Chương năm
Thái Bình Thiên
Quốc cùng đường
1 Kỷ
cương bại hoại
Sách lược của Thái Bình Thiên Quốc về tín
ngưỡng, chính trị, kinh tế, xã hội từng thi thố,
cho dù bị bài xích rằng xảo trá quỉ quyệt ;
nhưng buổi biến loạn cũng thu được một số hiệu
quả trong việc mê hoặc lòng người. Lúc mới khởi
sự, trên dưới một lòng, đồng cam cộng khổ, những
người lãnh đạo vào tuổi thanh niên
1, dõng khí bồng bột, chiếm vào
đa số. Kể từ giữa thời kỳ cho đến giai đoạn
cuối, lắm điều sai trái xẩy ra, rồi đi đến bại
vong. Ðương nhiên thời thế đóng góp một phần,
nhưng nội bộ hủ hóa, ác hóa, đánh mất tinh thần
phấn đấu vẫn là nguyên nhân chính.
Ðối với quân Thái Bình tôn giáo có ảnh hưởng
lớn, nhưng cũng gây di lụy không ít. Tôn giáo
giúp cho Hồng Tú Toàn thu phục không ít tín đồ
một lòng trung thành hy sinh ; nhưng cũng khích
động sự phản kháng của phe truyền thống danh
giáo, đi đến chỗ cừu địch, thế hai bên không
cùng tồn tại. Hồng vốn dựa vào tôn giáo để lừa
người, nhưng nó lại là dao hai lưỡi, đâm ngược
vào chính mình. Thuyết “ Thiên phụ hạ phàm ” lúc
khởi đầu, chấp nhận Dương Tú Thanh quyền lực
ngang ngữa với Hồng, để rồi gây nên một loạt nội
biến tại Thiên Kinh, tổn thương phần lớn sinh
lực. Dùng tôn giáo mê người, rồi ngược lại mê
đến chính mình ; Hồng một mực tin ở trời, không
tin sức người. Sau khi An Khánh thất thủ, Lý Tú
Thành khuyên nên phòng bị Tương quân vây Thiên
Kinh, Hồng mắng rằng “ Ngươi sợ chết ! Ta vốn
mệnh là chân chúa, không cần dùng binh cũng định
thái bình nhất thống ” !
Sau cuộc nội loạn tại Thiên kinh, Hồng Tú Toàn
chỉ tin người trong họ ; dù bất tài cũng sủng
hạnh, để cho bọn chúng làm quấy làm xằng, khiến
lòng người chia lìa. Lý Tú Thành từng khuyên “
chọn người tài mà dùng, theo chế độ cấp tuất cho
dân, thân nghiêm pháp lệnh, nghiêm túc kỷ cương
triều đình ”, nhưng Hồng không nghe. Những người
trong họ, chỉ riêng Hồng Nhân Can có kiến thức,
nhưng thiếu công trạng, đến Thiên Kinh chỉ mới
nửa năm được phong làm quân sư, từ khi chấp
chính “ các tướng dưới quyền không phục, thế
giặc trở nên suy, đều do tại đó ”. Năm 1961,
Hồng Nhân Can điều động viện binh cứu An Khánh
thất bại, bị cách chức. Bèn tin dùng hai người
khác cùng họ là Hồng Nhân Phát, Hồng Nhân Ðạt,
thì tình hình càng trở nên bại hoại, Lý Tú Thành
lại đem lời tâu, lần này Thiên vương không những
không nghe, lại còn giận dữ bảo “ việc chính sự
không can dự gì đến ngươi…”.
Lạm phong chức tước cũng là một đòn chí mệnh
đánh vào quân Thái Bình. Thời kỳ đầu, ngoại trừ
Ðông, Tây, Nam, Bắc, Dực, 5 vương, còn có Yên
vương Tần Nhật Cương, Dự vương Hồ Dĩ Quang. Sau
cuộc nội biến tại Thiên kinh ngoài Trần Ngọc
Thành, Lý Tú Thành, anh em nhà họ Hồng cũng được
phong vương. Sau đó vì nghi kỵ nên dưới các
tướng chỉ huy lại có thêm vương để chia bớt
quyền. Trước kia chủ tướng có một vài người, sau
đó tăng thêm đến số trăm ; ngoài ra còn có Thiên
tướng, Triều tướng, Tá tướng thì không kể hết
hết được. Nói tóm lại bộ máy chỉ huy cồng kềnh,
tiêu phí ; nhưng nghi kỵ lẫn nhau, hoạt động
không hiệu quả.
Các vương có
quyền thế sống xa hoa, xây dinh thự lớn ; Lý Tú
Thành cũng nằm trong số đó. Phó Lãnh sự Anh R.
J. Forrest [Phúc Lễ Tứ] kể rằng dinh thự Trung
vương có hàng ngàn thợ xây cất, tráng lệ không
thua gì phủ Thiên vương, nón của vương đúc bằng
vàng, nạm bởi châu báu. Lý Hồng Chương mô tả
Trung vương phủ tại Tô Châu [Shuzhou, Giang Tô]
do 700 thợ tu tạo, 3 năm trời chưa xong, có lầu
quỳnh gác ngọc, lan can quanh co, đẹp như chốn
thần tiên. Một người Anh nói triều đình Nam Kinh
[Nanjing] không lo cho dân, chỉ cướp bóc mà
sống, lại hủ hóa rượu chè, hút nha phiến, cờ bạc
thịnh hành.
2. Toàn cục sụp đổ
Năm 1857, Dực vương Thạch Ðạt Khai bỏ đi, liên
quan đến vận mệnh của Thái Bình Thiên Quốc rất
lớn, vì không những mất đi một tướng tài, lại
còn bị tước mất số lượng lớn quân. Vùng phụ cận
An Khánh [Anquing, An Huy] sáu, bảy vạn quân bỏ
đi theo, tại Giang Tây [Jiangxi] lại càng đông ;
tính ra quân Thái Bình thiệt mất khoảng một nửa.
Vào năm 1859, Thạch Ðạt Khai hành quân từ phía
đông Giang Tây qua phía tây Chiết Giang
[Zhejiang], rồi vòng sang phía nam Giang Tây
[Jiangxi], đến phía tây Hồ Nam [Hunan] ; có ý
định tiến sang Tứ Xuyên [Sichuan], nhưng bị lực
lượng Tương quân của Lưu Trường Hữu, Lý Tục Nghi
đánh bại tại Bảo Khánh [Baoquing, Hồ Nam], đành
chuyển đường sang Quảng Tây [Guangxi].
Bộ hạ của
Thạch khoảng 20 vạn quân, phần đông là dân thuộc
lưu vực sông Trường Giang [Changjiang] và Quảng
Ðông [Guangdong] Thiên Ðịa hội ; sau thất bại
tại Bảo Khánh, lòng quân tan rã, bỏ đi rất đông.
Sau khi vào đến Quảng Tây, thiếu lương thực,
tiền đồ mờ mịt, sĩ khí táng thất ; hoặc bỏ đi về
phía đông, hoặc bị thua bại, suy sụp đến cực độ.
Năm 1861, Thạch mang tàn quân khoảng 1 vạn trở
lại tỉnh Hồ Nam, tại vùng biên địa các tỉnh Hồ
Nam [Hunan], Hồ Bắc [Hubei] ; năm sau di chuyển
đến đông nam tỉnh Tứ Xuyên.
Tứ Xuyên là tỉnh đất hiểm, dân giàu ; một trong
những nguồn lương thực chính của nhà Thanh. Năm
1859, Lam Ðại Thuận, Lý Vĩnh Hòa khởi binh tại
vùng giáp giới các tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam,
chiếm cứ Lương Sơn [Liangshan, Tứ Xuyên], gần
tỉnh lỵ Thành Ðô [Chengdu, Tứ Xuyên], thanh thế
phấn chấn; Thạch Ðạt Khai mưu tìm cách liên lạc.
Tổng đốc Lý Bỉnh Chương mang Tương quân đến
đánh ; Lam, Lý bị thua, chẳng bao lâu Lý tử
trận. Năm 1863 Thạch Ðạt Khai đi vòng qua biên
giới tỉnh Vân Nam [Yunnan], vượt qua thượng du
sông Trường Giang, đến sông Ðại Ðộ Hà [Daduhe,
Tứ Xuyên] bị ngăn trở ; rồi gặp quân Thanh và
Thổ ty giáp công, toàn quân tiêu diệt, Thạch Ðạt
Khai bị bắt.
Năm 1862
đánh nhau tại ngoại thành Nam Kinh [Nanjing], Lý
Tú Thành không giải vây được. Năm sau, Lý vượt
sông Trường Giang tiến về phía tây, mưu liên hợp
với bộ hạ cũ của Trần Ngọc Thành, cùng quân
Niệm ; nhắm chiếm cứ phía bắc tỉnh An Huy, lay
động đại doanh Tương quân tại An Khánh cùng đả
thông nguồn lương thực đất Sào Hồ [Chaohu, An
Huy] ; nhưng bộ hạ đánh không hăng, không lập
được công, đành phải rút lui. Lúc này vào mùa
giáp hột
2, quân chết đói không ít. Tháng
6, từ Phố Khẩu [Pukou, Nam Kinh] đạo quân Lý lại
vượt sông Trường Giang ; bị Tương quân thủy, bộ
đánh chẹn, chết mất hàng chục vạn, đây là trận
đại thảm bại. Lúc này quân Thái Bình chỉ còn
khống chế bờ phía nam sông Trường giang, vùng Tô
Châu, Hàng Châu [Hangzhou, Giang Tô] và Nam
Kinh.
Tháng 7 năm
1863, Tương Hoài quân của Lý Hồng Chương và
Thường thắng quân tiến đánh Tô Châu ; các tướng
chủ lực có Trình Học Khải, Charles George Gordon
[Qua Ðăng], cùng quân hạm và Dương thương đội do
người Pháp huấn luyện. Lúc này H.A. Burgevine
[Bạch Tề Văn] đã bị cách chức, ôm hận nên theo
quân Thái Bình tại Tô Châu, nhưng không được vừa
ý. Tháng 9, Lý Tú Thành mang quân từ Thiên Kinh
đến Tô Châu tiếp viện, cùng với Mạc vương Ðàm
Thiệu Quang phản công bất lợi, dịp này H. A.
Burgevine hàng Charles George Gordon. Tháng 11,
Thái Bình Thiên Quốc có nội biến, Lý Tú Thành
cho rằng tình thế không thể làm gì hơn, bèn bỏ
thành hướng về phía tây. Tháng 12, Nạp vương Cáo
Vĩnh Khoan giết Ðàm Thiệu Quang mở cửa thành xin
hàng, Trình Học Khải vào thành giết bọn Cáo Vĩnh
Khoan. Charles George Gordon, chỉ huy Thường
thắng quân, kịch liệt chống đối Lý Hồng Chương,
không chịu sự tiết chế của Lý ; vì trước đây
Charles từng bắt giây liên lạc với Cáo Vĩnh
Khoan, việc giết Cáo làm hỏng chính sách chiêu
hàng của y. Bộ hạ Lý Hồng Chương đánh chiếm Vô
Tích [Woxi, Giang Tô], rồi lên phía bắc tấn công
Thường Châu [Changzhou, Giang Tô]. Quân Thái
Bình tại nơi này, sợ hàng sẽ bị giết như tại Tô
Châu, nên liều mình cố thủ. Tháng 2/1864 Charles
Georges Gordon tuân lệnh Công sứ Anh Frederick
W. A. Bruce [Bốc Lỗ Tư] điều Thường thắng quân
tham chiến ; tháng 5 quân Thường thắng giúp quân
Tương Hoài đánh chiếm được Thường Châu. Lúc này
chiến sự đến hồi cuối, Thường thắng quân giải
tán ; trong vòng gần 4 năm, Thường thắng quân
dùng lương đến ngàn vạn nguyên ; có công giúp Lý
Hồng Chương bình định Giang Nam tương đối lớn.
Bộ phận Chiết Giang [Zhejiang] của Tả Tông Ðường
từ tháng 4/1863 vây Phúc Dương [Fuyang, Chiết
Giang], lâu ngày không hạ được ; đến tháng 9,
Paul d’Aiguebelle [Ðức Khắc Bi] chỉ huy Thường
tiệp quân từ phía đông Chiết Giang đến tăng
cường mới chiếm được. Rồi trải qua 6 tháng trời
khổ chiến, đến tháng 3/1884 quân Thái Bình bỏ
thành Hàng Châu chạy ; quân của Tả cùng Thường
tiệp quân xông vào cướp bóc. Cùng tháng, đạo
quân của Lý Hồng Chương chiếm được Gia Hưng
[Jiaxing, Chiết Giang], các thành phụ cận đều
xin hàng.
Mùa đông năm
1863, quân Tăng Quốc Thuyên đã chiếm hết các vị
trí quan trọng xung quanh thành Nam Kinh. Sau
khi thành Tô Châu thất thủ, Lý Tú Thành thấy
tình hình hết phương cứu vãn, Nam Kinh không có
lương, binh lực chỉ còn hơn 1 vạn, khuyên Hồng
Tú Toàn bỏ thành chạy, để cầu con đường khác.
Hồng không nghe, nói rằng “ Trẫm phụng Thượng đế
cùng Thiên huynh Gia Tô thánh chỉ xuống trần, là
chân chúa độc nhất cho cả nước, thì có sợ gì ai
? Trẫm là thùng sắt của giang sơn, nếu ngươi
không phò thì cũng có kẻ khác phò. Ngươi nói
không có binh, ta có thiên binh dưới nước, lại
còn sợ tên yêu họ Tăng ư ! ”. Trong thành cướp
bóc nổi như ong, “ Tăng quân ngày đêm bức bách,
trong ngoài kinh hoàng, giữ doanh giữ thành
không biết dựa vào đâu ” ; không ít chỉ huy cao
cấp ngầm thông với địch, trong đó có cả Lý Tú
Thành. Ðến lúc thất thủ Thường Châu, Hồng Tú
Toàn cảm thấy tuyệt vọng ; ngày 30/5/1884 lệnh
đại chúng an tâm “ Trẫm lên thiên đường ngay,
xin Thiên phụ, Thiên huynh sai Thiên binh bảo vệ
Thiên kinh ” ; có thể thấy đến lúc chết Hồng vẫn
chưa tỉnh ngộ, còn tự lừa mình, lừa người. Sau
hai ngày, Hồng uống thuốc độc tự tử, thọ 52
tuổi. Con nhỏ gọi là ấu chúa Hồng Thiên Quý Phúc
kế vị.
Kể từ tháng
4, khoảng 5 vạn Tương quân vây thành, dùng trăm
cách đánh phá thành, thương vong đến 1/10. Hoài
quân đã chiếm được Thường Châu, triều đình nhà
Thanh muốn chiếm gấp Nam Kinh, mệnh Lý Hồng
Chương đưa pháo đội đến cùng đánh. Lý biết rằng
Tăng Quốc Phiên muốn Tăng Quốc Thuyên lập đại
công, nên kiếm lời từ chối. Tăng Quốc Thuyên báo
cáo thiếu lương chứ không thiếu quân ; rồi khai
quật thêm địa đạo, dùng tạc đạn phá đổ thành ;
ngày 19/7/1864 tức ngày 16/6 năm Ðồng Trị thứ
ba, Tương quân đột nhập thành. Lúc này bốn phía
lửa dấy lên, quân Thái Bình tung lời “ Không để
lại một miếng vải thừa cho bọn yêu hưởng ”.
Trong 3 ngày “ giặc đốt 3 phần, thì quân binh
đốt 7 phần, khói tỏa ngút lên mấy chục chỗ, kết
tụ trên không trung, bao phủ đồi núi bởi màu
tím ”. Tương quân ham cướp đoạt, lấy hết vàng
bạc, bảo vật, rồi phóng hỏa đốt để diệt tung
tích. Ngoài quân Thái Bình ra, dân chúng cũng bị
tàn sát ; số người chết ước hai, ba chục vạn.
Lý Tú Thành
mang ấu chúa đột kích ra khỏi thành, giữa đường
thua bại, Lý bị bắt. Sau đó Tăng Quốc Phiên đến,
ra lệnh tự viết cung từ, viết xong thì giết,
tuổi 40 ; nhờ vậy lưu lại bộ sử liệu giá trị về
Thái Bình Thiên Quốc. Riêng ấu chúa được đưa đến
Hồ Châu [Huzhou, Chiết Giang] ; vào tháng 8/1864
quân của Lý Hồng Chương, Tả Tông Ðường đánh đuổi
quân Thái Bình tại thành Hồ Châu và phụ cận. Bọn
Hồng Nhân Can đưa ấu chúa đến Giang Tây hội với
Thị vương Lý Thế Hiền và Khang vương Uông Hải
Dương. Tháng 11, Ấu chúa bị bắt tại phía đông
tỉnh Giang Tây ; riêng Lý Thế Hiền chạy sang
Quảng Ðông [Guangdong], đến Phúc Kiến, rồi chiếm
lãnh Chương Châu [zhangzhou] và các thành phía
nam Phúc Kiến [Fujian]. Tả Tông Ðường, Lý Hồng
Chương cho quân đến đánh, tháng 5/1865 khắc phục
Chương Châu ; sau đó Lý Thế Hiền bị Uông Hải
Dương giết. Rồi quân Uông ra vào tại vùng biên
giới các tỉnh Quảng Ðông, Phúc Kiến, Giang Tây,
chiếm cứ vùng Gia Ứng [Jiaying], tỉnh Quảng
Ðông, đến năm 1866 bị quân Tả Tông Ðường tiêu
diệt.
Do Lý Tú
Thành sai phái đi miền tây mộ quân về cứu Thiên
kinh, năm 1862 Phù vương Trần Ðắc Tài và Tuân
vương Lại Văn Quang xuất phát từ phía bắc tỉnh
An Huy [Anquing], qua Hà Nam, đến miền Hán Trung
[Hanzhong] Thiểm Tây [Shaanxi]. Năm 1864 chia
đường trở lại phía đông, hợp với quân Niệm vào
tỉnh Hồ Bắc, thì hay tin Nam Kinh đã mất, chần
chừ tại Hồ Bắc, An Huy ; bị quân Tăng Cách Lâm
Thấm đánh thua, Trần Ðắc Tài tự tử. Riêng Lại
văn Quang hợp tác với Niệm, trở thành cục diện
mới.
3. Quân Niệm lớn mạnh và công cuộc bình định
Hoạt động quân sự của Thái Bình Thiên Quốc thời
hậu kỳ hạn chế tại phía nam sông Trường Giang có
liên quan nhiều đến quân Niệm tại vùng Giang
Hoài ; nửa số quân của Trần Ngọc Thành, Lý Tú
Thành thời đó đều là quân Niệm. Căn cứ địa của
quân Niệm nguyên tại phía bắc sông Hoài, vào năm
1858 tiến vào tỉnh Hà Nam [Henan] và phía tây
tỉnh Sơn Ðông [Shandong] ; tuy chuyên tâm cướp
bóc, nhưng cũng làm thế thanh viện cho quân Thái
Bình. Năm sau chia đường tung ra bốn phương,
phía đông đến miền đông tỉnh Sơn Ðông, phía tây
đến miền tây tỉnh Hà Nam ; đi về vãng lai, đánh
vào những nơi sơ hở. Năm 1860, cánh phía tây
cướp phá Khai Phong [Kaifeng], tỉnh Hà Nam, tung
hoành trên 30 châu huyện ; cánh phía đông quấy
nhiễu Tế Ninh [Jining], Thái An [Taian] tỉnh Sơn
Ðông, kinh qua 20 châu huyện. Rồi quay lại phía
bắc An Huy, trên đường “ chở hàng trăm xe lương,
súc vật đến mấy vạn, vừa đi vừa ca hát.”
Năm 1961, quân Niệm càng lớn mạnh, cánh phía tây
phối hợp với quân Thái Bình của Trần Ngọc Thành
đánh phía tây, từ tháng 2 đến tháng 5, một nhánh
vào phía nam tỉnh Hà Nam, một nhánh vào miền
đông, miền trung, kinh qua các vùng Nam Dương
[Nanyang, Hà Nam], Trịnh Châu [Zhengzhou, Hà
Nam], phá Lão Hà Khẩu [Laohekou] tỉnh Hồ Bắc,
rồi quay trở lại Hào Châu [Bozhou, An Huy]. Vào
tháng 11, lại sang phía tây, một nhánh đánh Khai
Phong, Trịnh Châu, Lạc Dương [Luoyang, Hà Nam] ;
một nhánh đánh Tương Dương [Xianyang], Phan
Thành [Fancheng] thuộc tỉnh Hồ Bắc. Cánh phía
đông vào tỉnh Sơn Ðông, mấy lần đánh bại quân
Tăng Cách Lâm Thấm từ kinh đô đến, hai lần bức
bách Tế Nam [Jinan, Sơn Ðông]. Quân của Tăng
Cách “ bôn tẩu mệt mỏi, lương thảo không liên
tục ” nên chỉ giữ sông Hoàng Hà làm vững cho
tỉnh Trực Lệ [Hebei]. Quân Niệm xua đến phía
đông, tiến đến Yên Ðài [Yantai], bị quân Anh,
Pháp đánh lui. Cũng vào năm 1861, Bạch Liên giáo
tại Sơn Ðông nổi lên như ong, tại phía nam có
Tống Kế Bằng, sau đó có Trương Tích Châu ; miền
trung có Lưu Ðức Bồi.
Từ năm 1861
đến 1863, Tăng Cách Lâm Thấm bôn ba đánh dẹp
trong 4 tỉnh : Trực Lệ, Sơn Ðông, Hà Nam, An Huy
; sau khi quân Thái Bình thất bại tại miền bắc
An Huy, thế lực quân Niệm suy vi. Năm 1863 Tăng
Cách Lâm Thấm đánh bại Trĩ Hà Tập, bắt sống
Trương Lạc Hành, kế đó lại dẹp Miêu Bái Lâm. Bộ
phận còn lại của Trương Lạc Hành do người cháu
là Lương vương Trương Tông Vũ, cùng Lỗ vương
Nhậm Hoa Bang thống suất, di chuyển chiếm cứ
vùng Hà Nam, sau đó hợp với Tuân vương Lại Văn
Quang. Lại Văn Quang mưu lược, Trương Tông Vũ cơ
trí, Nhậm Hoa Bang rất thiện chiến; chuyên áp
dụng chiến thuật di chuyển nhanh đánh bất chợt.
Từ năm 1861 trở đi, triều đình nhà Thanh dựa vào
chủ soái Tăng Cách Lâm Thấm ngăn chặn vùng lưu
vực các sông Hoàng, Hoài ; cùng với Tăng Quốc
Phiên tại lưu vực sông Trường Giang nghiễm nhiên
trở thành hai cột trụ ; tuy nhiên cả hai không
dung hợp với nhau. Bộ hạ của Tăng sau khi bị
liên quân Anh Pháp đánh bại, gom góp thành quân,
tinh thần chiến đấu so trước thua xa, lại vô kỷ
luật, đi đến đâu thì giết nhiều người, nên dân
chúng rất ghét hận. Từ tháng 9 đến tháng
12/1864, quân Niệm mấy lần đánh bại quân Tăng
Cách tại phía nam tỉnh Hà Nam, phía đông tỉnh Hồ
Bắc, cùng vùng biên giới hai tỉnh này. Năm sau
1/1865 lại đánh bại tại huyện Lô Sơn [Lushan]
phía tây tỉnh Hà Nam ; tháng 5 quân Niệm di
chuyển nhanh đến vùng biên giới các tỉnh Sơn
Ðông, Giang Tô ; Tăng Cách truy đuổi đến cùng
không tha. Ngày 18/5 toàn quân của Tăng Cách bị
tiêu diệt tại Tào Châu [Caozhou] tỉnh Sơn Ðông.
Quân Niệm sở trường về di chuyển nhanh, đánh
nhanh ; mỗi lần đánh cho kỵ binh tỏa ra bốn phía
“ Trinh sát quan quân đến, nếu mạnh thì tránh ;
được thế thì truy kích suốt đêm, dương cờ đánh,
dùng kỵ binh đánh ép hai bên, ngựa hý người reo
nhanh như vũ bão, quan quân thường bị vây không
ra được ” ; đến nay lại lấy được toàn số ngựa
của quân Mông Cổ dưới quyền Tăng Cách, thì như
hổ thêm cánh.
Sau khi Tăng Cách Lâm Thấm mất, miền Hoa bắc
chấn động, kinh sư giới nghiêm. Chiếu chỉ mệnh
Tăng Quốc Phiên đốc biện quân vụ 3 tỉnh : Trực
Lệ, Sơn Ðông, Hà Nam. Lại mệnh Tổng đốc Trực Lệ
Lưu Trường Hữu, Thiên Tân thông thương Ðại thần
Sùng Hậu thống lãnh Dương thương đội chặn giữ
phía nam tỉnh Trực Lệ ; Lý Hồng Chương cũng mang
quân từ Thượng Hải lên tăng phòng Thiên Tân.
Tăng Quốc Phiên cho rằng Tương quân phần lớn
người phương nam, không hợp thủy thổ, nên giải
tán một nửa ; cho mộ thêm quân tại lưu vực
Hoàng, Hoài ; lại mua ngựa chiến, chuẩn bị pháo
thuyền, đến hơn một tháng mới lên phía bắc.
Chiến lược của Tăng đổi truy kích thành chặn
đánh, lấy tĩnh chế động. Tăng chia thành 4 trấn,
đóng trọng binh chứa nhiều lương thảo, gồm : Chu
Gia Khẩu tại tỉnh Hà Nam, Tế Ninh [Jining] Sơn
Ðông, Từ Châu [Xuzhou] Giang Tô, và Lâm Hoài
quan [Linhuaiguan] An Huy. Cứ một nơi có khẩn
cấp, thì 3 nơi khác đến tiếp cứu ; để bao vây
quân Niệm tại biên giới 3 tỉnh An Huy, Giang Tô,
Hà Nam. Ngoài ra nhắm khống chế vùng đất căn bản
của Niệm như Hào Châu [Bozhou, An Huy], Mông
Thành [Mengcheng, An Huy], Túc Châu [Suzhou, An
Huy], thì cho đặt bảo giáp, kiểm tra hộ khẩu
cùng lương thực tiếp tế. Binh lực 4 trấn khoảng
8 vạn, 3 trấn do Hoài quân đảm trách, riêng trấn
Lâm Hoài Quan do Tương quân chịu trách nhiệm ;
lý do Hoài quân phần lớn người phương bắc, hợp
với thủy thổ.
Sau khi tiêu
diệt quân Tăng Cách Lâm Thấm, quân Niệm trở về
phía bắc sông Hoài, dưỡng quân và bổ sung. Nhắm
đột phá kế hoạch bao vây của Hoài và Tương quân,
Niệm hành quân xuyên qua tỉnh Hà Nam, đến Hồ Bắc
gần Hán Khẩu [Hankou] ; mùa xuân năm 1866, trở
lại Sơn Ðông. Chiến lược chặn đánh từ 4 trấn của
Tăng Quốc Phiên chứng tỏ vô hiệu.
Tăng bèn đổi
chiến lược, cho đắp đê tường dọc sông. Phía bắc
từ vùng phụ cận phủ Khai Phong theo sông Giả Lỗ
Hà đến Chu Gia Khẩu, từ Chu Gia Khẩu theo Sa Hà
đến Hòe Trạm, Dương Quan ; đó là tuyến phía tây,
Từ Dương Quan theo sông Hoài đến Lâm Hà Quan
thuộc tuyến phía nam. Tuyến phía đông giữ Vận Hà
[Yunhe], tuyến phía bắc giữ Hoàng Hà ; nhắm đưa
quân Niệm vào vùng nhiều núi để chế ngự kỵ binh.
Vào mùa đông năm đó quân Niệm đột phá phòng
tuyến vùng Khai Phong tiến đến Sơn Ðông ; chiến
lược phòng thủ bờ sông của Tăng Quốc Thuyên cũng
thất bại. Quân Niệm tuy vượt qua tuyến phía bắc,
nhưng bị ngăn chặn tại tuyến phía đông, Vận Hà ;
nên đành phải quay về phía nam tỉnh Hà Nam.
Trong vòng 3
năm, quân Niệm mấy lần đánh thắng, nhưng Lại Văn
Quang cảm thấy cô quân khó chi trì, nên sai
Trương Tông Vũ tây tiến đến Thiểm Tây, Cam Túc
[Gansu] liên hiệp với quân Hồi để làm thế ỷ dốc.
Lại và Nhậm Hóa Bang lưu lại Trung Nguyên, do
vậy có tên là Ðông Niệm, Tây Niệm. Tăng Quốc
Phiên đốc quân mấy năm không có kết quả, lại bị
Ngôn quan
3 đàn hặc, nên xin từ chức ;
chiếu chỉ sai Lý Hồng Chương thay thế giữ chức
Khâm sai đại thần. Lại Văn Quang điều quân Ðông
Niệm trở lại Hồ Bắc, từ tháng 1 đến tháng 3/1867
mấy lần đánh bại Hoài quân, Tương quân tại phía
bắc và đông tỉnh Hồ Bắc. Thời đương quyền, Tăng
Quốc Phiên cũng cảm thấy khó khăn chỉ huy Hoài
quân ; đến Lý Hồng Chương kế vị, quân Tương,
Hoài lại càng chia rẽ. Tháng 6, Ðông Niệm từ Hồ
Bắc tiến quân nhanh trong vòng 8 ngày đến Sơn
Ðông, giao chiến với quân Lý Hồng Chương tại
Giao Lại hà [Jiaolai river, Sơn Ðông] bị thua,
mất phần lớn quân tinh nhuệ. Tháng 1/1868, Lại
Văn Quang bị bắt, dẹp xong toàn bộ Ðông Niệm.
Sau khi Tây Niệm Trương Tông Vũ vào tỉnh Thiểm
Tây, đại phá quân Thanh tại vùng phụ cận Tây An
[Xian, Thiểm Tây]. Nhân bị áp lực của Lưu Tùng
Sơn, Tương quân, cùng Tổng đốc mới đáo nhiệm Tả
Tông Ðường ; bèn di chuyển lên phía bắc Thiểm
Tây. Rồi Tây Niệm tìm cách liên lạc với Hồi
nhưng không thành, bèn vượt sông Hoàng Hà về
phía đông đến tỉnh Sơn Tây, Trực Lệ, mưu tăng
viện cho Ðông Niệm. Tháng 2/1868 đến gần Bảo
Ðịnh [Baoding, Hà Bắc], kinh sư chấn động. Quan
binh hơn 10 vạn, không chặn được quân Niệm thoán
vượt, các tướng lãnh nhìn ngó nhau không hành
động kịp thời, quân lính nhiễu dân, “ dân thù
quan binh hơn thù giặc ”. Hơn nữa hiệu lệnh bất
nhất, Tả Tông Ðường thống binh Trực Lệ, ngoài Tả
ra còn có hai viên Quân cơ đại thần ; Lý Hồng
Chương tiết chế quân Sơn Ðông, ngoài Lý ra còn
có 2 vị Tuần phủ ; riêng Tả, Lý cũng không hòa
hợp. Niệm tiến đến ngoài thành Thiên Tân, rồi
quay xuống Sơn Ðông, mấy lần đánh Vận Hà. Vào
tháng 7/1868 đến biên giới hai tỉnh Trực Lệ, Sơn
Tây, trời mưa mấy ngày như trút nước, cả vùng
biến thành biển hồ, quân kỵ không hoạt động
được ; bị Hoài quân vây khốn tại vùng tây bắc
tỉnh Sơn Ðông, Trương Tông Vũ nhảy xuống sông
chết, bình định được Tây Niệm.
Từ năm 1864 đến 1868, quân Niệm rong ruổi trong
8 tỉnh : An Huy, Hà Nam, Giang Tô, Sơn Ðông, Hồ
Bắc, Thiểm Tây, Sơn Tây, Trực Lệ ; sau khi làm
tổn thất Tương, Hoài cùng quân các tỉnh, mới
được đãng bình. Tuy quân Niệm thiện chiến, thực
do quan binh khí lực suy vi. Hoài quân là lực
lượng chủ lực đánh Niệm, thì kiêu căng buông
thả, chỗ dựa chính nhờ pháo Tây đương. Niệm loạn
bình, đảng Thái bình Thiên quốc mới được cho là
hoàn toàn bị tiêu diệt; kể từ thời cử sự tại
Quảng Tây cho đến lúc này là 19 năm.
1 Lúc mới khởi sự tại Kim Ðiền, Hồng Tú
Toàn 37 tuổi, Phùng Vân Sơn bạn học cùng
trang lứa ; Lý Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, Vi
Chính đều trên dưới 20 tuổi ; Tần Nhật Cương
trên 20 tuổi.
2 Giáp hột (hạt) : thời gian nằm giữa
hai mùa lúa, thời điểm thiếu lương thực
trong năm.
3 Ngôn quan : quan chuyên về thanh tra
để tâu lên triều đình, còn gọi là Ngự sử.