Chương bốn
Nhà Thanh giành
được ngoại viện,
Tăng Quốc Phiên trù hoạch chiến đấu
1. Triệu chứng nước Anh thay đổi chính
sách
Sau khi Thái Bình Thiên Quốc định đô tại Nam
Kinh [Nanjing, Giang Tô] ; các nước Anh, Pháp,
Mỹ vẫn thừa nhận triều đình Bắc Kinh [Beijing] ;
họ hy vọng giành được sự nhượng bộ từ triều đình
này, nên tiếp tục duy trì. Ðối với họ, Hồng Tú
Toàn luôn luôn tự coi là Thiên vương, “ chân
chúa của vạn nước ”, nếu thắng cũng không dễ
cư xử.
Từ năm 1856 đến 1858, giới lãnh đạo Anh, đứng
đầu phe Tây phương, cho rằng chẳng bao lâu quân
Thái Bình sẽ thua, nên càng gấp giành quyền lợi
từ Bắc Kinh. Qua điều ước Thiên Tân [Tianjin],
lòng mong muốn của các nước được thỏa mãn, kiên
định mối quan hệ giữa họ với Bắc Kinh ; vấn đề
từ đó trở đi, là làm sao thực thi mọi khoản
trong điều ước. Sau khi chương trình thông
thương được ký kết tại Thượng Hải [Shanghai,
Giang Tô] vào tháng 11/1858, Công sứ Lord Elgin
cấp tốc điều quân hạm ngược sông Trường giang
[Changjiang], để khảo sát cảng khẩu, chiếu theo
điều ước Thiên Tân dự định mở. Khi quân hạm qua
Nam Kinh, An Khánh [Anqing, An Huy] ; bị quân
Thái Bình pháo kích. Sau đó quân Thái Bình gửi
thư có ý xin lỗi ; chiếu chỉ của Thiên vương gọi
Lord Elgin là “ Tây dương phiên đệ ”,
hoan nghênh đến, sẽ đãi theo lễ. Khi Lord Elgin
từ Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] xuôi dòng, chủ
tướng quân Thái Bình tại An Khánh ân cần xin lỗi
vì sự lầm lỡ. Thống đốc thủy quân Thái Bình trên
sông Trường Giang yêu cầu nhường cho súng đạn
Tây dương, nói rằng hai bên tình như anh em. Khi
đến Nam Kinh, Lý Xuân Phát, Phó thủ tướng quân
Thái Bình khoản đãi rượu những viên chức Anh do
Lord Elgin sai đến như Thomas Wade [Uy Thỏa Mã],
H.N. Lay [Lý Thái Quốc] ; và căn dặn từ nay trở
về sau khi thuyền Anh đi qua, xin báo trước để
mang quân hộ tống.
Lord Elgin rất ác cảm với quân Thái Bình, cho
rằng chẳng bao lâu sẽ bại. H.N. Lay nói với Quế
Lương tại Thượng Hải rằng “ Bọn này thực vô
kỷ luật, hành động như đạo tặc. Miệng thì nói
thuộc Gia Tô giáo, nhưng đem nhưng điều Gia Tô
ra hỏi thì đáp không đúng.” Quân Thái Bình
biểu thị thiện cảm với Anh, vì thấy quân Anh
mạnh nên không thể không làm như vậy. Tháng
5/1860 quân Thái Bình đánh chiếm các đại doanh
tại Giang Nam, đuổi dài sang phía đông ; Công sứ
Anh, Pháp lập tức tuyên bố bảo vệ Thượng Hải.
Sau khi Trung vương Lý Tú Thành chiếm cứ Tô Châu
[Suzhou, Giang Tô], bèn gửi thư cho sứ Anh trình
bày việc tất yếu phải lấy Thượng Hải, Tùng Giang
[Songjiang, Giang Tô] ; muốn đến thương lượng để
giữ hòa hảo. Kế tiếp lại gửi thư khuyên đừng
giúp quân Thanh, để khỏi tổn thương hòa khí ;
nhưng đều không có hồi âm. Sau đó Can vương Hồng
Nhân Can vốn có giao tình với người nước ngoài
đến Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], cùng với Lý Tú
Thành gửi thư mời Giáo sĩ Ngãi Ước Sắt đến gặp ;
viên Giáo sĩ thỉnh ý viên Công sứ Frederick W.
A. Bruce [Bốc Lỗ Tư] thì viên này cho biết lập
trường của Anh không nghiêng về bên nào.
Vào tháng 6, Tuần phủ Giang Tô, Tiết Hoán, cùng
hàng thương khuyến khích tổ chức Dương thương
đội do người Mỹ tên là F. T.Ward [Hoa Nhĩ] chỉ
huy. F. T. Ward, một tay mạo hiểm về quân sự ;
nhân nước Trung Quốc rối ren, là nơi có nhiều cơ
hội đối với y ; nhỏ thì có thể dựa vào lửa chiến
tranh để cướp bóc, lớn thì tạo lập chính quyền.
Y cùng các bạn đồng hương chiêu mộ được khoảng
200 quân, gồm lính ngoại quốc đào ngũ, thủy thủ,
cùng những tay vong mệnh ; lương hướng do quan
đặc trách thương vụ tại Thượng Hải cung cấp.
Tháng 7, chiếm đoạt Tùng Giang, cướp được nhiều,
lại được thưởng 3 vạn lượng bạc, danh lợi kiêm
thu ; bèn tiếp tục tiến công quân Thái Bình, bị
Lý Tú Thành đánh bại.
Giáo sĩ Ngãi Ước Sắt đến Tô Châu đem những lời
của Công sứ Frederick chuyển cho Hồng Nhân Can
và Lý Tú Thành, cả hai đều tin Anh đứng trung
lập. Gặp lúc Anh, Pháp điều binh lên Thiên Tân,
lưu binh tại Thượng Hải không nhiều, lại vừa
đánh thắng Dương thương đội, nên tin rằng một
tiếng trống cất lên có thể chiến thắng, bèn mang
quân tiến thẳng. Frederick chuyển lời cảnh cáo
rằng quân Anh, Pháp hiện trú đóng tại huyện
thành và Thượng Hải, nếu xông vào sẽ đánh trả
lại. Lý Tú Thành thanh minh cùng Công sứ Anh,
Mỹ, Pháp rằng không quấy nhiễu người ngoại quốc
; vào ngày 18/8 bắt đầu đánh thành, ngày 21 bị
liên quân Anh Pháp đánh bại ; sự kiện này cũng
tình cờ trùng ngày với liên quân Anh, Pháp chiến
thắng quân Thanh tại Ðại Cô [Dagu, Thiên Tân].
Ðây là lần đầu tiên quân Thái Bình giao tranh
với Tây dương, chứng tỏ thái độ Anh, Pháp đối
với quân Thái Bình đã chuyển biến một cách cụ
thể.
Tháng 2/1861 Harry Parkes đến Nam Kinh. Ngày 1/3
cùng Hạm trưởng Aplin [Nhã Linh] nói với đại
diện quân Thái Bình, Mông Thời Ung và Chương
vương Lâm Thiệu Chương rằng nước Anh có quyền
thông thương trên sông Trường Giang, nay qua
lại, nếu tuân theo pháp lệnh của Thái bình thiên
quốc thì không được trở nhiễu ; quân Thái Bình
đánh Hán Khẩu, Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây],
nếu như không xâm phạm tính mệnh tài sản của
người Anh, thì quân hạm Anh đậu tại đấy cũng
không gây khó khăn. Ðược Thiên vương đồng ý,
xuống chiếu tuyên bố rằng phàm những ai chưa
giúp “ yêu quái ” (Mãn Thanh) đều được khoan
miễn, thương nhân ngoại quốc coi như huynh đệ,
mọi việc do Tổng lý La Hiếu Toàn thu xếp ; lại
trả về những lính đào ngũ người Anh. Tháng 5
cũng gửi cho Tư lệnh hải quân Mỹ Commodore
Stribling [Tư Bách Linh] chiếu thư giống như
vậy.
Ngày 22/3 khi Harry Parkes từ Hán Khẩu trở về
đông, qua Hoàng Châu [Huangzhou, Hồ Bắc] cảnh
cáo Anh vương Trần Ngọc Thành đừng đánh Hán Khẩu
[Hankou, Hồ Bắc], Hán Dương [Hanyang, Hồ Bắc] ;
lập luận này hiển nhiên trái với cam kết trước
kia. Ngày 28 Ðề đốc James Hope [Hà Bá] sai Hạm
trưởng Aplin báo cho quân Thái Bình rằng không
được tiến binh cách Thượng Hải dưới 100 dặm,
ngược lại Anh sẽ không cho quân Thanh từ Thượng
Hải đánh quân Thái Bình. Harry Parkes cùng Aplin
đàm phán với quân Thái Bình 5 ngày, tuyên bố nếu
như phá hoại cửa khẩu, thương vụ, thì sự quan hệ
hai bên không có cách gì cải thiện. Thiên vương
lúc đầu cho rằng không làm tổn hại đến người
nước ngoài, nhưng không dừng việc đánh Thượng
Hải ; đến ngày 2/4 Harry Parkes và Aplin đích
thân đến phủ Thiên vương gửi thư ; Thiên vương
hứa trong vòng năm đó không đánh Thượng Hải và
vùng phụ cận. Những điều yêu cầu của bọn Harry
Parkes không phải là chủ trương của Luân Ðôn,
Ngoại trưởng John Russell [La Tố] từng ra chỉ
thị không can thiệp vào nội chiến Trung Quốc,
chỉ lo giữ an toàn nhân sự và thương nghiệp. Tuy
nhiên những báo cáo của các viên chức ngoại
giao, quân sự tại chỗ, cũng ảnh hưởng rất nhiều
đến chính sách.
Tháng 5/1861 James Hope bắt F. T.Ward về tội dụ
dỗ lính Anh đào ngũ rồi trả cho Lãnh sự Mỹ ;
nhưng Mỹ lấy cớ F. T. Ward đã nhập quốc tịch Hoa
nên thả ra. F. T. Ward hứa không tiếp tục thu
lính Anh đảo ngũ ; được James Hope giúp đỡ để
chiêu tập đạo quân người Hoa, cùng được các sĩ
quan Âu, Mỹ cấp cho trang bị. Nhờ vậy Dương
thương đội của F.T. Ward quân số tăng lên trên
2.000 ; James Hope đích thân đến duyệt binh ;
đây là hành động tích cực chuẩn bị chống quân
Thái Bình. Ðạo quân của F.T. Ward trên đầu chít
khăn xanh, nên được gọi quen là Lục đầu dõng,
quân Thái Bình miệt thị là “ Giả Dương quỷ tử
”.
Lý Tú Thành nói người Tây dương đưa lời uy hiếp,
đề nghị hợp tác rồi chia đôi, chúng nói “
Thiên vương các ngươi tuy đông nhưng không bằng
1 vạn quân của chúng ta… Ta có mấy vạn và binh
thuyền, một tiếng trống dấy lên, có thể bình
định. Quân ta hơn 1 vạn người đánh vào Bắc Kinh,
khiến phải xin hòa. Các người không hợp tác, thì
hãy xem ta hành động.” Hồng Tú Toàn không
dao động, bảo rằng “Ta tranh giành Trung
Quốc, muốn tự lo lấy ; nếu hợp tác với Dương
quỷ, việc thành chia đôi, thì thiên hạ sẽ chê
cười ; nếu không thành thì mang tội đưa quỷ vào
nước.” Lý Tú Thành cũng nói “ Ðể
một ngàn quân Tây dương, chèn ép hàng vạn quân
ta ; vậy ai mà phục ! ”. Những lời trên,
chứng tỏ Hồng Tú Toàn, Lý Tú Thành kiên định lập
trường quốc gia ; tuy họ từng dùng người và vũ
khí Tây phương, nhưng làm chủ được mình.
2. Tranh đoạt thành An Khánh
Sau khi Tương quân chiếm được Vũ Hán [Wuhan, Hồ
Bắc], Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây] ; An Khánh
trở thành chiến trường tại thượng du sông Trường
Giang. An Khánh không chỉ là bình phong cho
Thiên Kinh, nó còn giữ vị trí bảo hộ Sào Hồ
[Chaohu, An Huy], vùng cung cấp lương thực cho
Thiên Kinh. Từ tháng 12/1859 Tăng Quốc Phiên, Hồ
Lâm Dực mưu đoạt An Khánh ; giao tranh nhiều lần
với Anh vương Trần Ngọc Thành. Năm 1860 các đại
doanh tại Giang Nam thất thủ, triều đình nhà
Thanh mấy lần mệnh Tăng dời quân về phía đông ;
Tăng có chủ kiến cho rằng đạo quân đánh dẹp An
Khánh rất quan trọng, với những lý do sau đây :
Thứ nhất từ xưa tới nay sách lược bình Giang
Nam, nhờ thế thượng du từ trên đánh xuống mới
mong thành công. Thứ hai, Tương quân đến gần tới
chân thành ; nay rút đi thì thế địch tăng thêm,
còn khí thế quân ta tiêu trầm. Thứ ba, thủy sư
nếu chiếm được thành này “thì dựa vào đó làm
thế căn bản, để ngăn nguồn lương cung cấp cho
bọn giặc tại Kim Lăng (Nam Kinh) ; phá thế ỷ dốc
từ Giang, Hoài.” Họ Tăng đo lường toàn cuộc,
thâm tư viễn lự, có tầm nhìn chiến lược xác
đáng. Nhưng triều đình vẫn muốn Tăng thu phục Tô
Châu [Suzhou, Giang Tô], Thường Châu [Changzhou,
Giang Tô] ; để bảo hộ cho Thượng Hải, Hàng Châu
[Hangzhou]. Bất đắc dĩ Tăng tự cầm 8.000 quân
đến Kỳ Môn [Qimen, An Huy] ; lưu Tăng Quốc
Thuyên với 1 vạn 5.000 quân tiếp tục vây An
Khánh. Ngoài ra còn có sự yểm trợ của các đạo
lục quân Ða Long A, Lý Tục Nghi, Hồ Lâm Dực,
cùng thủy quân của Dương Tái Phúc ; cộng ước 4
vạn quân.
Về phía đối phương, Thái Bình Thiên Quốc cũng
đánh giá cao vị trí quan trọng của An Khánh.
Hồng Nhân Can nói “ Từ xưa đến nay giành
giang sơn, trước hết lấy tây bắc rồi xuống đông
nam ; do từ trên xuống dưới, thế đã thuận mà dễ…
Sông Trường Giang giống như con rắn dài, đầu là
Hồ Bắc, An Khánh là lưng, Giang Nam là đuôi ;
nếu để mất An Khánh, như lưng rắn bị cắt, thì
cái đuôi tuy ngoe ngoảy cũng không được bao lâu.”
Lúc bấy giờ Lý Tú Thành đánh Thượng Hải bất lợi,
quay sang mở mang vùng Chiết Giang ; Thiên vương
ra lệnh ngược sông Trường Giang, giải vây cho An
Khánh ; rồi thừa lúc liên quân Anh Pháp đánh Bắc
Kinh thì tiến lên phía bắc chiếm trung nguyên.
Sau khi Lý Tú Thành và Trần Ngọc Thành hội bàn
tại Giang Tô, phân công Trần hoạt động tại phía
bắc tỉnh An Huy [Anquing] phụ trách bờ phía bắc
sông Trường Giang ; Lý theo hướng Thiên Kinh
[Nam Kinh] đương đầu phía nam tỉnh An Huy, tức
bờ phía nam sông Trường Giang. Lại còn có Phụ
vương Dương Phụ Thanh tiến đánh quân Tăng Quốc
Phiên tại Kỳ Môn, Thị vương Lý Thế Hiền tiến vào
phía đông tỉnh Giang Tây, đánh phía sau lưng Kỳ
Môn [Qimen, An Huy] ; như vậy thì tự nhiên An
Khánh sẽ được giải vây.
Ðạo quân của Trần Tú Thành di chuyển nhanh, lúc
đầu đánh vào quân Ða Long A, hạ không được ;
tiếp tục tiến đến Hồ Bắc [Hubei] với thế chẻ
tre, trong 5 ngày đánh chiếm Hoàng Châu
[Huangzhou, Hồ Bắc]. Qua lời cảnh cáo của Harry
Parkes, nhắm tránh đối địch với quân Anh, bèn
mang quân đánh các thành phía bắc tỉnh An Huy.
Cuối cùng sai hẹn với Lý Tú Thành, hai đạo quân
không liên hệ được với nhau, bèn dẫn quân về
phía đông, tình hình An Khánh lại trở nên nguy
cấp. Về các đạo quân Thái bình tại phía nam, từ
tháng 12/1860 lại bức bách Kỳ Môn, Tăng Quốc
Phiên cơ hồ không trụ nổi ; may nhờ đạo quân của
Tả Tông Ðường từ phía đông tỉnh Giang Tây
[Jiangxi] đánh chặn nguồn tiếp tế của Lý Thế
Hiền, mới bắt đầu chuyển nguy thành yên. Lần tây
chinh của Lý Tú Thành kỳ này, không được tích
cực lại quá cẩn trọng, vào tháng 2/1961 vào
Giang Tây, đánh vòng từ nam sang tây, đến tháng
6 vào tỉnh Hồ Bắc, gần thành Vũ Xương [Wugang,
Hồ Bắc], biết được Trần Ngọc Thành, Lý Thế Hiền
đã quay về phía đông, Bảo Siêu thuộc Tương quân
tiến vào Giang Tây, Lý sợ đường về cản trở, Lãnh
sự Anh tại Hán Khẩu cũng có lời khuyên ngăn ;
bèn theo hướng phía nam Hồ Bắc quay trở về Chiết
Giang.
Quân Thái bình tây chinh không lập được công, từ
tháng 4 đến tháng 8/1861 Trần Ngọc Thành thu
thập các đạo quân tại các miền bắc nam An Huy,
cùng Thiên kinh gồm trên 3 vạn ; bốn lần đến cứu
viện An Khánh. Tương quân ra sức chống cự ; đại
doanh của Tăng Quốc Thuyên từ Kỳ Môn chuyển đến
phía đối bờ với thành An Khánh, quân Hồ Lâm Dực
từ Hồ Bắc xuống tương trợ, chiến đấu rất kịch
liệt. Tương quân chỉ huy thống nhất, thủy bộ giữ
thế ỷ dốc, lương thảo sung túc ; quân Thái bình
chí không đồng, đội ngũ không chỉnh, bổ sung khó
khăn. Tăng Quốc Thuyên mệnh các doanh lung lạc
các tư thương không bán lương thực, Harry Parks
cũng cấm thuyền Anh, An Khánh không được cung
cấp gạo ; ngày 5/9/1861 lương hết, thành phá,
toàn bộ quân Thái Bình hơn 1 vạn 6.000 người
chiến tử ; An Khánh vào tay Tương quân, đây là
chìa khóa mất còn của quân Thái Bình. Hồng Nhân
Can nói rằng “ Tổn thất tối lớn của quân ta
là khi An Khánh vào tay quân Thanh. Thành này là
chìa khóa cửa của Thiên kinh, bảo vệ sự an toàn
tại đông nam, một khi rơi vào tay bọn yêu, chúng
có thể đánh vào cơ sở ta.”
An Khánh thất thủ, Trần Ngọc Thành chuyển sang
Lô Châu [Luzhou, Hợp Phì, An Huy], bị cách chức.
Mùa xuân năm 1862, quân Thanh vây Lô Châu, Trần
Ngọc Thành chạy lên Thọ Châu [Shouzhou, Hợp Phì,
An Huy], rồi bị đồng đảng giết lúc 26 tuổi. Trần
chết, lực lượng quân Thái Bình tại phía bắc An
Huy tan rã.
Khi Lý Tú Thành từ Hồ Bắc rút về phía đông, đã
biết An Khánh khó giữ, nên vẫn theo kế hoạch
trước khi tây chinh, nhắm đoạt lấy Hàng Châu,
củng cố làm đất căn bản. Cuối năm 1861, quân Lý
lấy được Hàng Châu, Thiệu Hưng [Shaoxing, Chiết
Giang], Ninh Ba [Ningpo, Chiết Giang]. Tăng Quốc
Phiên cảm thấy tình thế nghiêm trọng, báo động
rằng “ Hiện nay vùng đất màu mỡ tại hai tỉnh
Chiết Giang, Giang Tô đều vào trong tay giặc,
sào huyệt đã thành, gốc rễ kiên cố… Binh lính
tại tỉnh Chiết toàn nhờ vào lương thực tại Ninh,
Thiệu ; nay bị giặc chiếm, cả tỉnh tiêu điều,
không có cách trù hoạch ”. Nếu xét về phương
diện kinh tế, quân Thái Bình chiếm được Hàng
Châu, Chiết Giang ; so với việc mất An Khánh và
miền bắc An Huy thì tương đương ; nhưng đứng về
phương diện quân sự thì Hàng Châu, Chiết Giang
không thể so sánh với An Khánh và phía bắc An
Huy được. Thực vậy, đây là thắng lợi cuối cùng
của quân Thái Bình, sau đó không còn có sự phát
triển nào khác.
3. Ðánh giữ tại các cửa khẩu thông thương
Chiến lược của Lý Tú Thành là chiếm trọn Giang
Nam, Chiết Giang ; thời gian tây chinh tuy chưa
lấy được Thượng Hải, nhưng vùng Chiết Giang thì
vẫn không buông tay. Tháng 4/1861, sau khi rút
từ miền tây, quân Thái Bình chiếm Sạ Phố
[Zhapazhen, Chiết Giang], nếu như vượt Hàng Châu
loan có thể chiếm Ninh Ba [Ninhbo, Chiết Giang].
Tháng 5 James Hope phái Hạm trưởng Roderick Dew
[Lạc Ðức Khắc] đến Ninh Ba, cảnh cáo quân Thái
Bình không được tiến binh xâm phạm, lại giúp
quân Thanh bố phòng, Thái Bình đáp rằng nguyện
cùng quân Anh hòa hảo thông thương. Tháng 6,
Frederick W. A. Bruce thông tư cho James Hope
rằng bảo vệ cảng khẩu tức bảo vệ lợi ích buôn
bán của người Anh, nhà Thanh đã đồng ý nước Anh
thay giữ Ninh Ba, cùng bàn luận sách lược đánh
chiếm Nam Kinh. Frederick cũng báo cáo với Ngoại
trưởng John Russell rằng nếu quân Thái Bình
chiếm cửa khẩu thì thương vụ bị phá hoại, quan
thuế giảm, tiền bồi thường của nhà Thanh không
được giao phó. Riêng James Hope không đồng ý
đánh Nam Kinh, sợ việc buôn bán từ Thượng Hải
vào nội địa bị đình chỉ. Ngoại trưởng John
Russell không đồng ý chủ động, chỉ muốn các cửa
khẩu giữ trung lập ; riêng kế hoạch sai Roderick
Dew giúp bảo vệ Ninh Ba thì được chấp nhận.
Qua 80 ngày vây khốn, ngày 31/12/1861 quân Lý Tú
Thành hạ được Hàng Châu, lực lượng trú phòng từ
Tuần phủ Chiết Giang trở xuống, hơn 10.000 tử
trận. Mười hai ngày trước đó, bộ hạ Thị vương Lý
Thế Hiền đánh chiếm Ninh Ba, đây là cửa khẩu duy
nhất quân Thái Bình chiếm giữ. Thái Bình quân kỷ
luật nghiêm chỉnh, thương vụ vẫn hoạt động bình
thường, được miễn thuế 3 tháng, người ngoại quốc
tương đối yên ổn. Ðầu năm sau [1862] James Hope
cùng Công sứ Mỹ Anson Burlingame [Bồ An Thần]
đến Ninh Ba, cùng Lãnh sự Anh, Pháp hoạch định
người ngoại quốc trú tại bờ phía bắc sông, không
được quấy nhiễu. Sau đó đưa lời rằng pháo đài
tại Ninh Ba bắn quấy nhiễu, yêu cầu dẹp bỏ,
nhưng bị bác. Tháng 5/1862 chiến hạm Anh, Pháp
giúp quân Thanh chiếm lại Ninh Ba.
Người Anh rất quan tâm đến Thượng Hải và các cửa
khẩu trên sông Trường Giang ; Thiên vương chỉ
hứa trong năm 1861 quân Thái Bình không xâm nhập
Thượng Hải và vùng phụ cận. Khi Hàng Châu bị
vây, James Hope dự liệu rằng nếu như thành này
mất thì tất nhiên Thượng Hải bị uy hiếp. Vào
ngày 27/12/1861 Harry Parkes lại đến Nam Kinh,
sai Hạm trưởng Henry M. Bingham [Bình An] tiếp
xúc, đề xuất 4 điều yêu cầu với Thái Bình Thiên
Quốc : Thứ nhất, bồi thường cho người Anh bị
cướp hoặc tổn thất tại khu vực quân Thái Bình.
Thứ hai, quân Anh được tự do hàng hành trong khu
vực nội hà quân Thái Bình chiếm. Thứ ba, nghiêm
cấm quân Thái Bình xâm nhập khu vực Thượng hải
và chung quanh 100 dặm. Thứ tư, không được tiến
binh trong vòng 100 dặm tại các cửa khẩu Hán
Khẩu, Cửu Giang và quấy nhiễu lãnh sự quán tại
Trấn Giang. Kết quả bị bác, Thái Bình tuyên bố
rằng sẽ tuỳ cơ thi thố.
Nước Anh quan tâm đến Thượng Hải, nhưng Lý Tú
Thành cũng muốn lấy bằng được nơi này. Sau khi
chiếm Hàng Châu bảy ngày, bèn mang quân lên phía
bắc, hiểu dụ thương nhân ngoại quốc rằng “ Mỗi
bên yên tâm, không quấy nhiễu lẫn nhau… Nếu trợ
nghịch làm điều ác, đối địch với quân ta, thì tự
rước lấy diệt vong ! ”. Vào tháng
1/1862 quân Thái Bình tiến chiếm các huyện chung
quanh Thượng Hải, nắm giữ các vùng đất màu mỡ
tại các tỉnh Chiết Giang, Giang Tô ; riêng tỉnh
Chiết Giang quân triều đình nhà Thanh chỉ còn
giữ được hai thành Hồ Châu [Huzhou], Hải Ninh
[Haining] và Cù Châu [Quzhou]. Tăng Quốc Phiên
bèn tiến cử Lý Hồng Chương làm quyền Tuần phủ
Giang Tô, lập riêng cánh quân từ Thượng Hải mưu
khống chế tỉnh Giang Tô. Riêng giao việc vây
đánh Nam Kinh cho Tăng Quốc Thuyên ; dùng Tả
Tông Đường làm Tuần phủ Chiết Giang ; nhờ vậy
thế lực quân Thái bình tại miền đông nam yếu
dần. Tháng 2 bị liên quân Anh, Pháp và Dương
thương đội của F.T.Ward đánh bại tại Phố Ðông
[Pudong,Thượng Hải]. Tháng 3, F.T. Ward được hạm
đội Anh yểm trợ, lại hoạch thắng tại tây nam
Thượng Hải ; Dương thương đội bèn đổi tên là
Thường thắng quân. Tháng 4, Mạc vương Ðàm Thiệu
Quang giao tranh với quân Anh Pháp và Thường
thắng quân tại Tùng Giang bất lợi nên rút lui ;
trên đây là giai đoạn một của chiến tranh tại
Thượng Hải.
Quân Anh, Pháp muốn tảo thanh xung quanh Thượng
Hải 100 dặm, bèn chuyển sang thế công, chiếm
được thành trì giao cho Thường thắng quân giữ,
tài vật chia đôi. Tháng 5, chiếm Gia Ðịnh
[Jiading, Thượng Hải], Thanh Phố [Quingpu,
Thượng Hải]. Lý Tú Thành phản công, thắng lớn
tại Thái Thương [Taicang, Thượng Hải], lấy lại
Gia Ðịnh, Ðề đốc Anh C. W. Staveley [Ðịch Phật
Lập] đốt thành bỏ chạy ; Ðề đốc Pháp A. Protet
[La Ðức] tử trận tại cầu Hiền Nam [Phố Ðông,
Thượng Hải]. Tháng 6, Ðàm Thiệu Quang lấy lại
Thanh Phố, bức bách huyện thành Thượng Hải ;
quân Anh, Pháp mấy lần bại, không dám ra đánh.
Lúc này Lý Hồng Chương mang quân Tương Hoài
1 đến, đánh trong ba ngày, quân
Thái Bình mới rút. Tháng 8, Lý Tú Thành nhận cấp
báo từ Thiên kinh, mang quân về phia tây, để Ðàm
Thiệu Quang chủ trì tuyến phía đông. Tháng 11
quân Thái Bình lại bức bách Thượng Hải, bị quân
Tương Hoài và Thường thắng quân đánh lui.
Lúc Thượng Hải sắp chiến tranh, các quan địa
phương cùng với Anh, Pháp thành lập Trung ngoại
hội phòng cục. James Hope, Frederick W. A.
Bruce, và Lãnh sự Thượng Hài Walter H. Medhurst
Jr. [Mạch Hoa Ðà] đều là những người Anh cực lực
chủ trương tham chiến. Walter báo cáo bộ ngoại
giao rằng quân Thanh không đủ sức bảo vệ Thượng
Hải ; Frederick nhấn mạnh nếu không muốn buông
bỏ lợi ích tại Trung Quốc thì phải duy trì triều
Thanh, Công sứ Mỹ Anson Burlingame cũng cho rằng
nhà Thanh là chính quyền hợp pháp, theo lẽ phải
đáng yểm trợ. Lúc này Cung thân vương có quyền
tại Bắc Kinh, cùng Frederick liên hợp tác chiến
; thực hiện các công việc cụ thể như nhà Thanh
mướn thuyền máy giữ Ninh Ba ; quân Anh, Pháp bảo
vệ Thượng Hải, Thường thắng quân phát triển đến
4.500 quân.
Khi Lý Tú Thành đánh Thượng Hải, Hồng Nhân Can
không cho là đúng ; gừi thư bàn về việc An Khánh
thất thủ Thiên kinh sẽ gặp nguy, cần phải ưu
tiên cho miền tây bắc, sau đó mới đến đông nam.
Lý Tú Thành cho rằng lấy được đông nam, có thể
yên gối không lo, thế Tương quân chưa bại được,
cần chờ cơ hội để mưu đồ. Sau đó Hồng Nhân Can
nhận định rằng nguyên nhân mối họa của Thái Bình
Thiên Quốc là “ Dương nhân trợ yêu ”
2.Nhận định này cũng nói lên một
phần thực trạng, vì miền hạ du quân Anh, Pháp
công khai chi trì Thanh triều, thượng du thì
Tương quân đánh xuống, quân Thái Bình ở thế bị
giáp công, đầu đuôi không khắc phục được.
4. Tương quân chia đường tiến, cùng sự
trợ giúp của quân ngoại quốc
Năm 1860 Tăng Quốc Phiên đã có kế hoạch đánh
chiếm Nam Kinh và Tô Châu, Thường Châu ; quân
chia làm 2 đạo, nam và bắc ; nam quân từ Chiết
Giang đánh vào, bắc quân từ hai bên bờ sông
Trường Giang đánh xuống. Tại Túc Tùng [Susong,
An Huy], tỉnh An Huy, Tăng cùng Hồ Lâm Dực, Tả
Tông Ðường bàn định, cử Tả Tông Ðường kinh dinh
vùng Chiết Giang. Tả Tông Ðường [1812-1885]
người cùng tỉnh Hồ Nam với Tăng, Cử nhân xuất
thân, có nhiều tài lược. Từ năm 1852 làm tham
mưu cho Tuần phủ Hồ Nam Lạc Bỉnh Chương, Hồ Nam
là hậu phương của Tương quân ; về quân lương,
quân viện, chiến lược đều do Tả trù tính, uy
quyền một thời. Vì danh vọng lớn, nên bị nhiều
đố kỵ, khiến bị tội ; nhờ bọn Hồ Lâm Dực bảo
lãnh mới được vô sự. Rồi qua sự tiến cử của Tăng
Quốc Phiên, được chỉ huy một đạo quân đóng tại
phía đông tỉnh Giang Tây, giữ mặt sau cho đại
doanh Kỳ Môn. Sau khi Hàng Châu thất thủ, do lời
tâu của Tăng, Tả Tông Ðường lãnh chức Tuần phủ
Chiết Giang, đảm nhiệm chủ soái đạo quân phía
nam. Năm 1862 tiến vào phía tây tỉnh Chiết
Giang, trong vòng 8 tháng tương trì với quân của
Lý Thế Hiền. Ðợi đến lúc Lý phải tăng viện Thiên
kinh tại phía bắc, lực lượng của Tả bắt đầu tiến
triển ; năm 1863 hạ được mấy thành, chiếm Phú
Dương [Fuyang, Chiết Giang] gần Hàng Châu, được
thăng chức Tổng đốc Mân Chiết.
Tại phía đông Chiết Giang có quân hỗn hợp người
Hoa và ngoại quốc do Anh, Pháp tổ chức, hợp tác
với quân Tả Tông Ðường. Trước tiên Lãnh sự Anh
tại Ninh Ba mộ 300 quân, gọi là Lục đầu dõng.
Sau khi chiếm được Ninh Ba, Hạm trưởng Roderick
Dew [Lạc Ðức Khắc] bắt chước Thường thắng quân
tại Thượng Hải, khuếch đại Lục đầu dõng lên
1.000, và chia thành Thường an quân và Ðịnh
thắng quân. Người Pháp tên là Prosper Giquel
[Nhật Ý Cách] thuộc ty quan thuế tại Chiết
Giang, cùng với Tham tướng A. E. Le Brethon de
Caligny [Lặc Bá Lặc Ðông] mộ 1.500 người gọi là
Thường tiệp quân, cùng với quân Anh hoành hành.
Năm 1862, Roderick Dew hội các quân Thường an,
Ðịnh thắng, Thường tiệp, cùng Thường thắng quân
tại Thượng Hải xuống, đánh chiếm được 4 huyện
xung quanh Ninh Ba ; trong chiến dịch này chỉ
huy Thường thắng quân, F.T. Ward, bị thương
chết. Năm sau Thường an, Ðịnh thắng, Thường tiệp
đánh Thiệu Hưng, mấy lần bị quân Thái Bình đánh
thua. Các chỉ huy Thường tiệp quân hai lần tử
trận, sau đó Paul D’Aiguebelle [Ðức Khắc Bi]
tiếp tục chỉ huy, lấy được Thiệu Hưng [Shaoxing,
Chiết Giang], quân số khuyếch trương lên đến
3.500 người. Riêng Thường an quân, và Ðịnh thắng
quân, do Roderick Dew trở về nước, nên bị giải
tán.
Loạn lớn tại Chiết Giang, Giang Tô ; các đại gia
phú hộ đều tụ tập tại Thượng Hải, dân số từ 30
vạn lên đến 1 triệu. “ Buôn bán thịnh vượng,
thuế má ngày một tăng, hơn một năm trưng binh
đến 5 vạn 5 ngàn người ; nhưng phần lớn là bọn
vô lại thành thị và bọn cướp ; nên giặc dòm ngó
càng nhiều ”. Lúc này Tương quân chiếm được
An Khánh, các thân sĩ Thượng Hải, Giang Tô muốn
cầu viện Tăng Quốc Phiên, Tuần phủ Tiết Hoán
cũng phụ họa theo. Tháng 11/1861 Hàng Châu bị
vây, Thượng Hải bị đe dọa, bèn cử thân sĩ Tiền
Ðỉnh Minh đến An Huy xin quân. Tăng Quốc Phiên
nêu lên sự khó khăn về lương hướng không biết
lấy ra từ đâu. Tiền Ðình Minh nói Thượng Hải là
nơi hàng hóa ngoại quốc tụ tập, mỗi tháng thu
được 60 vạn lượng, nay hứa cấp 10 vạn lượng ;
Tăng Quốc Phiên rất mừng, định cử em là Tăng
Quốc Thuyên đến chốn màu mỡ này.
Nhưng Tăng Quốc Thuyên ôm chí đánh chiếm Nam
Kinh, nên không đến Giang Tô, Tăng Quốc Phiên
bèn giao nhiệm vụ cho học trò là Lý Hồng Chương
(1823-1901). Lý quê tại Hợp Phì [Hefei], An Huy,
xuất thân Tiến sĩ ; từng giữ chức Hàn Lâm, phụ
trách về đoàn luyện trong 5 năm, bị gò bó không
toại chí bèn theo Tăng Quốc Phiên. Qua bốn năm
rèn luyện, Tăng rất ưng ý, cho rằng “ tài
lớn, sâu sắc ”, có thể độc lập đương đầu một
mặt. Lý chiêu mộ đoàn luyện tại phía nam sông
Hoài, Tăng cho biên chế thành doanh, lại đem bộ
hạ Tương quân giao cho tiết chế. Năm 1862 tổ
chức thành quân, gọi là Hoài dõng, lại được giao
chức Tuần phủ Giang Tô. Tăng định sai Lý trú
quân tại Trấn Giang. Lý cho rằng “ Thượng Hải
là trục giao thông buôn bán, cần bố trí tại đó,
nhiên hậu sau đó ra Trấn Giang, để ứng chiến với
miền thượng du ”. Quyết định này không những
quan hệ đến tiền đồ của Lý Hồng Chương, mà còn
cải biến cả kế hoạch kinh lược Giang Nam của
Tăng Quốc Phiên. Chiết Giang tơi tả, Hàng Châu
thất thủ ; Tả Tông Ðường không rảnh để dòm ngó
đến Tô Châu, Thường Châu ; Lý Hồng Chương chuyển
quân đến, trở thành lực lượng chủ lực nơi này.
Ðối với quân Thanh, việc Anh, Pháp bố phòng
Thượng Hải ; không những bảo toàn được nguồn
lương hướng từ việc đánh thuế thông thương, mà
còn là cơ sở giúp phản công Giang Nam. Vào tháng
3/1862, Thượng Hải Trung ngoại hội phòng cục
mướn 7 chiếc thuyền máy của Anh, chở quân Lý
Hồng Chương tới Thượng Hải ; James Hope phái
quân hạm hộ tống. Ðầu tháng 4, Lý Hồng Chương
mang quân Tương Hoài gồm 6.500, đáp thuyền máy
xuôi dòng Trường Giang, xuyên qua vùng đất quân
Thái Bình đóng “ gõ mạn thuyền hướng về phía
đông, xuyên qua đất giặc hơn 1000 dặm ; vì
thuyền đi nhanh, lại sợ người Tây dương, nên
giặc chỉ đứng xa mà nhìn, không dám đến gần chặn
hỏi.”
Sự nghiệp cuộc đời của Lý, phần lớn liên quan
đến Tây phương ; lúc mới phát tích đã được ngoại
nhân giúp đỡ. Ðến Thượng Hải khoảng một tháng,
nhận chức Tuần phủ Giang Tô, thăng chức nhanh,
giống như Tả Tông Ðường. Lúc bây giờ chiến tranh
lớn mạnh, đến nơi quân Tương Hoài lập tức tham
gia. Lý Hồng Chương biết ngoại quốc đánh giá cao
sự hiện diện của đoàn quân, nên tăng gia liên
lạc, “ muốn dùng Di biến đổi Hạ ”
3. Lý chú ý đến cách tác chiến
Tây phương, nên bàn luận với James Hope giao
3000 quân nhờ sĩ quan Anh huấn luyện dùm ; nhân
“ việc phòng thủ tại Thượng Hải phải tự
cường, không thể chuyên dựa vào Tây dương ”,
nhưng thời thế trước mắt không thể không nhờ sức
lực họ. Ðến tháng 11 thì việc huấn luyện và
trang bị vũ khí Tây phương hoàn tất. Lại cho
rằng Thường thắng quân của “ F. T. Ward trang
bị vũ khí tốt, nên tìm cách liên lạc, đoàn kết
nhân tâm, liên kết với phần tử tốt các nước ”.
F.T. Ward giúp tìm công nhân ngoại quốc chế
đạn dược, cùng mua dùm súng ống ; nhờ vậy thực
lực càng lớn mạnh.
Sau khi F. T. Ward mất, Lý Hồng Chương theo lời
yêu cầu của Ðề đốc Anh, cho một người Mỹ khác là
H.A. Burgevine [Bạch Tề Văn] chỉ huy Thường
thắng quân. Tháng 10/1862, Tương Hoài quân,
Thường thắng quân, cùng quân Anh, Pháp tái chiếm
Gia Ðịnh. Quân Thái bình của Ðàm Thiệu Quang đem
toàn lực phản công, bị đánh thua ; vùng phụ cận
Thượng Hải được tảo thanh. Ðây là chiến thắng
lớn của đạo quân Tương Hoài. Lúc bấy giờ Lý Tú
Thành vây đánh Tương quân ngoài thành Nam Kinh,
Lý Hồng Chương sai Thường thắng quân tiếp viện,
H.A. Burgevine lấy cớ thiếu lương nên lần lữa
không chịu đi. Lại ẩu đả với Ðạo viên Dương
Phường, đoạt 4 vạn nguyên, nên bị Lý Hồng Chương
cách chức. Sau đó Thường thắng quân được chính
thức giao cho người Anh quản lý, do Thiếu tá
Charles George Gordon [Qua Ðăng] chỉ huy.
Tăng Quốc Phiên cho rằng “ quân Thái Bình kết
oán với Tây dương đã sâu, khiến người Tây dương
phẫn giận, đây là cơ hội hiếm có của Trung
Quốc…Thừa lúc Tây dương cử đại binh, quân ta các
đạo cùng tiến ; quân giặc giao chiến không nhàn,
tám phương mê loạn, đây là cơ hội trời diệt bọn
phản nghịch Quảng Tây
4 ”. Ðầu năm 1862, Tăng phái 3 lộ
đại quân : Thứ nhất, quân Tả Tông Ðường tiến
đánh Chiết Giang, thứ hai, quân Lý Hồng Chương
tăng viện Thượng Hải, Lộ thứ ba, đạo quân Tăng
Quốc Thuyên đánh thẳng vào Nam Kinh ; kết quả
Tăng lập đại công khắc phục thủ đô Thái Bình
Thiên Quốc.
Tăng Quốc Thuyên bắt đầu cầm quân từ năm 1856,
đánh thắng tại Cát An [Jian, Giang Tây] vào năm
1858 nên nổi tiếng ; sau khi khắc phục An Khánh,
danh vọng càng cao. Tháng 3/1862 cùng người em
út là Tăng Trinh Can từ An Khánh theo hai bờ
sông Trường Giang đánh xuống phía đông. Quốc
Thuyên theo bờ bắc, Trinh Can theo bờ nam ; ở
giữa Bành Ngọc Lân dùng thủy quân sách ứng ; lại
có Ða Long A đánh phía bắc An Huy, Bảo Siêu phía
nam An Huy để bảo vệ cạnh sườn cho các đạo quân
của hai Tăng. Từ tháng 4 đến tháng 5, quân phía
bắc sông khắc phục được huyện Sào [Chaohu, An
Huy], Hòa Châu [Hexian, An Huy] ; quân phía nam
sông và thủy quân khắc phục được Vu Hồ [Wuhu, An
Huy], Ðường Dư [Dangtu, Nam Kinh] đến gần Vũ Hoa
đài tại phía nam thành Nam Kinh. Từ tuyến xuất
phát An Khánh, đến nơi chỉ mất 60 ngày, hai Tăng
hành quân tương đối nhanh vì những lý do sau
đây : Thứ nhất, Trần Ngọc Thành sau khi thất bại
tại An Khánh, thực lực suy sụp, lại bị kiềm chế
bởi Ða Long A. Thứ hai, quân của các Vương tại
phía nam An Huy như Ðổ vương Hoàng Văn Kim, Phụ
vương Dương Phụ Thanh mấy lần bại bởi Tương quân
dưới quyền Bảo Siêu, nên hai Tăng không bị quấy
nhiễu đằng sau. Thứ ba, lực lượng của Thị vương
Lý Thế Hiền bị Tả Tông Ðường khiên chế ; riêng
Trung vương Lý Tú Thành phải giao tranh với quân
Anh, Pháp và Thường thắng quân tại vùng chung
quanh Thượng Hải, nên nhất thời không chuyển
sang phía tây kịp. Lúc này Thiên Kinh ba lần bị
vây, Tương quân ở ngoài thành có thủy sư liên
lạc, nên không bị lâm vào cảnh quân cô thâm
nhập.
Lý Tú Thành từng tiên liệu việc Tương quân vây
khốn Thiên Kinh, nên chủ trương trữ lương ;
nhưng Thiên vương không nghe, anh em họ Hồng lại
thao túng vơ vét tiền bạc, đến lúc vùng Sào Hồ
bị Tương quân chiếm, nguồn lương đứt đoạn. Trong
vòng 2 năm Thiên Kinh không có bóng quân địch,
đến lúc Tương quân đột ngột đến, Thiên vương
trong ngày ba lần gọi Lý Tú Thành về tiếp viện,
Lý đành phải bỏ dở thế công tại Thượng Hải. Lý
nhận định rằng “ Tương quân từ trên đánh
xuống, thủy quân có lợi thế, ta mệt họ an dật,
ta khó tranh được thủy đạo, quân họ thường
thắng, thế càng thêm hùng ; vậy không nên đánh
ngay. Cần chuyền lương về kinh thật nhiều, đợi
24 tháng sau sẽ giao chiến, quân họ đóng lâu,
tất không có lòng chiến đấu ”. Thiên vương
lại gửi nghiêm mệnh đến, bảo rằng “ Nếu không
tuân chiếu, phép nước khó dung ”. Lý đành
phải miễn cưỡng tuân mệnh. Tháng 10, quân Lý Tú
Thành đến phía nam thành Nam Kinh, đánh Vũ Hoa
đài suốt đêm “ súng pháo Tây dương, đạn bay
như đom đóm ”. Lý Thế Hiền cũng mang quân từ
Chiết Giang đến, khai quật địa đạo tác chiến.
Lúc bấy giờ mùa thu, dịch phát lớn ; Tương quân
bị bệnh quá nửa, Tăng Quốc Thuyên giữ vững lương
thực, liều chết không rút. Qua 4 tháng trời
chiến đấu, quân Thái Bình lương thực không tiếp
tế đủ, áo mùa đông không có, số quân có nhiệm vụ
chặn nguồn lương của Tương quân bị thủy quân
đánh bại. Chiến dịch này kể từ khi khắc phục An
Khánh, là một cuộc đại chiến mang tính quyết
định ; Tăng Quốc Phiên ngũ tạng như đốt “ sức
đã dùng hết, mật như muốn phá ” lo cho công
việc, trải qua mấy năm gian khổ chiến đấu, khỏi
bị thình lình sụp đổ ; kết cục chuyển nguy thành
an. Hồng Tú Toàn động viên toàn lực cũng không
lay động nổi Tương quân ; số mệnh của Thiên Kinh
nằm trong vòng quyết định sẵn.
Hồ Bạch Thảo
1 Tương Hoài quân : đạo quân đoàn luyện
do Lý Hồng Chương thành lập tại Hợp Phì [bắc
An Huy], vùng lưu vực sông Hoài. Sau đó gia
nhập vào Tương quân của Tăng Quốc Phiên, rồi
được phát triển thêm, nên gọi là Tương Hoài
quân hay Hoài quân.
2 Dương nhân trợ yêu : ý nói
người Tây phương trợ giúp yêu quái, tức Mãn
Thanh.
3 Dùng Di biến đổi Hạ : người
Trung Quốc lúc bấy giờ vẫn tự cao, cho người
Tây phương là Dương Di, tự xưng là Hoa Hạ.
4 Thái Bình Thiên Quốc phát xuất từ
Quảng Tây, nên gọi là giặc Quảng Tây.