nhưng có lẽ ít đựơc quan tâm và
không có tầm vóc như là các huyền
thọai liên quan đến chủ nghĩa
quốc từng được rêu rao . Dù sao
thì chủ nghĩa đế quốc cũng đem lại
một số lợi lộc – xây dựng hạ tầng
, các dịch vụ công cọng , hệ
thống giáo dục , cũng như một số
thay đổi xã hội , nhất là sự xóa
bỏ chế độ nô lệ và sự giảm bớt
đáng kể tình trạng đa thê , tuy
không lọai bỏ đựơc hòan tòan .
Sự tương phản có thể nhận thấy
rất rõ khi so sánh tình hình
giữa những nước từng bị đế quốc
đô hộ , như Ai cập và Algeria , với
những nước vẫn còn giữ được độc
lập , như Arabia và Afghanistan .
Tại Arabia , các trừơng đại học
hình thành muộn và cũng không nhiều
. Hiện nay , với 1 dân số ứơc
tính 21 triệu , chỉ có 8 trường
đại học - tức là chỉ nhiều hơn 1
so với 7 cơ sở giáo dục đại học
đựơc thành lập tại Palestine kể từ
khi vùng đất này bị Israel chiếm
đóng năm 1967 . Chế độ nô lệ đến
năm 1962 mới được luật pháp bãi
bỏ tại Arabia Saudi , và sự áp
bực phụ nữ vẫn còn nguyên vẹn .
Nhưng
chắc chắn cũng có những hậu qủa
tiêu cực lớn của chủ nghĩa đế
quốc và nói rộng ra là ảnh
hưởng của phương tây hoặc châu
Âu , thậm chí tại các quốc gia vẫn
còn giữ đựơc sự độc lập chính trị
, như tại Thổ nhĩ kỳ và Iran.
Trong số những tác động canh tân
hóa nổi bật là việc tăng cường
quyền lực nhà nước thông qua việc
củng cố bộ máy giám sát , đàn áp
, và nhồi sọ , và cùng lúc làm
suy yếu đi hoặc lọai trừ các thế
lực trung gian làm hạn chế quyền
lực của các nhà cai trị chuyên
chế . Sự thay đổi về xã hội , và sự
đổ vỡ các mối quan hệ và ràng buộc
xã hội xưa cũ , đã đem lại nhiều
mối nguy hại lớn cho xã hội và
tạo ra những tương phản mới càng
ngày càng rộng , mà các phương
tiện truyền thông hiện đại lại
càng làm rõ thêm nồn nột . Ngay
từ năm 1832 , một quan sát viên
sắc sảo người Anh , Aldophus
Slade , vốn là 1sĩ quan hải quân
trẻ đã nhận ra đựơc sự khác biệt
giữa giới quí tộc cũ và giới quí
tộc mới . Giới quí tộc cũ sống
bằng tài sản . Giới quí tộc mới
thì lấy nhà nước làm tài sản của họ
. Điều này cho đến nay vẫn còn
đúng tại phần lớn các vùng đất
Hồi giáo .
Vào đầu thế kỷ 20 - mặc dù nền
độc lập mong manh vẫn còn đựơc duy
trì tại Thổ nhĩ kỳ và Iran và tại
một số quốc gia xa xôi như
Afghanistan , vào lúc đó việc xâm
lăng cũng chẳng bỏ bèn gì – thì
hầu như tòan bộ thế giới Hồi giáo
đã đựơc sáp nhập vào 4 đế quốc
châu Âu là Anh , Pháp , Nga và
Hòa lan . Các chính quyền và phe
nhóm Trung đông buộc phải học
cách chọc cho các kẻ kình địch
hùng mạnh kể trên quay lại chống
nhau . Có lúc , họ thắng cuộc
chơi ít nhiều . Kể từ lúc các đồng
minh phương tây – Anh , Pháp và
sau đó là Mỹ - đô hộ tòan bộ khu
vực , các kẻ kháng cự Trung đông
theo tự nhiên là quay sang tìm sự
giúp đỡ của phía kẻ thù của đồng
minh. Trong thế chiến thứ 2 , họ
quay sang Đức ; trong thời chiến
tranh lạnh , đó là Liên Xô.
Ngay
từ năm 1914, nước Đức lúc đó liên
kết với đế quốc Ottoman , cố gắng
huy động tình cảm tôn giáo ở
người dân đạo Hồi thuộc các đế
quốc Anh , Pháp và Nga để họ
chống lại các ông chủ đế quốc và
giúp nước Đức thủ lợi . Nổ lực này
chỉ đem lại kết qủa quá ít ,
cho nên bị 1 nhà nghiên cứu Đông
phương học người Hòa lan tên là
Snouck Hurgronje chế nhạo trong 1
bài báo danh tiếng nhan đề :”
Thánh chiến : chế tạo tại Đức".
Nơi
mà Kaiser thất bại , thì có lúc
Hitler lại đạt được thành công
đáng kể . Vào cuối tháng 3 /1933
, ngay sau khi Hitler lên cầm quyền
vài tuần , vị Mufti tại
Jerusalem , Hajj Amin al-Husseini ,
đã tiếp cận tiến sĩ Heinrich Wolff
, Tổng lãnh sự Đức tại Jerusalem ,
và đề nghị được cọng tác . Viên
lãnh sự , sau khi báo cáo đề nghị
này về Berlin , góp ý rằng nên
từ chối hoặc ít nhất là cũng bỏ qua
. Khi không còn hy vọng đứng về
phía đế quốc Anh vì đã là đồng
minh của Đức , không còn cách nào
khác để chống lại Anh bằng bắt tay
với phong trào chủ yếu chống Anh
lúc đó . Ngay sau hiệp ước Munich
1938 , khi Hitler rốt cuộc từ bỏ
hy vọng lôi kéo Anh vào liên
minh chủng tộc Aryan cùng với Đức
, thì các đề nghị của giới lãnh
đạo Palestine mới đựơc chấp nhận .
Từ đó trở đi và trong súôt những
năm chiến tranh , mối liên kết
của họ rất chặt chẽ và vị Mufti
, khi thì ở Jerusalem , lúc ở
Beirut , Baghdad , và cuối cùng từ
văn phòng tại ngọai ô Berlin , đã
đóng 1 vai trò quan trọng trong
nền chính trị giữa các nước Ả
-rập. Năm 1941 , nhờ sự giúp đỡ của
Đúc thông qua Syria do chính
phủ Vichy cai quản , Rashid ‘Ali
có lúc đã thành công dựng lên 1
chế độ thân phe trục tại Iraq .
Ông này bị quân Đồng minh đánh bại
và chạy trốn sang Đức . Ngay cả
Anwar Sadat , cũng tự thừa nhận
là đã làm gián điệp cho Đức tại
Ai cập do khi Anh còn cai trị .
Sự
thất bại và sụp đổ của Đế chế
thứ 3 cùng bộ máy của nó đã để
lại 1 khỏang trống nhức nhối . Như
nhiều người thấy được , chính
trong giai đọan giao thời này
mà vào năm 1948 người Do thái đã
dựng nên 1 nhà nước và làm cho
quân đội các Ả -rập bị thua trận
nhục nhã khi ồ ạt tấn công ngăn
không cho người Do thái thành lập
nhà nước . Vì thế , cần phải tìm
1 ông chủ và người bảo vệ mới để
thay thế cho Đế chế thứ 3 , đó là
Liên Xô.
Rồi
đến phiên Liên xô sụp đổ , chỉ
còn lại Mỹ là siêu cường duy nhất
. Như vậy kỷ nguyên của lịch sử
vùng Trung đông được mở màn với
Bonaparte và Nelson và kết thúc
với Mikhail Gorbachev và George
Bush cha . Thọat đầu , dường như
kỷ nguyên cạnh tranh giữa các đế
quốc đã chấm dứt với sự rút lui
của 2 kình địch - Liên xô do
không làm được , còn nước Mỹ thì
không muốn đóng vai trò đế quốc .
Nhưng trước những biến cố dài hơi
, nhất là Cách mạng Iran và
chiến tranh do nhà độc tài Iraq ,
Saddam Hussein , đã buộc nước Mỹ
phải tham gia trực tiếp nhiều hơn
vào các vụ việc của khu vực .
Người dân Trung đông xem đây là
1 giai đọan mới của ván bài đế
quốc cũ . Người Mỹ chưa hề có khả
năng hoặc ý muốn đóng vai trò
đế quốc .
Các
nhà lãnh đạo Hồi giáo , cả 2
phe chính phủ và đối lập ,
phản ứng với tình hình mới này
không giống nhau . Đối với một
số người , đáp ứng tự nhiên là
tìm 1 người bảo trợ mới - người
kế tục Đế chế thứ 3 và Liên xô ,
người mà họ có thể tìm đựơc sự
khích lệ , ủng hộ và giúp đỡ khi có
chiến tranh chống lại phương Tây .
Trong khi đó , phương Tây với
tính cách là 1 khối quyền lực càng
ngày càng lùi xa về phía tây hơn
nữa và hiện nay chủ yếu chính là
nước Mỹ , đã tạo ra một khả năng
thú vị mới là châu Âu lục địa
đóng vai trò đối nghịch . Một số
nước châu Âu , vì lý do riêng ,
lại chia sẻ có mối hiềm thù
và ác ý của vùng Trung đông
đối với nước Mỹ , bày tỏ ý muốn
sẳn lòng chấp nhận vai trò này .
Nhưng đó chỉ là ý muốn , mà
không có phương tiện .
Việc
Liên xô sụp đổ , và thảm bại sau
đó của Saddam Hussein trong chiến
tranh vùng Vịnh năm 1991 , là 1
cú đấm tai hại cho các phong trào
quốc gia chủ nghĩa thế tục , nhất
là đối với người Palestine , thêm
một lần nữa , cũng như năm 1945 ,
thấy mình bơ vơ không có cường
quốc nào bảo trợ và giúp đỡ cho
chính nghĩa của mình . Người bảo trợ
Liên xô không còn nữa . Thậm
chí những nước Ả -rập ủng hộ tài
chính cho họ là Kuweit và
Saudi Arabia , tức giận vì
Palestine ủng hộ nhiệt tình
Saddam Hussein , có lúc cũng
ngưng không trợ cấp , lại
càng làm cho người Palestine thêm
cô lập , nghèo đói và yếu hẳn
đi .Chính bởi tình hình đó buộc
họ phải nghĩ đến điều không thể
nghĩ đến là chịu ký thoả hiệp
hoà bình với Israel . Dứơi con mắt
của nhóm chính thống , thì việc
tổ chức PLO đựơc Mỹ và Israel cứu
sống và bị đưa vào tròng khi hạ
mình đối thoại với Israel là
hành động đáng bị khinh bỉ .
Tất
cả những điều này càng làm cho
nhóm chính thống thấy quan điểm
về thế giới của mình có lý hơn ,
và lý lẽ của họ thôi thúc hơn . Họ
- đúng ra là với Usama bin Ladin -
diễn giải sự sụp đổ của Liên
xô theo 1 cách khác . Theo nhận
thức của họ , thì chính họ , chứ
không phải là Mỹ đã chiến
thắng chiến tranh lạnh . Dưới
mắt họ , Liên xô không phải là
người giúp đỡ tốt bụng trong cuộc
chiến chung chống lại người Do
thái và đế quốc phương Tây
nhưng lại là nơi xuất phát của
chủ nghĩa vô thần và không tín
ngưỡng , là nước đã áp bức hàng
triệu người Hồi giáo , đã xâm
lược Afghanistan . Họ cho rằng ,
không phải là không có lý ,
chính sự chiến đấu của họ tại
Afghanistan đã đánh bại Hồng
quân hùng mạnh và đưa Liên xô
đến chỗ thất bại và sụp đổ . Sau
khi thanh toán xong một kẻ địch
nguy hiểm và hung tàn trong nhóm
2 siêu cường vô đạo , nhiệm vụ
kế tiếp của họ là đối phó với
kẻ địch còn lại , đó là nước Mỹ ,
và trong trận chiến này , ai mà
thoả hiệp sẽ được coi là công cụ
và tay sai cho kẻ địch vô đạo
. Dựa trên nhiều lý do , nhóm
chủ trương chính thống Hồi giáo
cho rằng việc đánh nước Mỹ sẽ
đơn giản và dễ dàng hơn . Theo
họ , nước Mỹ hiện nay thối nát về
đạo đức , xã hội suy đồi , và hệ
qủa là nền chính trị và khả
năng quân sự đều suy yếu . Nhận
thức này có 1 lai lịch khá thú vị
.
---------------------
Chương 4
PHÁT
HIỆN NỨƠC MỸ
Trong
1 thời gian dài , tại các vùng đất
Hồi giáo , nước Mỹ hầu như không hề
được biết đến . Thoạt đầu , các
chuyến du hành khám phá không
được quan tâm mấy – chỉ có 1 bản
sao còn sót lại bản đồ châu Mỹ
do Christopher Columbus vẽ , được
dịch ra tiếng Thổ , và lưu giữ
tại bảo tàng Topkapi , Istanbul.
Tài liệu về sự khám phá ra Tân
thế giới của một nhà địa lý người
Thổ vào thế kỷ 16 , có tiêu đề
Lịch sử vùng Tây Ấn là
một trong những quyển sách đầu
tiên in tại Thổ nhĩ kỳ - vào thế
kỷ 18. Nhưng sự quan tâm cũng rất
ít , và không có mấy tài liệu về
nước Mỹ bằng tiếng Thổ, tiếng Ả
-rập hoặc bằng các ngôn ngữ
Hồi giáo khác cho tới mãi gần
đây . Khác với Cách mạng Pháp xảy
ra vài năm sau đó , chẳng mấy ai
biết đến Cách mạng Mỹ , và được
coi , nếu có , chỉ là 1 hình
thức nổi dậy quen thuộc . Những
điều ghi nhận của viên đại sứ
Morocco tại Tây ban nha chắc chắn
là tài liệu đầu tiên bằng tiếng Ả
rập về Cách mạng Mỹ vào thời điểm đó
:
Sultan
của xứ Morocco ký 1 hiệp uớc
hữu nghị với nước Mỹ vào năm
1787 , và sau đó nước cộng hoà non
trẻ này có một số mối quan hệ , khi
thì thân thiện , khi thì thù
nghịch , chủ yếu là thương mại ,
nhưng tất cả đều hạn hẹp với
các nước Hồi giáo khác .
Tài
liệu đựơc ghi chép đầu tiên có
nhắc tới nước Mỹ như là 1 biểu
tượng đối với thế giới Hồi giáo
xảy ra tại Istanbul ngày 14
tháng 7 năm 1793 , khi viên đại
sứ Pháp mới đến nhận công tác đã
tổ chức một buổi ra mắt trước
công chúng mà điểm đỉnh là 1
lọat phát súng chào bắn từ 2
chiến hạm Pháp đậu tại mũi
Seraglio . Theo báo cáo của viên
đại sứ , họ đã kéo cờ đế quốc
Ottoman , cờ của cọng hòa Pháp
và Mỹ , và "cờ của những cừơng
quốc khác đã không làm bẩn
súng khi đứng chung hàng ngũ
với những bạo chúa nghịch đạo". Một đại sứ Pháp kế nhiệm ,
là tứơng Aubert du Bayet
( sau
này là Dubayet ) , đến
Istanbul vào năm 1796 , cũng có
nguồn gốc Mỹ do vì sinh ra
tại New Orleans và đã chiến đấu
trong quân đội Mỹ . Ông này cố
tâm truyền bá các tư tưởng
cách mạng tại Thổ nhĩ kỳ .
Nhưng đây là những người Pháp ,
không phải là các doanh nghiệp
của Mỹ và trong khi tư tưởng
cách mạng Pháp gây ảnh hưởng đến
tư tưởng và văn học của người
Thổ , người Ả -rập và những người
khác trong súôt thế kỷ 19 , thì
Cách mạng Mỹ , và Cọng hòa Mỹ
sinh ra từ cuộc cách mạng này ,
trong một thời gian dài lại
không hề đựơc nhắc tới và
thậm chí cũng không mấy ai
biết. Ngay cả sự hiện diện của
nước Mỹ càng ngày càng nhiều thêm
- nào là nhà buôn , lãnh sự ,
nhà truyền giáo và thầy giáo –
cũng không cũng gây đựơc
được sự hiếu kỳ , và hầu như
cũng không hề đựơc văn chương và
báo chí thời ấy nhắc đến . Các
sách giáo khoa về địa lý , phần
lớn đựơc dịch hoặc dựa theo
nguyên bản châu Âu , chỉ nêu vắn
tắt một vài sự kiện về Tây bán cầu
, còn trên báo chí thì rãi rác
có một số tài liệu nhắc đến các
biến cố xảy ra tại Mỹ , thường
được nhắc tới dứơi hình thức
tiếng Pháp , États Unis ,
chuyển sang tiếng Ả -rập là
Itazuni , hoặc một dạng tương
tự . Một quyển sách giáo khoa
đựơc xuất bản tại Aicập vào năm
1833 , đựơc nhà văn và dịch giả
nổi tiếng Sheikh Rifa’a Rafi’al -
Tahtawi
( 1801-1873) phỏng dịch từ tiếng
Pháp có bổ sung một đọan ngắn
mô tả :"Itazumi là 1 quốc gia ( dawla ) gồm có nhiều vùng
( iqlim
) , họp lại thành một nước cọng
hòa tại vùng đất Bắc Mỹ . Dân
chúng gồm các bộ lạc từ nước
Anh sang và chiếm cứ vùng đất
này . Sau đó họ đứng lên tự giải
phóng khỏi sự kiểm sóat của người
Anh và dành đựơc tự do độc lập .
Đây là một trong những nước văn
minh lớn nhất tại châu Mỹ , và
tại đây mọi tín ngưỡng và cọng
đồng tôn giáo đều đựơc phép .
Chính phủ đóng tại 1 thị trấn
tên là Washington" Những câu
kết luận đáng cho ta chú ý.
Vào
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ,
một mặt trên sách vở và các
bách khoa thư và mặt khác trên
báo chí có chú ý nhiều hơn về nước
Mỹ , nhưng vẫn còn rất hạn chế ,
và dường như chỉ khu trú vào các
nhóm thiểu số không theo Hồi giáo
. Các tài liệu tham khảo liên
quan đến nước Mỹ trong lãnh vực
văn chương nói chung có tính
không tích cực hoặc tiêu cực
nhưng chỉ đơn thuần là mô tả . Các
nhà truyền giáo dĩ nhiên không
được ưa chuộng trong các cọng
đồng Hồi giáo , nhưng dường như
cũng không hề có sự ngờ vực , còn
sự căm ghét thì lại càng ít hơn
. Sau nội chiến Mỹ , một số sĩ
quan Mỹ thất nghiệp chạy sang
phục vụ cho các nhà cầm quyền Hồi
giáo , giúp họ canh tân quân đội
. Các nhà truyền giáo người Mỹ ,
dù bị cấm không cho cải đạo đối
với tín đồ đạo Hồi , nhưng có thể
cải đạo cho một số người Cơ đốc
chính thống sang các hệ phái
Tin lành khác nhau , và điều
quan trọng hơn là , cung cấp
nền giáo dục trung học và cao
đẳng cho số học sinh càng ngày
càng đông , đầu tiên là nam , sau
đó là nữ , trước hết cho các nhóm
thiểu số , sau mới sang cọng đồng
Hồi giáo . Một số học sinh tốt
nghiệp từ những trường này thậm
chí còn sang Mỹ du học tại các
trừơng Cao đẳng và Đại học . Lúc
đầu , chỉ có du học sinh từ các
cọng đồng thiểu số Cơ đốc , sau
đó có thêm nhiều học sinh đạo Hồi
tham gia , một số trong nhóm này
thậm chí còn đựơc nhà nước xuất
tiền cử đi học .
Thế
chiến lần thứ 2 , kỹ nghệ dầu mỏ ,
và những phát triển hậu chiến đã
đưa nhiều người Mỹ đến các vùng
đất Hồi giáo ; thì cũng có
nhiều người Hồi giáo đến nước Mỹ
ngày càng đông , thọat đầu là
học sinh , sau đó là thầy giáo ,
doanh nhân , hoặc du khách , và
cuối cùng là dân di cư . Phim
ảnh và sau đó là truyền hình
đã du nhập lối sống Mỹ , hoặc ít
nhất cũng một dạng của lối sống
này , vào hàng triệu người mà trước
đó chưa hề nghe hoặc biết đến
ngay cả tên nước Mỹ . Nhiều hàng
hóa Mỹ , nhất là những năm ngay
sau chiến tranh , khi các đối thủ
cạnh tranh châu Âu hầu như không
còn và sự cạnh tranh Nhật bản
chưa có , đã len lõi vào đến
những chợ búa hẻo lánh nhất
thuộc thế giới Hồi giáo , đã chiếm
đựơc nhiều khách hàng mới và có
lẽ điều quan trọng hơn cả , là đã
tạo ra đựơc những thị hiếu và tham
vọng mới . Với một số người ,
nước Mỹ đại diện cho tự do , công
bằng và cơ hội . Đối với nhiều
người khác , nước Mỹ tượng trưng
cho giàu có , quyền lực và
thành công , vào thời điểm này ,
những tính chất trên chưa đựơc coi
là tội lỗi hoặc tội ác .
Và
rồi có sự thay đổi lớn , khi các
nhà lãnh đạo của 1 phong trào
phục hưng rộng khắp và ngày càng
mở rộng cố công tìm kiếm và cho
rằng kẻ thù của mình là kẻ thù của
Thượng đế và xác định"nơi ở và 1
tên gọi"ở Tây bán cầu . Đột
nhiên , hoặc dừơng như thế , nước
Mỹ bỗng trở thành kẻ thù không đội
trời chung , là hiện thân của cái
ác , và là kẻ thù hiểm ác của tất
cả những gì đựơc coi là tốt đẹp
đối với Hồi giáo , và nhất là với
tín đồ đạo Hồi . Tại sao như thế ?.
Trong
số những yếu tố gây nên tâm trạng
chống Mỹ có một số ảnh hưởng
của giới trí thức châu Âu . Một
trong những ảnh hưởng đó là từ
nước Đức , nơi mà cái nhìn tiêu
cực về nước Mỹ hình thành một
trường phái tư tuởng , trong số đó
có những nhà văn thuộc các
trừơng phái rất khác nhau như
Rainer Maria Rilke , Oswald Spengler
, Ernest Junger và Martin Heidegger
. Theo nhận thức của những tác giả
này thì nước Mỹ là 1 ví dụ tột
cùng về một nền văn minh không
có văn hóa ; giàu có và tiện nghi ,
rất phát triển về mặt vật chất
nhưng giả tạo và vô tri ; chỉ có
tính lắp ráp hoặc quá lắm cũng
chỉ là đựơc dụng lên , không hề
trưởng thành ; có tính máy móc
không chút hữu cơ , chỉ là 1 phức
hợp hòan tòan kỹ thuật nhưng
không hề có chút gì là tinh thần
và sức sống của các nền văn hóa
nhân bản , quốc gia , có cội rễ
của nước Đức và những dân tộc"chân chính” khác . Nền triết học
Đức và nhất là triết học về giáo
dục đựơc giới trí thức tại Ả -rập
và một số nước Hồi giáo khác hâm
mộ nhiều vào những năm thuộc thập kỷ
1930 và đầu 1940 mang thông
điệp chủ nghĩa chống Mỹ về mặt
triết học . Lối giải thích theo chủ
nghĩa quốc xã của ý thức hệ Đức
rất có ảnh hưởng trong các nhóm
theo chủ nghĩa quốc gia , nhất là
đối với những người sáng lập và
đảng viên đảng Ba’th ở Syria và
Iraq . Sau khi Pháp đầu hàng Đức
vào tháng 6/1940 , các lãnh thổ ủy
trị của Pháp là Syria và Liban
vẫn còn đặt dứơi sự kiểm sóat
của chính phủ Vichy và vì thế
khá dễ cho người Đức tiếp cận , và
sử dụng như là các căn cứ họat
động của họ trong thế giới Ả
-rập. Nổi bật nhất là cố gắng
-có lúc đã thành công - hình
thành 1 chế độ thân Quốc xã tại
Iraq . Đảng Ba’th đựơc thành lập
trong thời kỳ này . Các họat động
trên chấm dứt khi người Anh
( và
nước Pháp tự do ) chiếm lại Syria –
Liban vào tháng 7/1941 , nhưng
đảng Ba’th và các ý thức hệ đặc
thù của nó vẫn tồn tại .
Chủ
đề về tính nhân tạo và thiếu
1 bản sắc dân tộc đích thực của
Mỹ cũng giống như các nước Ả
-rập đã xuất hiện thường xuyên
trên các bài viết của đảng Ba’th
và thỉnh thỏang lại được Saddam
Hussein khơi dậy , như trong 1
diễn văn đọc hồi tháng giêng năm
2002 . Khi các cuộc chiến - thế
chiến thứ 2 , rồi sau đó chiến
tranh lạnh - còn tiếp tục , vai
trò của Mỹ lãnh đạo phương Tây
ngày càng trở nên nổi bật , cho
nên cái phần thù ghét dành cho
nước Mỹ lại càng đáng chú ý hơn
.
Sau
khi Đế chế thứ 3 sụp đổ , và ảnh
hưởng của Đức không còn , thì
một thế lực khác và một triết lý
khác , thậm chí còn chống Mỹ dữ
dội hơn , thế chân - đó là chủ
nghĩa Marxit kiểu Liên xô đứng
lên tố cáo chủ nghĩa tư bản
phương Tây và nước Mỹ là đại
diện nguy hiểm và tiên tiến
nhất của nó. Dù thực tế là việc
người Nga không hề nhẹ tay khi
thống trị phần lớn đế quốc
châu Á mênh mông do Sa hòang
chinh phục và sau đó bị Liên xô
tái chinh phục nhưng ít nhiều cũng
không ngăn đựơc việc họ tự cho
mình là chiến sĩ và là người
bảo trợ cho các phong trào chống
chủ nghĩa đế quốc lan tràn trên
khắp thế giới sau thế chiến thứ 2
, không chỉ duy nhất tại vùng
Trung đông . Vào năm 1945 , dường
như chủ nghĩa xã hội sẽ là làn
sóng của tương lai . Tại Đông Âu ,
Liên xô đã hòan tòan thắng trận .
Tại Tây Âu , đảng Lao động Anh đã
đánh bại ngay cả Winston Churchill
vĩ đại trong cuộc tổng tuyển cử
năm 1945 . Trên tòan thế giới Arab
các chính phủ và phong trào hăng
hái tiếp thu các hình thức của
chủ nghĩa xã hội .
Nhưng
dù rằng các nhà bảo trợ và các
chủ nghĩa ngọai nhập có mang lại
giúp đỡ vật chất và cách diễn
đạt trí thức chống phương Tây và
chống Mỹ , thì họ cũng không đề ra
, và chắc chắn là không giải thích
được vì sao phong trào bài
xích phương tây lại làm cho nhiều
nước Trung đông và đâu đó
trong thế giới Hồi giáo , tiếp thu
những tư tưởng như thế . Ta phải
nói cho rõ là tạo điều kiện
thuận lợi cho các học thuyết cực
kỳ khác nhau như thế không phải
là lý thuyết chủng tộc của bọn
quốc xã Nazi , lý thuyết này
không mấy lôi cuốn đối với người
Ả -rập , hoặc chủ nghĩa Cọng sản
vô thần , lại càng không hấp dẫn
được tín đồ đạo Hồi , nhưng chính
là ở cái gốc bài phương Tây .
Chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa
cọng sản là những lực lượng
chính chống lại phương Tây , cả
về lối sống lẫn vai trò cường
quốc trên thế giới , và có như thế
, 2 chủ nghĩa đó mới tranh thủ
được cảm tình hoặc thậm chí sự
cọng tác của những ai xem phương
tây là kẻ thù chính của mình.
Nhưng
tại sao lại như thế? Nếu ta đi từ
cái chung đến cái riêng , thì
không hề thiếu các hành động hoặc
chính sách riêng lẽ , được các
chính quyền phương Tây đưa ra
hoặc theo đuổi , đã làm khơi dậy
tại Trung đông và các dân tộc đạo
Hồi khác lòng căm giận sâu sắc
diễn ra dưới nhiều hình thức
chiến đấu - để dành độc lập khỏi sự
cai trị hoặc đô hộ của ngọai bang ;
để giải phóng tài nguyên khỏi sự
bóc lột của nước ngoài , chủ yếu
là dầu mỏ ; để lật đổ những kẻ
cầm quyền và chế độ tay sai và
theo đuôi của phương tây . Nhưng
cái cảnh thường xuyên là khi tất
cả những chính sách trên bị hủy bỏ
và các vấn đề đã giải quyết xong
, tình hình chỉ dịu đi tạm thời
và khu trú . Khi người Anh bỏ Ai
cập , người Pháp bỏ Algeria , bỏ
hết tài sản tại các nước Ả -rập
khác , thì các chế độ quân chủ bị
lật đổ tại Iraq và Ai cập , vua
Shah chủ trương cải cách theo
phương tây bỏ chạy khỏi Iran , các
công ty dầu mỏ từ bỏ quyền kiểm
sóat các giếng dầu mà họ đã bỏ
công phát hiện và xây dựng , và tự
hài lòng với những thỏa thuận có
được với các chính phủ của những
nước này – tuy vậy sự phẫn uất
tràn lan của những người theo
phe chính thống và cực đoan chống
lại phương tây vẫn không hề suy
giảm .
Có
lẽ ví dụ thường đựơc nêu ra nhất
về sư can thiệp của phương tây
cùng với những hệ qủa của nó là
việc lật đổ chính phủ Mosaddeq tại
Iran năm 1953. Cuộc khủng hỏang bắt
đầu khi Mosaddeq , nhà lãnh đạo
bình dân theo chủ nghĩa dân tộc ,
đựơc nhân dân ủng hộ , quyết
định quốc hữu hóa các công ty dầu
mỏ , đặc biệt là công ty Anh-Iran
, công ty quan trọng nhất . Chắc
chắn là , những điều kiện theo đó
công ty này và những công ty dầu
mỏ nhượng quyền khác họat động
thực ra đều không bình đẳng và phù
hợp . Lấy ví dụ , công ty dầu mỏ
Anh –Iran trả thuế cho chính phủ
Anh nhiều hơn là tiền thuê mỏ cho
chính phủ Iran . Nước Mỹ lúc đầu
liên đới vì là đồng minh của Anh
, rồi sau đó , dần dà , do sợ
Liên xô nhảy vào ủng hộ chính
phủ Mosaddeg . Vì thế , Anh và Mỹ
quyết định , dĩ nhiên là có sự
đồng ý của vua Shah , tống khứ
Mosaddeg bằng 1 cuộc đảo chính .
Lúc đầu , cuộc đảo chính không
suông sẻ mấy . Mossadeg chỉ bắt
giữ phái viên của vua Shah và ra
lệnh bắt tứơng Zahedi , đầu sỏ
nhóm đảo chính và dự tính sẽ cầm
đầu chính phủ mới thân vua Shah .
Có lúc những người ủng hộ Mosaddeg
và các đảng viên đảng Tudeh Cọng
sản tổ chức biểu tình rộng rãi trên
đường phố , đả đảo cả vua Shah
và thân phụ ông ta , hô to” Đế quốc
Mỹ cút về nước". Vua Shah cùng
với vợ bỏ trốn sang Iraq , tại đây
ông ta bí mật gặp Đại sứ Mỹ , và
sau đó bay sang Rome.
Trong
khi đó , các cuộc biểu tình tại
Tehran thay đổi tính chất . Lúc
trước họ chống vua Shah , bây giờ
họ lại quay sang ủng hộ , và nhất
là quân đội xuống đừơng ủng hộ
nhà vua . Sau nhiều đợt biểu
tình , Mosaddeg bị lật đổ và
Zahedi đứng ra làm Thủ tứơng .
Vào ngày 19/8/1953 ,vua Shah nhận
đựơc tin qua 1 bức điện do AP
đánh đi :"Tehran: Mosaddeq đã bị
lật đổ . Quân đội nhà vua kiểm
sóat Tehran. Zahedi làm Thủ tứơg,”
Ngay sau đó , vua Shah quay về
Tehran và chiếm lại ngai vàng .
Kết
cuộc , theo tiêu chuẩn trong vùng
, là khá nhẹ nhàng. Bộ trưởng ngọai
giao trong chính phủ Mosaddeg bị
xử tử và một số khác ủng hộ ông
này bị bỏ tù . Còn chính Mosaddeq
thì bị đưa ra tòa và bị án 3 năm
quản thúc tại nhà . Sau khi đựơc
thả vào tháng 8 năm 1956 , ông ta
sống tại điền trang dứơi sự giám
sát cho đến năm 1967 . Do sự can
thiệp tích cực của CIA Mỹ và MI 6
Anh trong vụ lật đổ chế độ và giúp
vua Shah quay lại cầm quyền , cho
nên vua Shah bị đại đa số thần dân
coi như là bù nhìn của Anh , sau
đó là của Mỹ.
Nếu
đúng vậy , thì bù nhìn vừa
không đắc lực vừa không đáng tin
cậy .Khi cách mạng Iran xảy ra
năm 1979 , cả Anh lẫn Mỹ không hề
ra tay để cứu vua Shah khỏi bị lật
đổ . Chính quyền Mỹ lúc đó đã
không ra tay giúp đỡ mà còn nói
rõ là họ không ý định làm gì cả
. Thậm chí còn cường điệu hơn nữa
khi họ từ chối không cho vua Shah
và gia đình tị nạn tại Mỹ . Vua
Shah trốn khỏi Tehran vào giữa
tháng giêng 1979 và bay qua
qua ngã Ai cập đến Morocco, nơi
đây ông làm khách của nhà vua
vài ngày . Nhưng vua Morocco lại
có những nổi lo khác , nhất là dự
họp Tổ chức Hội nghị Hồigiáo mà
ngài đứng ra tổ chức tại Rabat
vào đầu tháng 4 . Vì thế vua
Hassan yêu cầu vua Shah ra đi trước
ngày 30 tháng 3 . Vua Shah thông
báo cho đại sứ Mỹ ý muốn chấp
thuận lời đề nghị cho tị nạn của
Tổng thống Carter , nhưng hóa ra là
đề nghị này đã bị hủy bỏ , rõ
ràng là đặt ưu tiên việc thiết
lập quan hệ tốt với các nhà lãnh
đạo mới của Iran trên việc cho
phép vua Shah và gia đình tị nạn
. Người Mỹ chỉ động lòng khi vua
Shah bệnh nặng gần chết và cần
đựơc chăm sóc y tế gấp. Vào ngày
22 tháng 10 , vua Shah được thông
báo là có thể chuẩn bị đến Mỹ .
Ngài đến New York vào sáng sớm
hôm sau và đựơc đưa thẳng vào
bệnh viện . Biết rằng sự có mặt
của mình sẽ gây khó cho nước Mỹ
, cho nên mặc dầu còn đang bệnh
nặng , ông ta cũng rời nước Mỹ
và đến Panama, chật vật mới khỏi
bị trục xuất về Iran và từ
Panama , ông ta quay về Ai cập ,
sống ở đó cho đến khi chết vào
năm 1980 .
Các
nhóm khác nhau trong vùng rút
ra được 2 bài học từ những sự
kiện này - một là , người Mỹ sẵn
sàng vừa sử dụng vũ lực và âm
mưu để sắp đặt hay duy trì các
nhà cầm quyền bù nhìn tại các
nước Trung đông ; hai là , người
Mỹ không phải là kẻ bảo trợ đáng
tin cậy khi những bù nhìn bị dân
chúng tấn công mạnh mẽ , lúc đó
họ sẽ sẳn sàng bỏ rơi . Một bài
học gây nên sự óan hận , còn
bài học kia sự khinh bỉ - quả là
1 sự kết hợp nguy hiểm.
Rõ
ràng là có cái gì đó liên quan
nhiều hơn là những mối bất bình
cụ thể này , có thể là rất nhiều
và quan trọng , là một cái gì đó
sâu sắc hơn đã chuyển mỗi sự bất
hoà thành 1 vấn đề và làm cho
vấn đề này trở nên không thể nào
giải quyết được . Cái mà ta phải
đối đầu hiện nay không chỉ là 1
lời oán trách về 1 chính sách nào
đó của Mỹ mà đúng là 1 sự từ chối
và kết tội , chứa đầy giận dữ và
khinh miệt tất cả những gì mà nước
Mỹ được coi là đại diện trên thế
giới hiện nay.
Một
khuôn mặt chủ chốt trong quá
trình hình thành những thái độ
mới đó là Sayyid Auth , người
gốc Ai cập đã trở thành một nhà
tư tưởng chủ đạo của phong trào
chính thống Hồi giáo và là 1
thành viên tích cực của tổ chức
chính thống là Các huynh đệ Hồi
giáo . Sinh ra tại 1 làng vùng
Thượng Ai cập năm 1906 , ông này
học tại Cairo , rồi đi dạy học
vài năm và sau đó làm công chức
tại bộ Giáo dục Ai cập . Nhờ có
khả năng , ông ta được gởi đi dự 1
khoá học đặc biệt tại Mỹ từ
tháng 11/1948 đến tháng 8/1950 .
Tính cực đoan về chủ nghĩa chính
thống và khả năng viết lách của
ông phát triển ngay sau khi từ
Mỹ trở về nước . Sau vụ đảo chánh
quân sự tháng 7/1952 , lúc đầu ông
ta liên hệ chặt chẽ với nhóm
đựơc gọi là Sĩ quan tự do , nhưng
sau đó không theo họ nữa khi những
bài giảng về Hồi giáo của ông va
chạm với cácchính sách của phe
theo đường lối thế tục . Sau
nhiều lần đụng độ với nhà cầm
quyền , vào năm 1955 ông ta bị kết
án 15 năm tù . Nhờ sự can thiệp
của Tổng thống Arif của Iraq ,
ông đựơc thả vào năm 1964 , và vào
cuối năm này ông xuất bản một
trong những tác phẩm chính của
mình , Ma’alim fil-Tariq ( Những chỉ
báo trên đường Đạo ) . Vào ngày 9
tháng 8 , 1965 , ông ta bị bắt
trở lại , và lần này bị kết
tội là phản bội và , cụ thể là có
âm mưu ám sát Tổng thống Nasser .
Sau 1 phiên xử bỏ qua những thủ
tục , ông ta bị kết án tử hình
vào ngày 21tháng 8 năm 1966. Án
lệnh đựơc thi hành 8 ngày sau đó .
Thời
gian lưu trú tại Mỹ của Sayyid Quth
dường như là giai doạn quyết
định trong sự hình thành các tư
tưởng của ông ta về các mối liên
hệ giữa đạo Hồi với thế giới bên
ngoài , và nhất là , chính bên
trong thế giới Hồi giáo . Nhà nước
Israel mới vừa được thành lập
và tồn tại đựơc nhờ đánh thắng
trận đầu trong 1 loạt các cuộc
chiến giữa khối Ả -rập và Israel.
Chính đây là thời điểm thế giới
mới biết đựơc sự huỷ diệt gần
như toàn bộ người Do thái tại các
nước châu Âu do Quốc xã chiếm đóng
, và công luận tại Mỹ , cũng như
tại nhiều nơi trên thế giới , đa số
đều đứng về phía Israel. Mối liên
hệ thời chiến giữa Đệ tam Đế chế
và các nhà lãnh đạo Ả -rập nổi
tiếng như Mufti tại
Jerusalem và Rashid ‘ Ali của Iraq
cũng đựơc đưa lên báo , và như
thế cảm tình của quần chúng đương
nhiên là dồn cho phía đựơc coi
là nạn nhân của Hitler trong nổ
lực đấu tranh thoát khỏi sự tàn
sát của các đồng phạm của Hitler
. Sayyid Quth bị choáng khi thấy
mức độ ủng hộ tại Mỹ đối với
những gì mà ông ta coi như sự
tàn sát của người Dothái đối với
đạo Hồi với sự đồng loã của
người Cơ đốc .
Càng
rõ hơn nữa là cái phản ứng choáng
váng của ông ta đối với lối sống
Mỹ - chỉ toàn là tội lỗi và sa
đoạ , thói ham mê những điều mà
ông ta gọi là sự chung chạ xác
thịt . Sayyid Quth nhận ra đựơc sự
đối nghịch giữa phương Đông tâm linh
và phương tây với chủ nghĩa ưa
vật chất , và coi nước Mỹ là
1 hình thái tận cùng của chủ
nghĩa này . Ông ta viết rằng , ở
Mỹ , mọi thứ , thậm chí cả tôn
giáo cũng được đo bằng những
lời lẽ vật chất . Ông ta nhận thấy
ở Mỹ có nhiều nhà thờ nhưng lại
cảnh báo người đọc là không nên
hiểu rằng cứ nhiều nhà thờ là
tình cảm tôn giáo và tâm linh cũng
nhiều . Theo ông , nhà thờ ở Mỹ
hoạt động như kinh doanh , tranh
nhau khách hàng và quảng cáo ,
và sử dụng các phương pháp như ở
cửa hàng và nhà hát để thu hút
khách hàng và người xem . Mục sư
nhà thờ , cũng giống như người quản
lý 1 doanh nghiệp hoặc 1 nhà hát
, thành công là tất cả , và thành
công đựơc đo bằng kích thứơc - mức
độ to lớn , bằng con số . Để chiêu
dụ khách hàng , nhà thờ còn trơ
trẻn đứng ra quảng cáo và chào
mời cái mà người Mỹ tìm kiếm
nhiều nhất - thoải mái hoặc vui vẻ
( ông ta ghi tiếng Anh – a
good time và fun
trong bản tiếng Ả -rập ) . Kết
qủa đưa đến là các sảnh sinh
hoạt của nhà thờ , nơi mà các giáo
sĩ làm ban phép lành , trở thành
nơi nhảy nhót , nơi đàn ông đàn
bà gặp nhau , buông tuồng , sàm sỡ
. Các mục sư thậm chí còn đi đến
mức để đèn mờ nhằm làm cho cuộc
khiêu vũ cuồng nhiệt hơn. Ông ta
viết một cách kinh tởm "
Tiếng nhạc từ máy hát làm điệu
nhảy khích động hơn , sàn nhảy
trở thành nơi quay cuồng giữa
giữa gót chân , và đùi , tay quấn
lấy hông , môi vú kề nhau , bầu
không khí đầy vẻ dâm dật".
Ông ta cũng trích dẫn bản báo
cáo Kinsey về hành vi tình dục để
làm căn cứ cho phần mô tả và kết
tội tính sa đoạ của xã hội người
Mỹ . Qua nhận thức này về phương
Tây và lối sống của nó có thể giải
thích tạo sao các tên khủng bố
sùng đạo lại coi các vũ sảnh ,
hộp đêm và những nơi khác có
thanh niên nam nữ tụ tập là các
mục tiêu hợp logic . Những lời
tố cáo chống lối sống Mỹ của Sayyid
Quth quá dữ dội cho nên ông ta
phải rời bỏ vị trí công tác tại
Bộ giáo dục vào năm 1952 . Hiển
nhiên là sua đó ông ta gia nhập
tổ chức Huynh đệ Hồi giáo .
Công
kích chính trong các bài viết
và bài giảng của Sayyid Quth
nhắm vào kẻ thù nội bộ - vào cái
mà ông ta gọi là kỷ nguyên mới
của sự ngu dốt , theo tiếng Ả
-rập là jahiliyya , là
1 từ cổ điển Hồi giáo để chỉ thời
kỳ đầy rẫy bọn ngọai đạo tại
đất Ả -rập trước khi có đấng Tiên
tri và đạo Hồi xuất hiện . Theo
Sayyid Quth , đợt jahiliyya
mới này đã nuốt chửng các dân
tộc Hồi giáo và những tên bạo chúa
pharaon mới – ám chỉ các chế độ
cầm quyền hiện hữu – đang cai
trị họ . Nhưng mối đe dọa của kẻ
thù bên ngoài càng ngày càng lớn
mạnh . Có ý cho rằng thái độ
chống Mỹ của Sayyid Quth chỉ là
kết quả của cái thực tế mà ông
ta gặp khi sang Mỹ , nếu ông ta
đựơc cử sang bất cứ nước nào ở
châu Âu thì ông ta cũng có thái độ
tương tự . Nhưng vào thời điểm đó ,
người ta chỉ nhắc đến nước Mỹ ,
và vai trò lãnh đạo của nước này
, từ xấu đến tốt , đối với các
nước không- Hồi giáo đựơc thừa
nhận và bàn cãi ngày càng nhiều
. Chính bộ mặt tội lỗi và cả sự suy
đồi của nước Mỹ và sự đe dọa
nhiên hậu đối với đạo Hồi và tín
đồ đạo Hồi đã trở thành chủ đề về
đức tin trong các nhóm Hồi
giáo chính thống .
Hiện nay , tại các nước Hồi giáo ,
trên các phương tiện truyền thông
đại chúng , truyền đơn , bài giảng
và trong các bài phát biểu trước
công chúng , ra rã 1 bài tụng
dường như dập khuôn về các tội
lỗi của Mỹ . Lấy một ví dụ là
trong một bài phát biểu của 1
giáo sự người Ai cập tại buổi
họp chung giĩưa EU và Tổ chức
Hội nghị Hồi giáo tổ chức tại
Istanbul vào tháng 3 năm 2002.
Danh sách tội ác đựơc tính ngược
đến thời mới định cư sơ khai tại
Bắc Mỹ bao gồm việc tước đọat tài
sản và tiêu diệt dân bản địa
và sau đó là ngược đãi những người
còn sống sót . Tiếp đến là việc
bắt làm nô lệ , bóc lột người da
đen ( lời tố cáo kỳ quặc từ
nguồn tin đặc biệt này ) và
người nhập cư tại Mỹ . Lời tố cáo
cũng bao gồm những tội ác chiến
tranh chống Nhật bản tại
Hiroshima và Nagasaki cũng như
tại Triều tiên , Việt nam ,
Somalia và các nơi khác . Đáng
chú ý trong những tội ác của
hành động xâm lăng đế quốc là
việc làm của Mỹ tại Liban , Khartoum
, Lybia , Iraq và dĩ nhiên có
việc Mỹ giúp Israel chống lại
ngườiPalestine. Nói rộng ra ,
danh sách buộc tội còn nêu ra
sự ủng hộ của Mỹ tại Trung đông
và sự ủng hộ dành cho một số
nhà cầm quyền chuyên chế khác ,
như vua Shah tại Iran và Haile
Selassie tại Ethiopia , cũng như 1
danh sách ( được điều chỉnh tùy
theo tình huống) các nhà độc Ả
-rập , chống lại nhân dân của họ
.
Tuy
nhiên lời cáo buộc mạnh mẽ
nhất trong tất cả là sự suy
đồi và trụy lạc của lối sống Mỹ ,
và mối đe dọa của lối sống này
đối với đạo Hồi . Mối đe dọa này
, thọat đầu là do Sayyid Quth
nêu ra , ngày nay đã trở
thành 1 thành phần thường trực
trong vốn từ vựng và ý thức hệ
của nhóm Hồi giáo chính thống ,
và rõ nhất là trong ngôn ngữ của
Cách Mạng Iran . Chính đây là ý
nghĩa của từ Satan đầu sỏ do cố giáo
sĩ Ayatollah Khomeni gán cho nước
Mỹ . Theo kinh Qur’an mô tả thì
Satan cũng chẳng phải là bọn
đế quốc hoặc kẻ bóc lột . Hắn
chính là tên dụ dỗ ,"là tên ma
vương quỉ quyệt nhỏ to vào
lòng người"( Qur’an CXIV,4,5) .
Chương V
SATAN
VÀ LIÊN XÔ
Vai
trò mới của nước Mỹ - theo
nhận thức của vùng Trung đông về
vai trò này - được minh hoạ đầy
sinh động bằng sự cố xảy ra tại
Pakistan vào năm 1979. Vào ngày
20 tháng 11 , một nhóm hàng ngàn
người Hồi giáo cấp tiến chiếm giữ
Nhà thờ lớn tại Mecca chống lại lực
lượng an ninh một thời gian . Mục
đích của họ là để "làm thanh
sạch đạo Hồi"và để giải phóng
đất thánh Ả -rập khỏi"bè lủ
những tên vô đạo hoàng gia " và
các lãnh đạo tôn giáo thối nát đang
ủng hộ chúng . Qua loa phóng
thanh , các nhà lãnh đạo sự cố này
tố cáo phương tây là kẻ phá
hoại các giá trị cơ bản của Hồi
giáo và chính quyền Saudi là
những kẻ đồng phạm . Kẻ cầm đầu
kêu gọi nên quay về những truyền
thống xa xưa ” bình đẳng và
công bằng” của Hồi giáo . Sau một
hồi giao tranh dữ dội , quân khởi
loạn bị đè bẹp . Người cầm đầu
bị xử tử vào ngày 9 tháng giêng
,1980 cùng với 62 tòng đảng ,
trong đó có người Ai cập , Kuwait
, Yemen và công dân của các nước
Ả -rập khác .
Trong
khi đó , tại Islamabad , Pakistan
nổ ra 1 cuộc biểu tình ủng hộ quân
khởi loạn . 1 tin đồn lan truyền
- đựơc Ayatollah Khomeni , lúc
này đang cố đóng vai là nhà
cách mạng tại Iran , đồng tình – là
quân Mỹ có tham gia vào những vụ
đụng độ tại Mecca. . Đám biểu tình
Hồi giáo tấn công sứ quán Mỹ , làm
chết 2 người Mỹ và 2 viên chức
Pakistan . Tại sao Khomeni lại đưa
ra 1 báo cáo không những là giả
mạo và không thể nào xảy ra đựơc
?.
Những
biến cố này xảy ra trong bối
cảnh Cách mạng Hồi giáo năm
1979 . Vào ngày 4 tháng 11 , sứ quán
Mỹ tại Tehran bị chiếm , và
62 người Mỹ bị bắt làm con tin .
10 người trong bọn họ , là phụ nữ
và người Mỹ da đen , đựơc thả
ra ngay ; các con tin còn lại
bị giữ 444 ngày , cho đến khi đựơc
thả ra vào ngày 20 tháng giêng
1981. Cho đến lúc này mới rõ
động cơ của việc bắt giữ ,
thông qua lời khia và phát hiện
sau đó của người bắt con tin
và một số nguồn tin khác . Khi
ấy người ta mới biết là vụ
khủng hoảng con tin xảy ra
không phải vì mối quan hệ giữa Mỹ
và Iran xấu đi nhưng chính là
do đựơc cải thiện . Vào mùa thu
năm 1979 , Mehdi Bazargan , là thủ
tứơng Iran chủ trương tương đối ôn
hoà , nhờ sự giúp đỡ của chính
phủ Algeria , đã thu xếp để gặp
cố vấn an ninh quốc gia Mỹ là
Zbigniew Brezinski . 2 vị này đã
gặp nhau vào ngày 1 tháng 11
và theo báo cáo là có chụp ảnh
bắt tay nhau . Một khả năng có
thể trở thành hiện thực - dưới mắt
của những người cấp tiến, một mối
nguy hiểm thực sự - có thể có sự
thoả hiệp nào đó giữa 2 quốc gia
. Đám phản đối chiếm lấy sứ
quán và bắt các nhà ngoại giao Mỹ
làm con tin để bóp dí hy
vọng đối thoại xa hơn . Về việc
này , họ đã thành công hoàn
toàn , ít nhất cũng vào lúc ấy .
Theo Khomeni , thì nước Mỹ
là kẻ thù chính mà ông ta phải
phát động thánh chiến để
chống lại . Thế thì , cũng như trong
quá khứ , cái thế giới
của những kẻ không có
đức tin này được coi như
là 1 thế lực đáng gờm
đang cạnh tranh và ngăn không
cho đạo Hồi chiến thắng
và truyền bá theo
sứ mạng đựơc thánh thần
giao cho . Trong
tác phẩm trước đó của
Khomeni và nhất là
quyển"Chính quyền Hồi giáo"viết năm
1970 , nước Mỹ đôi khi đựơc nhắc
, và sua đó được nhắc tới khi
nói về chủ nghĩa đế quốc - ban
đầu chỉ đóng vai trò hỗ trợ ,
dần dần với tính cách là người thay
thế cho Đế quốc Anh quen
thuộc nhiều hơn . Vào thời điểm
cách mạng xảy ra , và khi sự đối
đầu trực tiếp ngày càng tăng , thì
nước Mỹ theo ông ta, đã trở
thành kẻ thù chính , và là mục
tiêu trung tâm của sự giận dự
và sự khinh miệt của tín đồ
Hồi giáo.
Mối
thù đích đặc biệt của Khomeini
đối với nước Mỹ dường như bắt đầu
từ tháng 10 năm 1964 , trong bài
phát biểu trước tư dinh tại Qum, ,
ông ta kịch liệt tố cáo điều luật
trình Quốc hội Iran về đặc
quyền ngoại giao dành cho phái bộ
quân sự Mỹ , cùng với gia đình ,
nhân viên , cố vấn , người giúp
việc của họ được miễn trừ theo
luật pháp Iran . Rõ ràng là ông
ta không biết rằng quyền miễn trừ
tương tự cũng đã được đề nghị và
đương nhiên được chấp thuận cho
các lực lượng Mỹ đóng tai Anh trong
thế chiến thứ 2 . Nhưng vấn đề về
cái gọi là nhượng bộ , đặc
quyền miễn trừ ngoại giao trong
quá khứ dành cho các thương gia
người Âu và du khách khác đến
xứ Hồi giáo là 1 vấn đề tế nhị ,
nhưng Khomeini lại vận dụng một
cách khéo léo :"Họ đã đẩy người
Iran xuống vị trí thấp hơn con
chó của người Mỹ . Nếu có ai chẹn
phải con chó của người Mỹ ,
người đó sẽ bị trừng trị . Ngay cả
vua Shah , nếu ngài chẹn chết 1
con chó của người Mỹ , ngài cũng
sẽ bị trừng trị . Nhưng nếu 1 đứa
nấu bếp người Mỹ đụng phải vua
Shah , là nguyên thủ quốc gia ,
thì không ai có quyền xâm phạm
tên nấu bếp đó"Do đã đụng
chạm với nhà cầm quyền , sau bài
phát biểu này , Khomeini bị trục
xuất khỏi Iran vào ngày 4 tháng
11 . Ông ta trở lại chủ đề này
nhiều lần trong các bài
phát biểu và bài viết sau đó ,
mạt sát người Mỹ là miệng thì cam
kết tôn trọng nhân quyền , nhưng
lại không hề đếm xỉa đến những
quyền này đối với Iran và một số
nước khác , trong số đó có các
nước thuộc châu Mỹ Latinh ” tại
sân nhà của họ . Những lời kết
tội khác gồm có tước đoạt sự
phồn vinh của Iran , và ủng hộ
chế độ quân chủ Iran. .
Trong
những bài phát biểu sau khi trở
lại Iran , danh mục những nổi bất
bình và danh sách các kẻ thù
ngày càng dài thêm , nhưng bao giờ
nước Mỹ cũng đứng đầu bảng .Và
không chỉ duy nhất tại Iran .
Trong bài phát biểu vào tháng
9 năm 1979 tại Qum , ông ta than
phiền rằng toàn bộ thế giới Hồi
giáo đều nằm trong nanh vuốt của
người Mỹ và kêu gọi toàn thể
người Hồi giáo trên thế giới đứng
lên chống lại kẻ thù . Chính vào
thời điểm này , ông ta bắt đầu
gọi nước Mỹ là tên "Satan đầu sỏ". Cũng vào thời điểm này , ông
ta tố cáo Anwar Sadat của Aicập
và Saddam Hussein của Iraq là
đầy tớ và tay sai của Mỹ . Sadat
phục vụ người Mỹ khi ký kết hoà
bình với Israel ; Saddam Hussein
phục vụ Mỹ vì đã gây chiến với Iran
. Sự đối đầu với Mỹ trong vụ
khủng hoảng con tin , trong cuộc
xâm lăng của Iraq , và trong
nhiều trận chiến về kinh tế và
ngoại giao đã chứng minh nhận định
của Khomeini về vai trò chính của
Mỹ trong cuộc chiến giữa Hồi giáo
và phương Tây . Từ đó trở đi , nước
Mỹ là"tên Satan đầu sỏ", Israel
là tay sai của Mỹ , là"tên
Satan con", nhật lệnh là" nước
Mỹ phải chết". Đó là khẩu hiệu
đựơc hô to và giương lên trong
các cuộc tuần hành chống Mỹ năm
1979. Về sau , khẩu hiệu này đựơc
tô vẻ thêm trịnh trọng , đầy nghi
thức tôn giáo cho nên không còn ý
nghĩa thực sự của nó nữa.
Các
nhà quan sát người Mỹ , bừng tỉnh
vì bị Cách mạng Iran lớn tiếng xỉ
vả là tên Satan đầu sỏ , cố gắng
tìm hiểu vì sao tình cảm chống Mỹ
lại trổi dậy mạnh mẽ trong thế
giới Hồi giáo vào thời điểm đó .
Một cách giải thích có lúc đựơc
nhiều người chấp nhận , nhất là
trong giới đối ngoại Mỹ , là hình
ảnh nước Mỹ bị hoen ố trong
thời chiến và do tiếp tục liên
kết với các cừơng quốc thuộc địa
châu Âu . Để biện hộ cho đất
nước mình , một số nhà bình luận
Mỹ cho rằng , khác với các đế
quốc Tây Âu , bản thân nước Mỹ
cũng là nạn nhân của chủ nghĩa thuộc
địa , nước Mỹ là quốc gia đầu tiên
giành đựơc độc lập thoát khỏi sự
cai trị của nước Anh . Nhưng
các tác giả Ả -rập đã nhanh
chóng chỉ ra rằng đó chỉ là viễn
vông khi hy vọng rằng dân bị
trị của các đế quốc Anh và Pháp tại
vùng Trung đông sẽ coi cách mạng
Mỹ là tấm gương trong cuộc chiến
chống chủ nghĩa đế quốc của họ .
Cuộc cách mạng Mỹ như họ thường
lưu ý , không phải do người Mỹ bản
xứ , mà lại do dân lập nghiệp
người Anh đứng lên chiến đấu ,
như thế hoàn toàn không phải là
chiến thắng chống lại chủ nghia
thực dân , mà đó là cuộc chiến
chung quyết của chủ nghĩa thực
dân , là người Anh tại Bắc Mỹ đã
thành công trong việc thực dân
hoá vùng đất này một cách trọn
vẹn đến mức họ không cần đến sự
hỗ trợ của mẫu quốc để chống
lại dân bản địa .
Không
mấy ngạc nhiên khi thấy dân bị
trị của các nước thực dân cũ
tại vùng Trung đông coi nước Mỹ
cũng mang tính đế quốc chủ nghĩa
như các nước Tây Âu . Nhưng sự
uất hận của nhân dân vùng Trung
đông đối với các cừơng quốc đế
quốc không phải lúc nào cũng nhất
quán . Liên xô , nước đã duy trì
và nới rộng các phần lãnh thổ do
Sa hoàng chinh phục , cai trị hà
khắc hàng chục triệu người Hồi
giáo tại các nước cọng hoà Trung Á
và vùng Caucasus. Nhưng Liên xô
lại không hề bị những cọng đồng
Arập thù hận và căm ghét đến
thế.
Mối
quan tâm của Nga tại vùng Trung
đông có từ lâu . Qua nhiều thế kỷ
các Sa hoàng đã mở rộng xuống
phía nam và phía đông , và đã
sáp nhập nhiều vùng đất Hồi giáo
rộng lớn vào đế quốc Nga , chỉ
trừ nước Thổ và Ba tư và các nước
Hồi giáo đã độc lập tại tại Trung Á.
Việc thất trận của phe trục năm
1945 đã làm nẩy sinh mối đe doạ
mới từ Liên xô. Liên xô lúc này đang
nắm chắc vùng Balkan và có thể đe
doạ Thổ nhĩ kỳ cà 2 mặt biên giới
đông và tây. Họ đã thọc sâu vào
Iran khi chiếm vùng Azerbaijan .
Mối đe doạ đối với Iran đã có từ
lâu . Trong các cuộc chiến tranh
Nga- Iran năm 1804-1813 và
1826-1828 , người Nga đã chiếm
phía bắc Azerbaijan , biến vùng
này thành 1 tỉnh của đế quốc Sa
hoàng và sau đó trở thành một
nước cọng hoà trong Liên bang Xô
viết. Trong thế chiến thứ 2 , cùng
với người Anh , Liên xô chiếm
lấy Iran để bảo đảm phòng tuyến
liên lạc cho cả 2 nước . Khi chiến
tranh chấm dứt , người Anh rút
quân ; Liên xô vẫn ở lại , rõ
ràng là có ý định sáp nhập phần
còn lại của Azerbaijan vào Liên
xô.
Lần
đó họ bị chặn lại . Nhờ sự giúp đỡ
chủ yếu từ phía Mỹ , người Thổ
gạt phắt yêu cầu của Liên xô đòi
xây dựng căn cứ tại vùng eo biển
Dardanelles , còn Iran thì lật đổ
chính phủ cọng sản bù nhìn mà
quân Xô viết chiếm đóng dựng lên
tại vùng Azerbaijan Ba tư và tái
xác lập chủ quyền quốc gia của
chính phủ Iran trên toàn bộ lãnh
thổ của mình .
Trong
một thời gian , ý đồ thực hiện giấc
mộng nhiều năm của Sa hoàng của
Liên xô bị dội ngược , và cả
Thổ nhĩ kỳ lẫn Iran đều gia nhập
liên minh Châu Âu . Nhưng hiệp
ứơc khí giới Nga - Aicập năm
1955 đã đưa Nga trở lại chơi
ván bài Trung đông , lần này
đóng vai trò chủ đạo . Người Thổ
và người Iran đã có nhiều kinh
nghiệm với chủ nghĩa đế quốc của
Nga cho nên rất dè chừng . Còn
các nước Ả -rập chỉ quen với chủ
nghĩa đế quốc kiểu phương Tây ,
cho nên hồ hỡi chờ đón Liên xô .
Bằng cách vựơt qua rào cản phía
bắc và tiếp xúc trực tiếp với
các nước Ả -rập mới độc lập ,
trong một thời gian ngắn , người
Nga đã tạo dựng đựơc một vị trí
rất vũng vàng .
Lúc
đầu họ đi những bứơc cũng giống
như những người Tây Âu tiền
nhiệm - đặt căn cứ quân sự , cung
cấp vũ khí , "hứơng dẫn" quân sự
, rồi xâm nhập kinh tế và văn hoá
. Nhưng với Liên xô , các mối quan
hệ kiểu này chỉ mới là bứơc đầu ,
ý đồ của họ rõ ràng là càng tiến xa
càng tốt. Không mấy nghi ngờ là ,
nếu không có sự chống đối của Mỹ ,
chiến tranh lạnh , và sau đó là
sự sụp đổ của Liên xô , thì thế
giơi Ả -rập trước sau gì rồi
cũng rơi vào số phận của Balan và
Hungari , chắc chắn hơn nữa sẽ là
Uzbekistan. Nhưng không phải chỉ
có thế . Trong khi cố đặt ách
bảo hộ lên các đồng minh Trung đông
, Liên xô lại tỏ ra không xứng với
vai trò bảo hộ chút nào. Trong
chiến tranh Israel-Ả -rập năm
1967 và sau đó năm 1973, họ đã
không muốn hoặc không thể cứu
người đựơc bảo trợ khỏi bị thất
bại và nhục nhả . Tất cả cái
mà họ làm được chỉ là cùng với
Mỹ kêu gọi Israel ngừng tiến công.
Đến
đầu thập niên 1970 , thì sự hiện
diện của Liên xô không những
không hữu hiệu mà lại còn gây
lắm phiền toái. Giống như các đế
quốc châu Âu đi trước , Liên xô
xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên
đất Aicập mà không người Aicập
nào đựơc phép bén mảng đến và
tiến sang giai đọan cổ điển
mới là ký kết các hiệp ứơc
bất bình đẳng .
Có
một số lãnh đạo Trung đông thấm
thía bài học và với ít nhiều
miễn cưởng , quay sang phương Tây .
Rõ nhất là Tổng thống Anwar Sadat
của Ai cập , vốn từng thừa hưởng
mối liên hệ với Liên xô từ người
tiền nhiệm là Tổng thống Nasser.
Vào tháng 5/1971, ông ta buộc phải
ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác
rất không bình đẳng với Liên xô ;
đến tháng 7/1972 , ông ta ra lệnh
buộc tất cả các cố vấn quân sự Liên
xô phải rời Ai cập và bắt đầu tiếp
cận với Mỹ và tìm kiếm hoà bình
với Israel. Tuy nhiên , dừơng như
Tổng thống Sadat hoàn toàn đơn
độc khi đưa ra đường lối và chính
sách như thế y , và nhìn chung
thì những sự cố trên không làm
sứt mẻ thiện chí của Liên xô cũng
như tăng thêm thiện chí đối với
Mỹ . Liên xô không hề sây sứt
hoặc thậm chí không hề bị trách
cứ gì vì hành động đàn áp Hồi
giáo tại các cộng hoà Trung Á và
vùng Caucasus , nơi có đến 50
triệu người theo đạo Hồi. Về mặt
này , người Tàu cũng không bị tố
cáo vì đã từng đàn áp người Hồi
giáo tại Tân cương . Người Mỹ cũng
không hề nhận đựơc bất cứ sự tri
ân nào khi ra sức cứu người
Hồi giáo tại Bosnia , Kosovo và tại
Albania. Rõ ràng là ỏ đây có những
chuẩn mực khác .
Có
lẽ thí dụ minh hoạ sâu sắc nhất
cho sự thiên lệch này là vụ Liên
xô xâm lăng Afghanistan vào cúôi
tháng chạp năm 1979 và dựng
lên 1 chính phủ bù nhìn tại đây.
Thật là khó mà tìm được 1 ví dụ
nào rõ ràng , hiển nhiên hơn về
sự xâm lăng , chinh phục và thống
trị của đế quốc bằng trừơng hợp
này. Tuy thế , hầu như không hề
có phản ứng từ khối Ả -rập , và
của thế giới Hồi giáo nói chung
. Vào ngày 14 tháng giêng 1980 ,
sau nhiều lần trì hoãn , cuối cùng
Đại hội đồng Liên hiệp quốc cũng
thông qua 1 nghị quyết về biến cố
này , không phải để tố cáo Liên
xô xâm lăng nhưng” rất lấy làm
tiếc về sự can thiệp bằng vũ lực
tại Afghanistan". Ở đây không
dùng từ"xâm lăng", cụm từ ” kẻ
can thiệp"cũng không hề đựơc nhắc
tới . Kết qủa bỏ phiếu biểu
quyết là 104/ 18. Trong số những
nước khối Ả -rập , Syria và
Algeria bỏ phiếu trắng , nam Yemen
bỏ phiếu chống , còn Lybia thì
vắng mặt . PLO là quan sát viên ,
không có quyền bỏ phiếu nhưng lại
đọc 1 diễn văn biện hộ mạnh mẽ
cho hành động của Liên xô. Tổ
chức Hội nghị Hồi giáo ( OIC)
cũng không xử sự khá hơn. Ngày
27 tháng giêng, sau nhiều lần vận
động và thương thuyết , OIC cũng
tổ chức đựơc 1 cuộc họp tại
Islamabad để thảo luận về vấn đề
Liên xô-Afghanistan . 2 nước thành
viên , Nam Yemen và Syria tẩy
chay cuộc họp. Đại biểu của Libya
công kích kịch liệt nước Mỹ ,
còn PLO , là thành viên chính thức
của OIC , lại từ chối bỏ phiếu về
nghị quyết chống Liên xô, thay
vào đó , trình ra 1 văn bản bảo
lưu .
Cũng
có một vài đáp ứng từ thế giới Hồi
giáo đối với sự xâm lăng của
Liên xô- Saudi Arabia cho một ít
tiền , Ai cập cho một ít khí giới ,
và nhiều quân tình nguyện Ả
-rập. Nhưng chính Mỹ là nước
đứng ra tổ chức mặt trận phản công
của Hồi giáo chống lại chủ nghĩa
đế quốc Liên xô tại Afghanistan có
phần nào thành công . OIC giúp
người Afghan không nhiều , muốn
tập trung sức lực vào những
vấn đề khác – hướng về một số
cộng đồng Hồi giáo nhỏ tại các
khu vực chưa thoát khỏi ách thực
dân , và dĩ nhiên là bao gồm
cuộc xung đột Israel-Palestin.
Israel
là 1 trong số nhiều điểm
( gồm
Nigeria, Sudan, Bosnia , Kosovo,
Chechnya , tân cương , Kashmir ,
Timor , Mindanao , và v.v…) mà thế
giới Hồi giáo và không- Hồi giáo
gặp nhau . Mỗi nơi trong những
điểm này là 1 chủ đề trung tâm
cho những phe tham gia, và nhưng
lại là lý do né tránh khó chịu
cho nhóm khác . Ngược lại ,
phương Tây thường cố hết sức
giải quyết những nổi bất bình
của người này với cái giá là gây
bất bình cho người khác . Cuộc
xung đột Israel-Palestine chắc chắn
là đã gây nhiều chú ý hơn bất cứ
cuộc xung đột nào khác , vì nhiều
lý do . Một là , vì Israel là
1 quốc gia dân chủ và là 1 xã
hội cởi mở , cho nên sẽ dễ dàng
hơn khi báo cáo – và báo cáo sai
- về những gì xảy ra ở đó. Hai
là , vì có liên quan đến người Do
thái , cho nên điều này bảo đảm
sẽ đựơc nhiều người nghe, trong số
đó có người vì lý do này hay lý
do khác ủng hộ hay là chống đối họ
. Một ví dụ tiêu biểu cho sự
khác biệt này là chiến tranh
Iran-Iraq kéo dài 8 năm từ 1980 đến
1988. Cuộc chiến này đã gây ra
nhiều thương vong và huỷ hoại
nhiều hơn tất cả các trận chiến
Israel- Ả -rập cọng lại nhưng lại
không được mấy ai chú ý. Bởi vì
1 lý do là , cả Iraq lẫn Iran đều
không có dân chủ , và có nhiều khó
khăn và nguy hiểm hơn trong việc
từơng trình . Mặt khác , do
không liên quan đến người Do thái ,
với tư cách là nạn nhân hoặc kẻ thủ
ác , cho nên không có gì thú vị khi
tường thuật cả .
Lý
do thứ 3 , chủ yếu quan trọng
nhất khi đặt vấn đề Palestine lên
hàng đầu là vì , cứ cho là thế ,
nổi bất bình được cho phép -
nổi bất bình duy nhất được phát
biểu tự do và an toàn tại
những nước Hồi giáo nói trên , nơi
mà báo chí chỉ do nhà nước làm chủ
hoặc bị theo dõi gắt gao . Thật
vậy , Israel là chỗ để trút mọi
lời óan trách về sự thiếu thốn
kinh tế và áp bức chính trị mà
đại đa số người Hồi giáo hứng chịu
, và được sử dụng như 1 phương
tiện để làm chệch hứơng nổi căm
giận đó . Phương pháp này rất có
ích khi xảy ra trùng hợp với hòan
cảnh nội tại của Israel , khi có
bất cứ sự sai sót nào của chính phủ
, quân đội , của người lập nghiệp
hoặc bất cứ người nào bị phát
hiện hoặc bất cứ sự dối trá nào
tại Israel vừa bị bị bóc trần
, từ phía người Do thái lẫn
người Ả -rập , trên báo chí và
nghị viện Israel. Đa số những nước
thù nghịch với Israel đều không
bị những khó khăn này trong quan
hệ ngọai giao của họ .
Khi
các đế quốc Tây Âu suy tàn , thì
tính chống Mỹ tại vùng Trung đông
lại đựơc gán cho những nguyên nhân
khác , đặc thù hơn : sự bóc lột
kinh tế thường đựơc mô tả như là
sự cứơp bóc các tài nguyên của
người Hồi giáo ; sự giúp đỡ cho
các nhà độc tài thối nát địa
phương phục vụ cho các mục tiêu của
nước Mỹ khi áp bức và cứơp đọat
tài sản của chính nhân dân mình ,
và còn nhiều , nhiều hơn nữa là 1
nguyên nhân khác : người Mỹ ủng hộ
cho Israel , lúc đầu trong vụ
xung đột của người Palestine gốc
Ả -rập , sau đó là xung đột với
các nước Ả -rập láng giềng và
cuối cùng là thế giới Hồi giáo
.Trên báo chí bằng tiếng Ả -rập và
Ba tư chắc chắn có người ủng hộ
giả thiết này , nhưng sẽ không
phù hợp mấy nếu cho rằng không có
những trở ngại này thì các chính
sách của Mỹ tại Trung đông sẽ thuận
lợi hơn . Vấn đề Palestine chắc chắn
đang gây nổi căm giận ngày càng
lớn , đôi khi đựơc hâm nóng và
trở nên nghiêm trọng hơn vì các
chính sách và hành động của chính
phủ hoặc các đảng phái Israel .
Nhưng thực sự đó có phải là lý
do chính để gây nên tình cảm
chống Mỹ , như một số người lập
luận ?.
Lịch
sử cứ diễn lại một số oái ăm .
Vào những năm 1930 , các chính sách
của Đức quốc xã là nguyên nhân
khiến người Do thái di cư sang
Palestine , lúc đó dứơi quyền ủy
trị của Anh , và kết cuộc là
làm tăng số dân Do thái ở đây
. Bọn Quốc xã không những chỉ cho
phép di cư , mà họ còn tạo thêm
điều kiện thuận lợi cho đến khi
chiến tranh nổ ra , còn người Anh ,
với hy vọng heo hắt là tranh thủ
thiện chí của khối Ả -rập , đã đưa
ra các biện pháp hạn chế di cư .
Tuy nhiên , giới lãnh đạo
Palestine thời ấy , cũng như các
nhà lãnh đạo khối Ả -rập khác , lại
ủng hộ người Đúc , vốn chủ
trương tống người Do thái sang
Palestine, chứ không phải là nước
Anh , cố gắng không cho họ đến
vùng này.
Cũng
có thể thấy tình hình
tréo cẳng ngỗng tương tự trong
những biến cố dẫn đến sự
thành lập nhà nước
Israel vào năm 1948 và sau đó . Liên
xô lúc ấy đã đóng 1 vai
trò quan trọng khi vận động
Đại hội đồng Liên hiệp quốc
biểu quyết thành lập 1
nhà nước Israel
tại Palestine và lập tức
công nhận Israel về mặt
pháp lý ( de jure) . Nước Mỹ
thì lại dè dặt hơn và
chỉ công nhận trên thực tế ( de
facto ) .Quan trọng hơn nữa ,
là chính phủ Mỹ duy trì lệnh cấm
vận một phần vũ khí cho Israel ,
trong khi đó , đựơc sự cho phép
của Moscow, Tiệp khắc lập tức
chuyển ngay một số lượng vũ khí
để giúp cho nhà nước Israel non
trẻ sống sót . Lý do vì sao Liên
xô có chính sách như thế vào
thời điểm đó không phải vì có
thiện ý đối với người Do thái
hoặc ác ý đối với người Ả
-rập. Đó là do 1sự tin tưởng sai
lầm- nhưng lúc ấy lại đựơc nhiều
người chia xẻ - đó là nước Anh
vẫn còn là 1 cường quốc phương tây
, và như thế là kẻ cạnh
tranh chính của Liên xô .Theo cách
nhìn này , thì ai phá nhiễu người
Anh - kiểu mà người Do thái đang
làm trong những năm cuối cùng
khi Anh thực hiện quyền ủy trị
Palestine- đều đáng được Liên xô
giúp đỡ . Sau này , Stalin nhận
thấy mình đã sai cho nên đã chú
tâm vào nước Mỹ thay vì nước Anh.
Trong
thập kỷ sau , khi nhà nước
Israel đựơc thành lập , việc đối
xử của Mỹ với nhà nước Do thái vẫn
còn hạn chế và dè chừng. Sau
chiến tranh kênh đào Suez năm
1956 , người Mỹ đã can thiệp mạnh
mẻ và quyết liệt để buộc các lực
lượng Anh . Pháp , và Israel rút
lui. Nhà lãnh đạo Liên xô lúc ấy
là Khrushchev , khi cuộc chiến nổ
ra vẫn còn im hơi thận trọng , cho
rằng 1 tuyên cáo thân Arập cũng
không dẫn đến đụng độ với Mỹ ,
và chỉ từ sau lần đó - mới
mạnh dạn đứng về phía Ả -rập .
Cho đến tận chiến tranh năm 1967 ,
Israel dựa vào kho vũ khí châu Âu
cung cấp , chủ yếu do Pháp ,
chứ không phải của Mỹ.
Tuy
thế , chủ nghĩa đế quốc Nga , giờ
đây dưới hình thức Liên xô , quay
lại đóng 1 vai trò tích cực
hơn đối với tình hình Trung đông
đã mang đến 1 đáp ứng cuồng
nhiệt trong thế giới Ả -rập . Sau
vài lần thăm viếng ngọai giao
cùng với các họat động khác , một
mối quan hệ mới đựơc chính thức
tuyên bố vào cuối tháng 9/1955 ,
là 1 thỏa hiệp về vũ khí được
ký kết giữa Liên xô và Ai cập ,
là nước càng ngày càng lộ rõ là 1
chư hầu của Liên xô . Thậm chí
hiệp định vũ khí đã tạo ra một
sự chào đón hồ hỡi còn ấn tượng
hơn là chính bản thân nó trong
thế giới Ả -rập , vượt qua mọi sự
khác biệt và bất bình tại địa
phương . Hạ nghị viện các nước
Syria . Liban , và Jordan họp
ngay và đưa ra nghị quyết chúc
mừng Thủ tứơng Nasser thời đó , ngay
cà Nuri Said , là nhà lãnh đạo
thân phương Tây của Iraq , dù đang
tranh giành với Nasser chiếc
ghế lãnh đạo phong trào toàn - Ả
-rập , cũng buộc phải chúc mừng
người đồng sự Aicập . Hầu như
toàn bộ giới báo chí tiếng Ả -rập
đều nhất loạt tán thành .
Tại
sao lại có phản ứng này ? Chắc
chắn là người Ả -rập chẳng yêu
thương gì nước Nga, cũng như tín
đồ đạo Hồi trong và ngoài thế giới
Ả -rập lại muốn đem chủ nghĩa
Cọng sản hoặc sức mạnh của Liên
xô vào nước mình . Đó cũng
chẳng phải là phần thưởng cho
chính sách đối với Israel của
Moscow , là chính sách khá thân
thiện . Cái làm cho người Ả -rập
hồ hỡi là họ coi thỏa hiệp về
vũ khí - chắc chắn là đúng như
thế - là 1 cái tát vào mặt
phương tây . Cái tát này , và
hình ảnh phương Tây bị rối tung
thấy rõ và nhất là phản ứng của
Mỹ , đã củng cố thêm cái tâm
trạng thù hận và khinh bỉ đối
với phương Tây và cổ vũ cho
người có tâm trạng đó.
Do
ảnh hưởng của Liên xô mở rộng
tại Trung đông và thái độ hồ hởi
chào đón của vùng này khiến cho
người Mỹ có thiện cảm hơn với
Israel , giờ đây đựơc coi như là
1 đồng minh tin cậy và là 1
đồng minh có ích lâu dài tại 1
vùng đất đầy thù nghịch . Ngày
nay , ít ai còn nhớ rằng mối quan
hệ chiến lược giữa Mỹ và Israel
chỉ là hậu quả , chứ không phải
là nguyên nhân của sự xâm nhập
của Liên xô .
Đương
nhiên điều quan tâm đầu tiên của
bất cứ chính phủ Mỹ nào cũng là
xác định quyền lợi của Mỹ và đề
ra chính sách để bảo vệ và đẩy
mạnh các lợi ích đó. Trong thời
gian sau thế chiến thứ 2 , chính
sách của Mỹ tại Trung đông , cũng
như tại các nơi khác , chỉ nhấn
mạnh yêu cầu làm sao ngăn chận
đựơc sự xâm nhập của Liên xô .
Đáng tiếc là nước Mỹ đã từ bỏ ưu
thế về đạo đức của kẻ đứng ngoài
cuộc và nhảy vào sân khấu :
đầu tiên là ủng hộ vị trí
đang rệu rã của người Anh , rồi
sau đó , khi đã rõ là không thể
nào giữ vị trí này vững được ,
lại tham gia một cách trực tiếp
hơn và cuối cùng là thay thế người
Anh để bảo vệ vùng Trung đông
khỏi bị bên ngoài tấn công ,
nhất là từ Liên xô.
Nhu
cầu hậu chiến ngay sau đó là
chống trả lại áp lực của Liên
xô ở rìa phía bắc - bảo đảm để
Liên xô rút ra khỏi vùng
Azerbaijan thuộc Iran và từ bỏ
yêu sách đối với Thổ nhĩ kỳ .
Chính sách này rõ ràng và có
thể hiểu được và , nói chung ,
đã thành công trong việc cứu
Iran và Thổ nhĩ kỳ . Nhưng khi
thử mở rộng sang thế giới Ả -rập
qua hiệp ứơc Baghdah , quả tình
đã bị trở quẻ một cách tai hại
vì đã đối đầu hoặc làm giảm uy
tín những kẻ mà nước Mỹ muốn lôi
cuốn . Nhà lãnh đạo Ai cập , Gamal’
Abd al- Nasser , nhận thấy hiệp
ứơc trên đe dọa đến quyền lãnh
đạo của mình , nên đã quay sang
phía Liên xô . Chế độ thân phương
tây tại Iraq bị lật đổ , các chế
độ thân thiện khác tại Liban và
Jordan lâm vào tình cảnh nguy
hiểm đến mức phải cầu viện
phương tây giúp đỡ bằng quân sự
mới cầm cự được . Từ năm 1955 ,
khi Liên xô nhảy vượt từ biên
giới phía bắc vào thế giới Ả
-rập , thì cả sự đe dọa lẫn
phương tiện để chống lại sự đe dọa
này đã thay đổi một cách triệt để
. Trong khi rìa phía băc vẫn còn
giữ vững , thì vùng đất Ả -rập lại
trở thành thù nghịch , hoặc ít
nhất cũng giữ thế trung lập một
cách áy náy . Trong tình thế này
, mối quan hệ của Mỹ đối với
Israel bứơc vào 1 giai đọan mới
.
Mối
quan hệ này đã định hình từ lâu
dựa trên 2 sự cân nhắc hòan
tòan khác nhau : cái thứ nhất
dựa trên ý thức hệ hoặc tình
cảm , cái kia là vị trí chiến
lược . Người Mỹ , được nhồi nhét
Kinh thánh và lịch sử nước họ ,
dễ dàng nhận thấy sự ra đời của
nhà nước Israel hiện đại là 1
đợt di dân ( Exodus) mới quay về
vùng đất hứa , và cũng dễ cảm
tình vói những người dừơng như
lập lại cái kinh nghiệm đi sang Mỹ
lập nghiệp của cha ông họ ,
những người đi khai phá và những
người kế tục . Còn người Ả -rập , dĩ
nhiên không hề nhìn theo cách này
, và nhiều nước châu Âu cũng chia
sẻ quan niệm này .
Mối gắn kết khác giữa Mỹ và
Israel là mối liên hệ chiến
lược , khởi đầu từ những năm
1960 , đã nẩy nổ mạnh trong
những năm 1970 và 1980 , chao đảo
trong thập niên 1990 và trở nên
quan trọng khi nước Mỹ cùng lúc
đối diện với sự đe dọa do tham
vọng bá quyền của Saddam
Hussein và sự khủng bố của bọn
al-Qa’ida chính thống , và từ
những nỗi bất bình trong số các
đồng minh của Mỹ vốn đã có từ lâu ,
nay lại tăng thêm . Vai trò lợi
thế chiến lựơc của Israel đối
với Mỹ đã gây nhiều tranh cải .
Có một số người ở Mỹ coi Israel
là 1 đồng minh chiến lược chính
trong khu vực và là 1 thành lũy
tin cậy chống lại kẻ thù trong
và ngoài khu vực . Những người khác
lý luận rằng Isreal còn lâu mới
là 1 lợi điểm chiến lược , chỉ
là cái của nợ chiến lược , bỏi
vì nó làm rạn nứt mối quan hệ
của Mỹ đối với thế giới Ả -rập
và là nguyên do làm cho các
chính sách của Mỹ trong khu vực
thất bại.
Nhưng
nếu ta so sánh hồ sơ của chính
sách Mỹ tại vùng Trung đông
với các vùng khác , ta sẽ ngạc
nhiên vì đó không phải là thất
bại mà lại là thành công . Nói
cho cùng , không hề có Việt nam
tại Trung đông , không có Cuba
hoặc Nicaragua hoặc El Salvador ,
thậm chí không có Angola nữa .
Ngựơc lại , qua suốt một lọat
các khủng hỏang liên tiếp làm
rung chuyển cả khu vực , luôn
luôn vẫn còn sự hiện diện đường
bệ của nước Mỹ trên các mặt chính
trị , kinh tế và văn hóa tại
nhiều quốc gia trong khu vực -
cho đến khi chiến tranh vùng
Vịnh xảy ra năm 1991 , mà không
cần đến bất cứ sự can thiệp quân sự
đáng kể nào .Và thậm chí cho
đến lúc đó , sự hiện diện của Mỹ là
để giải cứu những nạn nhân của
1 sự xâm lăng giữa 2 nước Ả -rập
, không hề có liên quan gì đến
người Israel hoặc Palestine.
Những ai chỉ chăm chú vào miền
Trung đông luôn luôn xoi mói
đến những khó khăn và thất bại
của chính sách Mỹ tại khu vực này
, nhưng nếu ta nhìn rộng hơn , ta
sẽ lấy làm ngạc nhiên về hiệu qủa
của chính sách Mỹ tại vùng này
trái ngược hẵn với chính sách tại
Đông nam Á , Trung Mỹ hoặc tại
Đông Phi .
Từ
khi Liên xô sụp đổ , một chính sách
Mỹ mới xuất hiện tại Trung đông
, liên quan đến nhiều mục tiêu
khác nhau . Mục đích chính của
chính sách này là ngăn ngừa sự
hình thành 1 bá quyền khu vực
- tức là 1 cường quốc duy nhất
trong vùng có khả năng thống trị
khu vực và tiến đến việc kiểm
sóat độc quyền dầu mỏ khu vực này
.Đây là mối quan tâm cơ bản
của các chính sách kế tiếp nhau
của Mỹ đối với Iran , Iraq , hoặc
đối với bất cứ nước nào đựơc cảm
nhận là mối đe dọa tương lai
trong khu vực .
Cho
tới nay chính sách được chấp nhận
, nhằm ngăn chận 1 bá quyền như
thế, là khuyến khích , cung cấp
vũ khí , và khi cần thiết sẽ hỗ
trọ cho 1 hiệp ứơc an ninh khu vực
, chủ yếu là các nước Ả -rập.
Chính sách này đương nhiên là
sẽ làm sống lại quá khứ không có
gì vui của những toan tính trước
kia , quả là lợi bất cập hại . Lần
này , hiệp ứơc đựơc đề ra có
phần gặp may mắn hơn. Kẻ thù
giả định không còn là Liên xô
đáng sợ , và các kẻ thù trong
khu vực lại có nhận định tỉnh táo
hơn về tình hình thế giới và vị trí
của mình . Nhưng một hiệp ước như
thế , dựa trên các chế độ bấp bênh
, cai trị những xã hội dễ thay đổi
, rõ ràng là liều lĩnh bởi vì
theo lẽ thường mắc xích yếu
nhất sẽ quyết định độ mạnh của
dây xích . Lịch sử Iraq mới
đây đã cho thấy rõ ràng vì sao
một chính sách như thế có thể mắc
sai lầm . Khi tích cực ủng hộ vua
Shah , Mỹ đã đưa ông ta đến chỗ
bị lật đổ ; khi chăm sóc Saddam
Hussein , Mỹ đã nuôi dưỡng 1 con
quái vật . Thật là dễ dàng một
cách tai hại khi lập lại một
hoặc cả 2 sai lầm trên , gây
nguy hiểm cho các lợi ích của
phương tây trong khu vực và đem
lại những hậu quả khủng khiếp cho
nhân dân sống trong vùng đó .
Trong
khung cảnh này , cũng dễ hiểu khi
thấy thiện chí của một số
chính phủ Ả -rập muốn thương
thuyết hòa bình với Israel , và
người Mỹ muốn đẩy mạnh tiến trình
hòa bình . Nhiều nước Ả -rập bắt
đầu nhận ra rằng , dựa trên điểm
mạnh và điểm yếu của Israel ,
Israel không phải là vấn đề
nghiêm trọng nhất đối với họ ,
cũng không phải là mối đe dọa lớn
nhất mà họ phải đối đầu . Một nước
Israel gây chiến với láng giềng sẽ
là 1 mối nguy hiểm thường xuyên
, là 1 cách đánh lạc hứơng mà 1
Saddam Hussein mới - thậm chí cũ
cũng được - bao giờ cũng có thể
dùng tới . Nhưng 1 Israel hòa bình
với láng giềng ,ít nhất , cũng
có thể đóng vai trò 1 yếu tố ổn
định dân chủ trong vùng .
Nói
chung , có 2 kiểu liên minh hòan
tòan khác nhau . Một kiểu là chiến
lược và có thể chỉ là hòan tòan
hòa hõan tạm thời dựa trên cơ sở
cảm nhận có chung những mối đe
dọa . Một sự hòa hõan như thế có
thể đạt đựơc với bất cứ nhà lãnh
đạo nào cũng đựơc - không cần
quan tâm đến cách điều hành chính
phủ , mô hình xã hội mà ông ta
cai trị . Phía đối tác của một
liên minh như vậy có thể thay đổi ý
kiến bất cứ lúc nào , hoặc thay
ngựa giữa dòng nếu ông ta
bị lật đổ hoặc bị thay thế .
Như thế , liên minh này có thể
chấm dứt khi thay đổi chế độ ,
thay đổi lãnh đạo , hoặc thậm
chí thay đổi tầm nhìn .Các biến cố
tại Lybia , Iraq , Iran và Sudan
sẽ làm rõ ý này khi chính trị thay
đổi thì chính sách bị đảo ngược
hòan tòan , hoặc theo chiều hứơng
khác như tại Ai cập , dù không thay
đổi chế độ , các nhà lãnh đạo cũng
có thể chuyển hứơng từ phương Tây
sang Liên xô và sau đó quay về
hàng ngũ phương Tây.
Phía
Mỹ cũng có tính uyển chuyễn tương
tự . Vì lọai đồng minh như vậy
có thể bỏ rơi Mỹ bất cứ lúc nào
, Mỹ rõ ràng là cũng thấy thỏai
mái khi bỏ rơi những đồng minh
như thế , nếu việc liên minh tỏ
ra quá phiền phức hoặc không
còn hiệu qủa kinh tế nữa- lấy ví
dụ, trừơng hợp của Việt nam ,
Kurdistan và Liban . Người ta có
thể bỏ rơi 1 đồng minh chỉ vỏn vẹn
đóng vai trò hòa hõan chiến lược ,
mà không hề tỏ ra ân hận hoặc lo
lắng vì bị chỉ trích mạnh mẽ
trong nước .
Kiểu
liên minh còn lại đặt cơ sở trên
sự tương đồng về định chế ,
nguyện vọng , và lối sống - kiểu
này khó thay đổi . Liên xô vào thời
điểm vàng son ý thức rõ điều
này và đã cố gắng tạo dựng
các chế độ độc tài cọng sản tại
những nơi họ có mặt . Các chế độ
dân chủ tạo ra khó khăn hơn . Và
cũng khó phá hủy hơn.