Hầu
hết các tế bào đều có kích thước
rất nhỏ nên mắt trần không thể quan sát
được, do đó lược sử phát hiện
tế bào gần như là lịch sử phát minh ra kính
hiển vi.
Galileo (1564 -
1642) chế tạo ra viễn vọng kính để quan
sát bầu trời, tình cờ khám phá ra những
vật rất nhỏ khi quan sát bằng cách lật ngược
đầu kính lại.
Antoni Van Leeuwenhoek (1632 - 1723) người Hà Lan, do yêu
cầu kiểm tra tơ lụa, ông mài các thấu kính
để quan sát chất lượng của vải,
nhờ đó quan sát được những vật li
ti quanh môi trường sống và khám phá ra sự
hiện diện của thế giới vi sinh vật.
Robert
Hooke (1635 - 1703) người Anh, lần đầu tiên mô
tả các lỗ nhỏ có vách bao bọc của
miếng bấc (nút bần) cắt ngang dưới kính
hiển vi năm 1665 và Hooke dùng thuật ngữ tế bào
(cellula có nghĩa là phòng, buồng nhỏ, vì ý nghĩa
lịch sử từ này vẫn còn được dùng
cho đến ngày nay) để chỉ các lỗ đó.
Mãi đến thế kỷ 19 khái niệm sinh vật có
cấu tạo tế bào của Hooke mới được
sống dậy từ nhiều công trình nghiên cứu,
đặc biệt hai công trình của hai người Ðức:
nhà thực vật học Matthias Jakob Schleiden (1838) và nhà
động vật học Theodor Schwann (1839).
Hai ông đã hệ thống hóa quan điểm thành
thuyết tế bào Tất cả các
sinh vật do một hay nhiều tế bào tạo thành,
nói một cách khác, Tế bào là đơn vị
cấu tạo sống cơ bản của tất
cả sinh vật. Ðến
năm 1858 thuyết tế bào được mở
rộng thêm do một bác sĩ người Ðức
(Rudolph Virchow): Tế bào do tế bào có trước sinh
ra. Quan điểm
(mở rộng tế bào) của Virchow sau đó
được Louis Pasteur (1862) thuyết phục các nhà
khoa học đồng thời bằng hàng loạt thí
nghiệm chứng minh. Như
vậy có thể tóm tắt thuyết tế bào như
sau: Tế bào là đơn vị cấu tạo sống
cơ bản của tất
cả sinh vật, tế bào do tế bào có trước
sinh ra.
|