Xin bấm vào để xem trọn bài
về Gioan La San và
Dòng các
Sư huynh nơi bài
"Jean Baptiste de la
Salle."
1)
Thời kỳ mở đầu
Năm 1892, Pháp
chiếm sáu tỉnh miền Nam và thiết lập chế đô thuộc
địa ở trên phần đất này. Chánh quyền Pháp rất
cần thông ngôn để làm trung gian giữa các quan cai
trị người Pháp và dân thuộc địa. Muốn có người
đi học làm thông ngôn, chánh quyền Pháp cần mở
trường để dạy tiếng Pháp và tiếng Việt (chữ quốc
ngữ) cho trẻ em, để chuẩn bị một đội ngũ có thể vào
học trường thông ngôn. Vì thế, khoảng
cuối năm 1865 có sáu Sư huynh rời Toulon sang Việt
Nam. Khi đến Sài gòn vào đầu năm
1866 các Sư huynh đã bắt tay ngay vào việc điều
khiển trường Trung học Adran (Collège d'Adran)
9
vốn đã được các linh mục thuộc Hội Thừa sai mở ở
Sài gòn từ năm 1861. Mọi chi phí ăn ở, giảng
dạy (trường sở, tập sách và trợ huấn cụ) của các Sư
huynh và học sinh đều do Hội Thừa sai đài thọ.
(Xin xem Nguyễn văn Trung để biết thêm vì sao Pháp
dạy chữ quốc ngữ).
Vì dạy tiếng Việt (chữ quốc ngữ) mà không dạy chữ
nho nên việc dạy học của các Sư huynh có kết quả rất
tốt. Nhiều nơi như Chợ Lớn, Mỹ tho đã
xin mở trường vào năm 1867, rồi Vĩnh Long và Sóc
trăng, vào năm 1869. Chánh quyền Pháp ở
thuộc địa đã tài trợ phần nào các trường mới mở và
cấp học bổng cho học sinh. Nhưng đến năm 1879,
chánh quyền ở Pháp thay đổi chánh sách với các
trường tư. Chánh quyền thuộc địa ngưng
cấp học bổng và không tài trợ nữa. Trường
Adran phải đóng cửa vào khoảng 1887.
Vào năm 1873, linh mục Kerlan có mở một trường nghĩa
thục dạy các trẻ bị bỏ rơi, trong số đó có nhiều trẻ
lai. Trường được gọi theo tên Giám mục
Taberd, giám mục địa phận Nam Việt từ 1830 đến 1840.
Khi trường Adran đóng cửa, cha mẹ học sinh trường
này đem con đến theo học trường Taberd.
Linh mục Kerlan thấy không đủ sức lo cho những học
trò mới liền mời các Sư huynh Dòng La San trở qua
giúp ông. Năm 1889 có chín Sư huynh từ
Marseille qua. Năm sau đó, các Sư huynh tiếp
nhận trường Taberd, lúc đó có khoảng 160 học sinh mà
một nửa ở nội trú. Số học trò theo
học tăng nhanh, nên năm 1891 có thêm năm Sư huynh
theo qua, mở thêm một trường nghĩa thục nằm ngay
cạnh trường Taberd. Các Sư huynh lại mở
thêm một chi nhánh ở Vũng tàu. Do
sự sắp xếp của linh mục Kerlan, Hội Thừa sai gánh
chịu trách nhiệm tài chánh đối với những trường
do các Sư huynh điều hành và giảng dạy.
Năm 1894, hai Sư huynh ra Hà nội mở trường.
Số học sinh tăng lên rất nhanh. Giám mục Hà nội là
Gentreau phải mua một thửa đất rộng hơn để xây cất
trường mới. Trường được khánh thành năm 1897,
có 400 học sinh, và được đặt tên là Trường
Puginier, tên vị Giám mục tiền nhiệm.
Trước đó, vào tháng 1 năm 1896, các Sư huynh ở Ðông
Dương được tách ra khỏi Tỉnh Dòng Ấn độ để thành lập
Tỉnh Dòng Sài gòn.10
Năm 1897, trường Taberd được mở rộng thêm.
Năm 1898, Dòng mở trường đào tạo thày giáo ở Thủ
Ðức, cạnh tiểu chủng viện đã được mở năm trước đó
nhằm đào tạo các Sư huynh tương lai cho Dòng.
2) Thời kỳ khuếch trương và
củng cố
Ðến thời điểm này, Dòng La San ở Việt nam đã có sáu
trường,
76 Sư huynh,
17 người tập sự học ở nhà tập sư phạm, và
6 chủng sinh.
Chánh quyền Pháp ở Ðông Dương đã ngưng yểm
trợ các nhà trường và không tài trợ cho Dòng nữa.
Tuy thế, các Sư huynh đã không ngừng nghỉ, lại phát
triển các công tác giảng dạy của Dòng.
Năm
1904, mở trường Pellerin
(sau này gọi là trường Bình Linh) ở Huế;
năm 1906,
trường
St.
Joseph (Thánh Giu se) ở
Hải phòng và trường Dòng ở
Battambang (Cao mên);
năm 1908,
mở trường
St. Joseph
(Thánh Giu se) ở Mỹ tho;
năm
1911, mở trường
Miche ngay trong thủ đô Nam vang của
Cao mên.
Năm
1924, mở trường
Thomas d'Aquin
ở Nam định;
năm
1932,
trường Thánh Louis ở
Phát Diệm
và trường Gagelin ở
Bình Ðịnh.
Ðến năm 1933 lập ra Nhà
tập
(gồm tiểu chủng viện và chủng viện) ở Nha trang, tọa
lạc trên đồi La San, hết sức yên tĩnh.
Năm
1934, lập ra "nhà tập sự" (probatorium)
ở Bùi Chu và
năm
1941, thành lập trường
Adran ngay bên rừng Ái ân, Ðà lạt.
Ngoài ra còn trường La San Ðức Minh ở Tân Ðịnh,
trường La San Kỹ thuật ở Ðà lạt, và trường
Bá Ninh (tên Á thánh Bénilde) ở Nha trang không
rõ là được mở vào những năm nào. Riêng trường
Thánh François Xavier (Phan xi cô Xa viê) ở Sóc
trăng, không rõ có phải đã được mở từ năm 1869
không.
Vào năm 1955, tất cả các trường La San ở miền Bắc
được chuyển vào Nam, học sinh các trường này tùy vị
trí định cư mà theo học các trường đang có trong
Nam. Riêng học sinh các trường
Puginier ở Hà nội, trường Thánh Giu se ở
Hải phòng được theo học ở trường Taberd, Saigòn.
Năm
1956, mở trường
La San Kim Phước ở Kontum;
năm 1957,
trường
La San Bình Lợi ở Qui nhơn;
1958, La San Ban mê thuột.
La San Nghĩa Thục ở góc đường Nguyễn Thông và
Yên Ðỗ, Sài gòn dường như cũng được mở vào năm này.
Trường này thâu học phí rất hạ, dành cho trẻ em
nghèo. Chi phí trường được các Sư huynh
trường Taberd dùng học phí thu ở Taberd, giúp đỡ.
Tại trường La San Nghĩa thục cũng có các lớp tối, do
Ðoàn Thánh mẫu Sinh Viên trường Taberd cắt cử các
sinh viên năm thứ ba các trường Ðại học ở Sàigòn đảm
trách việc giảng dạy. Cũng giống như La San
Nghĩa thục là trường La San Chánh Hưng và các
trường thâu học phí thật nhẹ như Xóm
Bóng ở Nha trang, Tuk Lak ở Nam Vang,
và Phú Vang ở Huế.
Ðến cuối thập
niên 1960, vì chiến tranh, thiếu thày giáo, trường
Taberd và một số trường khác phải nhờ các nữ giáo sư
có Cử nhân giáo khoa 11
hay đã được Bộ Giáo dục công nhận, đảm nhận việc
giảng dạy trong nhiều lớp học.
Các trường La San không ngừng phát triển, cùng nâng
cao phẩm chất đào tạo.
Vào đầu năm
1975, Dòng La San ở Việt nam đã có 300 Sư huynh, và
khoảng 15 chủng sinh. Ngoài các trường học,
Dòng còn có Trang trại Mai thôn ở bên kia cầu sắt
Thanh Ða, để các Sư huynh lớn tuổi về hưu dưỡng ở
đây, và cũng là nơi để các Hội đoàn cấm phòng.
Các Sư huynh điều khiển 23 trường gồm từ tiểu học
đến trung học và kỹ thuật, có trường còn có nội trú,
và một trung tâm dạy trẻ em mù cùng một trường đào
tạo giáo chức. Học sinh phần lớn là người Việt
cùng một số thuôc các sắc dân thiểu số.
Trong các trường do nhà Dòng quản lý, học sinh ngoài
giờ học văn hóa và thể dục, còn tham gia các hoạt
động Công giáo Tiến hành (Action catholique), qua
các đoàn thể như Thanh Sinh Công (JEC), Hiệp hội
Thánh mẫu ở cấp trung học, Hùng tâm và Nghĩa sĩ Chúa
Hài đồng ở cấp tiểu học.
Từ 1961,
Hiệp hội Thánh mẫu Taberd có thêm Ðoàn Thánh Mẫu
Sinh viên (do SH Adrien tổ chức), tham gia hoạt động
trong khuôn khổ Công giáo Tiến hành với Tổng hội
Sinh viên Công giáo Sài gòn (dưới sự hướng dẫn của
Linh mục Nguyễn văn Lập).
Trong
những năm đầu thập niên 1970, SH Théophile đưa học
sinh Taberd các lớp 9 và 10, hằng tuần đi thăm viếng
các khu lao động nghèo, hớt tóc cho các em nhỏ và
phát thuốc cho những người đến khám bệnh ở những
trạm chẩn bệnh miễn phí như ở La San Chánh Hưng
(theo toa các bác sĩ và các sinh viên y khoa). Sư
huynh Vincent phụ trách dạy các học sinh lớp 9 và
10, một số nghề như chụp hình, rửa ảnh, sửa radio
...
3) Tình trạng các trường học
công và tư ở Việt Nam trong thời gian này
Ðến đây xin được nói sơ qua về các trường học ở Việt
Nam thời đó. Trong suốt thời gian này,
xã hội Việt nam trải qua nhiều thay đổi và xáo trộn,
nhưng việc học vẫn được thực hiện trong chiều hướng
thuận lợi cho đại đa số người Việt. Trong
những năm giữa hai Thế chiến, đã có rất nhiều trường
Tiểu học và Trung học trên hầu hết ba miền Nam,
Trung, và Bắc. Sau Ðại chiến thứ Hai, các
trường tiếp tục sinh hoạt, và hầu hết ở các tỉnh và
thành phố, đều có những trường công lập cũng như tư
thục với đội ngũ giáo chức tận tâm dạy dỗ, và học
trò lễ phép, siêng học trong tinh thần kỷ luật cao.
Tại Sài gòn đã có các trường công lập danh tiếng như
Pétrus Ký dành cho nam sinh, Gia Long,
dành cho nữ sinh, còn có các trường tư thục Chấn
Thanh, Lê Bá Cang, Vương gia Cần
... dạy nhiều về chương trình Việt. Các
trường dạy chương trình Pháp như
Chasseloup-Laubat (sau đổi tên là Jean
Jacques Rousseau, sau cùng là Lê Quý Ðôn),
Marie-Curie cùng Colette và
Saint-Exupéry đều do chính phủ Pháp đài thọ mọi
chi phí. Ngoài hai trường La San đã ghi ở
trên, còn có các trường
Couvent des Oiseaux, Regina Pacis, Regina Mundi,
Thiên Phước ... dành cho nữ sinh, thuộc nhóm các
trường Công giáo. Trường Nguyễn Bá Tòng
dạy cả nam lẫn nữ do giáo hội Công giáo điều khiển.
Lyceum
Cửu Long và Les
Lauriers là hai tư thục dạy chương trình Pháp.
Ở gần trường Pétrus Ký có trường Bác Ái
(Collège Fraternité) dạy chương trình Pháp và
Việt cho học sinh phần đông là con em người Hoa.
Các tư thục Huỳnh Khương Ninh, Huỳnh thị Ngà
dạy cả nam lẫn nữ. Hai trường Nguyễn Trường
Tộ (trung học đệ nhất cấp) và Cao Thắng
(trung học đệ nhị cấp) là trường công lập kỹ thuật.
Mỹ tho
có trường
Nguyễn Ðình Chiểu
Cần Thơ có
trường
Phan Thanh Giản là những trường công lập rất
có uy tín được lập từ lâu.
Sau 1955, hai
trường công lập danh tiếng ở Hà nội là Chu văn An
(nam sinh) và Trưng vương (nữ sinh) dời vào
Sài gòn. Gia định có hai trường công Hồ ngọc Cẩn
(nam sinh) và Lê văn Duyệt (nữ sinh), học
sinh xuất sắc không thua gì các trường công lập lớn
ở Sài gòn và có trường Don Bosco dạy nghề cho
thanh thiếu niên nghèo.
Trường
Võ Tánh ở Nha Trang, hai trường
Quốc Học và Ðồng Khánh ở Huế, cùng với
trường
Sư phạm Qui nhơn đều là những trường có tiếng
dạy giỏi.
Ở Ðà lạt
có
Lycée Yersin của Pháp, Couvent des Oiseaux
dạy nữ sinh do các nữ tu công giáo, ngoài các trường
Dòng La San ghi trước.
Hai
trường Bưởi và Albert Sarrault còn ở
lại Hà nội sau 1955.
Tại Sàigòn về sau này còn có trường Bồ Ðề là
trường do Phật giáo điều hành. Ngoài ra
còn có các trường dạy trẻ em bị khuyết tật, như
trường Hoàng Thụy Năm
(dạy trẻ em bị mù), trường câm điếc ở Lái
thiêu. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không
thể đề cập đến các trường đại học ở Việt nam.
Tóm lại, cần ghi nhận là trong thời gian này, sinh
hoạt giáo dục ở Việt nam rất phong phú, và thầy hay,
trò giỏi, ở thành phố, ở vùng ven biển, hay đồng
bằng, đâu đâu cũng có.
4) Sau 1975
Sau 1975, các trường bị trưng thu, biến thành trường
công, do chánh phủ quản lý và bổ nhiệm người dạy.
Trừ năm hay sáu Sư huynh còn được lưu dụng, tất cả
các Sư huynh khác phải rời trường, nơi đã được các
vị dày công xây dựng và vun quén. Các
trường do chánh phủ quản chế, và bổ nhiệm giáo chức,
thu nhận học sinh nam và nữ. Hoạt động của các
Sư huynh trong Dòng bị hạn chế rất nhiều. Cơ sở chỉ
còn Nhà Mai thôn ở Thanh Ða. Một số Sư
huynh rời nước, ra ngoài,
tiếp tục công việc giảng dạy ở Nouvelle Calédonie,
Thái lan, Pháp, và Hoa kỳ ... Những Sư
huynh ở lại chăm sóc lẫn nhau và tiếp tục, làm tất
cả những gì làm được theo lời nguyện, trong hoàn
cảnh khó khăn. Và Sư huynh, không quên lời
nguyện, đã làm được rất nhiều việc, như dạy nghề,
kèm dạy toán, đồng thời dạy giáo lý. Khi
tình hình Ðổi Mới có hơi sáng sủa một chút, Sư
huynh Désiré đã bôn ba các nơi gây quỹ, đem tiền về
mở trường dạy trẻ em nghèo ở Cái Nhum, và tiếp tục
lan ra các nơi khác.
Chú giải
9.
Theo
chương
trình
Pháp,
Collège
là
trường
dạy hết
bậc
Trung
học đệ
nhất
cấp,
Lycée là
trường
dạy dạy
Trung
học đệ
nhị cấp
(thi Tú
tài).
Ngoài ra
còn có
sự phân
biệt chi
phí
Collège
do quỹ
Thuộc
địa tài
trợ (tức
Nam
Việt),
còn
Lycée do
quỹ Quốc
gia (tức
là của
Pháp)
tài
trợ.
Trường
Adran
lúc đó ở
gần Thảo
Cầm
Viên,
Sài gòn.
10.
Sau này,
Sư huynh
Cyprien
Gẫm là
Sư huynh
Việt Nam
đầu tiên
làm Giám
tỉnh
Tỉnh
Dòng này
(1956),
sau khi
cũng là
Hiệu
trưởng
Việt nam
đầu tiên
của
trường
Taberd
(1952 ?)
thay thế
Sư huynh
Venant.
Các Sư
huynh
hiệu
trưởng
sau đó
là SH
Alloysius,
SH
Bernard
Bường
(sau làm
Giám
tỉnh),
SH
Félicien
Lương,
SH
Désiré
....
Một SH
Giám
tỉnh sau
1975 là
SH
Maurice
Triều. |
|
Dien Tran, Ph.D. |