Có những
nhà sử học nghĩ rằng Lễ Mẹ xưa nhất là lễ
các nữ thần, được tổ chức đầu tiên
tại Phénicie.
La Mã:
Thế kỷ thứ V trước Công
Nguyên, người La Mã tỏ lòng kính trọng những
bà mẹ mà họ gọi là Matralia. Từ năm
204 trước Công Nguyên, vào
tháng Ba mỗi năm, từ ngày 15 đến 27,
họ tưởng nhớ vị Nữ
Thần Mẹ Cybèle
(1)
(Hy Lạp) hay Rhéa (La Mã, mẹ
của mọi vị thần)
và
lễ Hilaria (thuộc tín ngưỡng)
của người La Mã kéo dài từ ngày 15 tới ngày 18 tháng 3.
Các lễ này chấm dứt vào thế kỷ thứ 4
sau Công nguyên để thay thế
bằng lễ Mẹ Maria, Mẹ Jésus.
Hoa Kỳ:

Julia Ward Howe
Julia Ward Howe nảy sinh ra ý kiến
lễ Mẹ
năm 1872. Bà đã làm lễ đặc biệt
cho dịp này mỗi năm tại Boston.
Julia Ward Howe, là
nhà thơ, tranh đấu cho hòa bình,
được nổi tiếng nhờ
năm 1870 bà
viết bài Mother's Day Proclamation
(2)
và lời cho
bản quốc ca Battle
Hymn of the Republic
(3)
Thêm
nữa, ngày 13 tháng 5 năm 1877,
ngày chúa nhật thứ
hai của
tháng 5,
Juliet Calhoun Blakeley (1818-1920)
bước lên bục giảng kinh tại nhà thờ
Episcopal và hoàn tất lời
tuyện thệ với Đức Cha Myron
Daughterty. Nghe nói là Cha
Daughterty nổi tức vì
có một nhóm chống đối đã ép con bà Blakeley
phải ở trọn đêm trong một quán rượu.
Charles và Moses
Blakeley hãnh diện vì mẹ nên
đã kêu gọi các bạn cùng tỏ lời kính trọng
mẹ mình. Trong những năm 1880, nhà thờ
Albion tổ chứng ngày
Lễ Mẹ vinh danh bà Blakeley.
Năm 1887,
Mary Towles Sasseen,
dạy học tại Kentucky
bắt đầu tổ chức ngày Lễ Mẹ .
Năm
1904 Frank
Hering, South Bend,
Indiana
gắng tranh đấu định ngày cho
Lễ Mẹ
Năm
1907, ý tưởng
lễ Mẹ lại được một
cô giáo ở tiểu bang Philadelphia là Ana Jarvis
đặt vấn đề trở lại.
Lễ khánh thành
đầu tiên là ngày chúa nhật thứ hai tháng
Năm, ở Grafton, Tây tiểu bang Virginia. Ngày
đó là ngày giỗ của thứ hai của
mẹ bà Ana. Năm
sau, lễ được tổ chức tại
Philadelphia. Ana Jarvis không chịu ngừng
lại nơi đây, bà vận động các
bộ trưởng, các thương gia và chính trị gia để lập ra ngày
lễ Mẹ trên bình
diện quốc gia.
Năm 1911 lễ này
được tổ chức trên hầu hết các
tiểu bang Hoa Kỳ.
Năm 1914, tổng thống Hoa kỳ Woodrow Wilson
đã làm công bố chính thức lễ
Mẹ vào ngày chúa nhật thứ hai của tháng
Năm.
Một điều chua chát là sau
những cố gắng của Ana Jarvis để được chính
thức ngày lễ Mẹ, thì giới buôn bán lợi
dụng cơ hội để thua lợi. Bà rất ghét người
ta lấy ngày nghỉ lễ để làm tiến, nên
nhân ngày lễ Mẹ năm 1923, bà đã nộp đơn yêu
cầu chấm dứt lễ này và đã bị bắt vì lý do
phá hoại hòa bình tại một hiệp hội những bà
mẹ chiến tranh của Mỹ, nơi đó họ bán hoa cẩm
chướng màu trắng để kiếm tiền- theo
Ana cẩm chướng trắng biểu tượng cho Mẹ-
Câu chuyện về Ana Jarvis không được
kết thúc tốt đẹp. Càng ngày bà càng
lâm vào cảnh khó khăn, bà mầt hết tất cả, kể
cả bạn bè để cuối cùng chết một
mình trong một viện an dưỡng, năm
1848. Trước khi mất chừng
vài ngày, bà có nói với một ký giả là bà rất
tiếc đã khởi động cho ngày lễ Mẹ.
Ana đã đi, nhưng ngày
lễ Mẹ vẫn tồn tại và ngày càng lan
rộng khắp nơi, mỗi nước một ngày
khác nhau trong năm, nhưng có
những nước như Ðan Mạch, Phần
Lan, Ý Ðại Lợi, Thổ Nhĩ Kỳ, Úc Ðại Lợi,
Bỉ quốc cũng tổ chức lễ Mẹ cùng ngày
với Hoa Kỳ.
me
Tưởng nhớ người Mẹ đã
mất

Bà Hà Thị Hòa, Tổng giám thị Đại học
xá Trần Quý Cáp, Sài Gòn, Việt Nam
Nhân vật
MẸ
trong truyện ngắn
Tiếng nấc đêm Đông
của Võ Thị Diệu Hằng
để tưởng nhớ lúc Bà mất
Hình của Võ Thị Diệu Hằng
Pháp quốc:
Đến thế kỷ XIX nước Pháp
mời biết đến lễ Mẹ. Năm 1806, hoàng đế Napoléon bày ra việc
sáng lâp lễ Mẹ chính thức vào mùa Xuân.
Năm 1897, để chống
sự giảm dân số, Liên minh Quốc gia (Alliance Nationale) đã
cho ra ý muốn thành lập một lễ cho các
Con, đặt tầm quan trọng lên sự mắn con và tiết hạnh
của gia đình.
Năm 1906, tại Isère Lễ Mẹ
đầu tiên đã được tổ chức do sáng kiến của
Hội Ái hữu những người Cha của Gia đình
(Union Fraternelle des Pères de Famille).
Thêm vào đó hội này tổ chức Lễ Mẹ đầu tiên
tại Artas.
Ngày 31 tháng chạp 1917,
tại Paris tổ chức lễ những gia đình đông
con.
Ngày 16 tháng Sáu 1918,
đại tá Croix Laval khởi
xướng việc tổ chức ngày lễ Mẹ đầu
tiên tại Lyon . Sau sự kiện này ý nghĩ tổ
chức ngày lễ Mẹ đã hình thành. Do trong
thời kỳ Ðại chiến thứ nhất,
những người Mỹ đã gởi thư vô
số kể nhân dịp lễ Mẹ đã thành
lập từ lâu tại Koa Kỳ. Từ ngày
đó, ngày lễ Mẹ đã quy định là
15 tháng Tám.
Ngày 9 tháng Năm, Bộ
trưởng Nội vụ cho phép ngày
lễ Mẹ thành ngày lễ
quốc gia đầu tiên
cho những bà Mẹ đông con. Sự "phong
thần" (apothéose) của buổi lễ được diễn biến
ngày 19 tháng 12, quá xa so với ngày 18
tháng 8 như lúc đầu đã định!
Vì những thủ tục hành chánh quá
chậm chạp, đến ngày 20 tháng 4 năm 1926
lễ Mẹ mới được tổ chức
chính thức nhưng phải đợi đến chế độ Vichy và
mãi tới ngày 25 tháng 5 năm 1941 Thống chế Pétain mới đặt ra ngày lễ
Mẹ áp dụng cho toàn quốc.
Lúc
bấy giờ bên Pháp người dân chưa hưởng ứng
nhiều như bên Hoa Kỳ, nhưng nhờ số
lượng thiệp mừng ngày Mother's day gởi đến
quá nhiều nên đã nung nóng dân Pháp chú ý
đến ngày lễ này. Cuối cùng Tổng thống
Vincent Auriol ký ngày 24 tháng 5 năm
1950 một đạo luật cho ngày lễ Mẹ và được qui
định vào ngày chúa nhật cuối cùng của
tháng 5. Tại
buổi lễ,
những bà mẹ xứng đáng nhất được các
thị trưởng và dân biểu tặng huy chương.
Huy chương vàng cho những bà mẹ có trên
8 con, nếu có 6, 7 con thì được huy
chương bạc và 5 con thì được huy
chương đồng.
Nếu
như ngày lễ trùng với ngày Pente Côte thì
sẽ được đẩy lùi qua ngày Chúa
nhật đầu tiên của tháng 6. Đây là
trường hợp giống như năm nay, 2007, lễ
Mẹ sẽ là ngày 3 tháng 6.
Mexico và Nam Mỹ: truyền thống lễ Mẹ tổ chức ngày 10
tháng 5. Thông thường họ gởi thiệp
chúc mừng.
Éthiopie,
ngày lễ Mẹ không thể xác định trước
được vì tùy thuộc trực tiếp vào thời
kỳ mưa chấm dứt. Các trai gái khắp
bốn phương về thăm mẹ họ.
Anh quốc:
Khoảng năm 1600 (tùy những nguồn khác
nhau), lễ được tổ chức rộng rãi hơn, cho mọi bà mẹ
gọi là Mothering
Sunday, bắt
đầu từ ngày đầu của Tuần
chay (carême). Sau đó ngày lễ được
ấn định vào ngày Chúa nhật thứ tư
của mùa Xuân. Nhà thờ thì lo việc làm lễ tôn
kính Mẹ Maria, còn trẻ nhỏ thì về nhà tặng
cho mẹ mình những món quà, hoa và
bánh. Trong ngày này những người
làm công cho gia đình giàu được
dịp nghỉ để về thăm
mẹ.
Bỉ quốc:
Ngày lễ Mẹ vào ngày
chúa nhật thứ hai của
tháng Năm và sao y bảng của Hoa Kỳ như số đông
các nước như Ðan Mạch, Phần Lan, Ý Ðại Lợi,
Thổ Nhĩ Kỳ, Úc Ðại Lợi . Tuy nhiên bên Bỉ quốc, người
ta tổ chức lễ tùy vùng, thí dụ miền
Anversoire thì lễ Mẹ được tổ chức vào ngày
15 tháng Tám, ngày Mẹ Maria.
Ðức quốc:
Ngày lễ Mẹ
bắt đầu từ năm 1922, dưới nền cộng hòa
Weimar. Được tổ chức
vào chúa nhật thứ hai
của tháng Năm. Ngày đó các bà mẹ
nghỉ ngơi hoàn toàn,
không làm gì cả. Các con làm hết. Rồi người
ta đi chơi. Sau đó họ trở về nhà và làm bữa
cơm thật ngon. Những đứa con tặng quà cho
mẹ. Là một ngày mà những bà mẹ được thưởng
công ơn đã làm suốt năm.
Argentine:
Ngày lễ
Mẹ rơi vào ngày chúa nhật thứ ba của tháng
10
Tây Ban Nha:
"El dia de la madre"
rơi vào ngày chúa nhật đầu
tiên của tháng 5. Mẹ được nghỉ ngơi hoàn
toàn. Cả gia đình đi ăn tiệm và mẹ được
ttặng hoa.
Đan
Mạch:
Mẹ được ăn chocolat. Lễ tổ chức
vào chúa nhật thứ hai của tháng 5. Các
tỉnh nhỏ tổ chức long trọng hơn
các thành phố.
Lễ Mẹ trên thế giới được tổ chức vào ngày:
Chúa
nhật thứ hai, tháng 5 |
- Úc
- Bỉ
- Đan
Mạch
- Phần Lan
- Ý
- Nhật
- Thổ
Nhĩ Kỳ
- Hoa
Kỳ
- Đức
|
10 tháng
5 |
- Hồng
Kông
- Ấn
Độ
- Mã
Lai
- Mexico
- Oman
- Pakistan
- Qatar
- Arabie saoudite
- Singapour
- Emirats Arabes Unis
|
Tháng 5
|
- Bắc
Phi-
(Chúa
nhật đầu)
-
Hongrie
(Chúa nhật đầu)
- Pháp
(Chúa nhật cuối)
- Thụy
Điển -
Chúa
nhật cuối)
- Portugal
(Chúa
nhật đầu)
- Tây
Ban Nha
(Chúa nhật đầu)
|
Tháng 10
|
- Argentine -
Chúa
nhật thứ 2
|
Tháng
2
|
- Norvège
(Chúa
nhật thứ 2) Các con đánh
thức mẹ dậy rồi mang bữa
ăn sáng vô giường
mẹ và tặng mẹ hoa và
bánh
|
Tháng
12 |
- Yougoslavie
( 3 ngày
trước Noël)
|
Chú
giải:
(1)
Rhea, Cybele