Sự ra đời của ngành sinh học phân tử

Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng                15/10//2004
 

 Ngành di truyền học ra đời  vào thế kỷ thứ XX: Đầu tiên  những công trình của Mendel (1822-1884) được nghiên cứu trở  lại,  đến năm 1900,  thuyết di truyền do nhiễm sắc thể  ra đời.

 Vào đầu thế kỷ XX người ta  khám phá ra ADN như một chất  sinh hóa  mang thông tin di truyền. (support biochimique de l'information  génétique) và làm sáng tỏ cấu trúc ADN.

 Những  năm 70 ngành sinh hóa phân tử bùng nổ (Biologie Moléculaire) . 

Và bình minh của thế kỷ XXI  gia tài di truyền của con người được giải mã

1) Sự xuất hiện ngành di truyền học

Ngành di truyền học hiện đại này có từ các công trình của Mendel , người đầu tiên thực hiện các lý thuyết về di truyền. Ông in ra các kết quả năm 1866, nhưng  lúc  bấy giờ ít được chú ý. Cho đến năm 1900 thì người ta mới nghiên cúu và  khám phá trở lại

2) Nhiễm sắc thể, chât mang di truyền

Nhờ những  công trình của Thomas Morgan (1866-1945) trên ruồi drosophile đã dẫn đến sự phát triển của thuyết nhiễm sắc thể về tính di truyền. Các gene nằm trong nhiễm sắc thể và theo Sturtevant thì các gene có thể có  một trật tự  trong nhiễm sắc thể, và  thành lập các giq"n đồ gene đầu tiên. Cũng trong phòng thí nghiệm của Morgan mà các các thủ tục về thí nghiệm biến đổi gene (procédures de mutagenèse expérimentales) được Muller phát triển.

3) Sự hội tụ của ngành sinh hóa và di truyền

Lúc bấy giờ người ta biết sự hiện diện các gene trong nhiễm sắc thể nhưng chưa biết tính chất sinh hóa các  gene hay cách hành động của chúng.

Garrod thiết lập sự liên hệ đầu tiên giữa gene và  enzym từ sự quan sát căn bệnh di truyền.

Beadle và Tatum đào sâu liên hệ này nhờ một hệ thống dẫn tới thực nghiệm: nấm Neurospora crassa.

Tổng hợp các công trình này đưa đến một kết luận là các gene kiểm soát sự tổng hợp các enzym, và mỗi protein được mã hóa (codé) bởi một loại gene riêng biệt.

4) ADN chất  sinh hóa  mang thông tin di truyền

Năm 1928: Hiện tượng đầu tiên cho phép phát triển về sự nhận diện chất di truyền là sự biến đổi vi khuẩn do Griffith, người Anh tìm ra.

Hiện tượng này lúc  bấy giờ được xem là một thử nghiệm về hoạt động sinh học (activité biologique) mà nhờ đó người ta có thể xác định được bản chất  của chất di truyền (matériel génétique}. Thử nghiệm này lại được Avery dùng để làm sáng tỏ  bản chất sinh hóa của matériel génétique: đó là ADN. Tuy nhiên sự khám phá này cũng được đón chào bởi nhiều người hoài nghi. Phải  đợi có nhiều công trình khác  kế tiếp mà thực tế này mới được chấp nhận: đặc biệt là công trình của Chargaff hay Hershey.

Sự chấp nhận toàn toàn và vĩnh viễn có được khi Watson Crick làm sáng tỏ của cấu trúc ADN

5) Ảnh hưởng của các nhà vật lý học

Ảnh huởng các nhà  vật lý học  sẽ đánh dấu ngành génétique phân tử. Có những  người, như Schrödinger đóng vai trò như một nhà  quan sát. Những người khác cống hiến tất cả sự nghiệp của họ cho  ngành này vì họ nhận biết rằng khoa học  này là một biên giới (lãnh vực) mới của sự hiểu biết khoa học.

Pauling và Delbrück đóng một vai trò xác định sự tiến triển của khoa học  này.

Delbrück  đặc biệt là người sáng  lập ra  nhóm phage (groupe du phage) với Luria và Hershey

6) Cấu trúc ADN

Cuối cùng, đó là nhờ sự sáng tỏ của cấu trúc ADN mà ngành sinh hóa phân tử biết thành công rực rỡ. Sự thành công này không những là công trình của Watson và Crick; mà cũng  là của các nhà nghiên cứu Franklin và Wilkins

 Bài đọc thêm: 

Đc báo =>  Gene 

 

© http://vietsciences.free.fr  Võ Thị Diệu Hằng