Phần 2.
Dạy quan điểm, đường lối trong ứng xử nghề nghiệp
Ban đầu,
vẫn theo nếp cũ
Trong 13
giáo sư đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
- công bố tháng 1 và tháng 10-1955 - có 11 vị thuộc
ngành Y (1 ở ngành Dược và 1 ở ngành Toán). Điều này
không khó hiểu, nếu biết rằng năm 1935 trường này đã
làm lễ tốt nghiệp cho khoá tiến sĩ đầu tiên, trong
khi các trường khác chỉ đào tạo cử nhân. Các vị này
cùng tất cả các vị lão thành khác của ngành Y (tốt
nghiệp trước 1945) đều hấp thu đạo đức y học “phi
giai cấp” dưới thời thuộc Pháp.
Khi theo cụ
Hồ đi kháng chiến (1946), họ hành xử nghề nghiệp và
đào tạo sinh viên cũng theo tinh thần ấy, kết hợp
thêm tinh thần yêu nước. Trong kháng chiến chống
Pháp, sinh viên y năm thứ 3, 4 và 5 đã mặc áo lính,
phụ trách quân y cấp tiểu đoàn, trung đoàn và đại
đoàn. Mỗi năm họ chỉ được về trường ít tháng để học,
do vậy họ rất biết cần học gì. Ứng xử nghề nghiệp
không thể dạy thành bài riêng, mà được lồng vào các
bài giảng chuyên môn kèm những ví dụ thực tế - trong
đó bản thân các thầy và các vị đàn anh là những tấm
gương sống động.
1952: Bắt
đầu giáo dục quan điểm Công-Nông
Mục đích, để sinh viên y khoa thấy rõ,
từ nay người chủ đất nước là Công, Nông.
Trường này là của công nông, dành cho công
nông. Đó là nơi Công Nông được “trí-thức-hoá”,
đặng lãnh đạo cách mạng.
Thành phần tuyển sinh sẽ thay đổi cơ bản.
Còn trí thức, trước đây phục vụ giai cấp
thống trị, nay vẫn được đảng sử dụng. Họ
phải tự thấy vinh dự được phục vụ công nông
và qua đó mà tự cải tạo lập trường, quan
điểm. Với mục đích này,
từ nay các thầy chuyên môn mất hẳn vai trò
dạy ứng xử nghề nghiệp, nhường vị trí này
cho các thầy dạy Chính Trị.
- Quan điểm
mới được quán triệt từ năm 1953, khi trường tham gia
cải cách ruộng đất - trước đó là một đợt chỉnh huấn,
chuẩn bị tư tưởng. Mỗi người, cả thầy lẫn trò, đều
tự kiểm điểm và nêu quyết tâm gột bỏ mọi tư tưởng
sai trái. Lớp trẻ nhiệt huyết với lý tưởng Cộng Sản
đã tự đề ra quyết tâm: Trí thức phải
“công-nông hoá” triệt để.
- Tiếp đó,
là liên tục các đợt chỉnh huấn khác: dịp tiếp quản
Hà Nội (để đề phòng tiêm nhiễm tư tưởng tư sản), dịp
đấu tranh chống Nhân Văn – Giai Phẩm (chống tự do
kiểu tư sản), hoặc dịp xác định trường đại học Y là
một pháo đài XHCN…
- Dẫu vậy,
ngày 27-2-1955 cụ Hồ gửi thư cho ngành y tế (lạ một
điều), Cụ không nhắc tý gì tới quan điểm giai cấp,
mà chỉ nhấn 2 điều: Đoàn kết hơn nữa; và phải “biết
đau cái nỗi đau của người bệnh”. Khẩu hiệu Cụ nêu:
Thầy thuốc giỏi phải như mẹ hiền. Như vậy, hai vế mà
một bậc danh y Trung quốc đề ra (nói về Tài và Đức
thầy thuốc: Lương y như luơng tướng và
Lương y như từ mẫu) cụ Hồ chỉ dùng vế thứ hai.
May thay, chính nhờ vậy, sinh viên y (thuộc giai cấp
tiểu tư sản) tuy một mặt phải phấn đấu về
quan điểm, lập trường để được coi là con em
Công Nông, nhưng mặt khác vẫn được phép tu dưỡng y
đức để trở thành mẹ hiền của bệnh nhân, trước
hết là bệnh nhân công-nông.
Tăng
cường học Chính Trị
- Lập trường
vững vàng sẽ đương nhiên sinh ra cách ứng xử phù hợp
với bệnh nhân – đa số là công-nông.
Chương trình
mới (năm 1958) đã dành tới 1/6 thời gian để sinh
viên rèn Chính Trị. Trên thực tế, cách gì cũng không
thực hiện nổi cái chương trình đó - kể cả mỗi năm
dành ra 1- 2 tháng đưa sinh viên về nông thôn và
vùng mỏ để “học tập công nông”. Trong khi đó, các
môn y học bị cắt giàm tối đa. Kế hoạch đào tạo bác
sĩ chỉ cần 4 năm mới thực hiện một năm đã phá sản.
Rốt cuộc, từ 1962 lại quay về quy định của bộ Đại
Học: môn Chính Trị được sử dụng 12% thời gian khoá
học 6 năm.
- Thi tốt
nghiệp: Từ 1959, sinh viên không cần luận án tốt
nghiệp, mà thi 2 môn: Chuyên môn và Chính Trị
(hồng), trong đó “hồng” quan trọng hơn “chuyên”.
Phương
châm y tế
Bộ trưởng
Phạm Ngọc Thạch đề ra 5 phương châm y tế, được quán
triệt rất kỹ trong toàn ngành. Câu chữ theo thời
gian có thể thay đổi, nhưng nội dung cơ bản vẫn vậy
(y tế phục vụ công-nông-binh, phục vụ sản xuất và
chiến đấu; đi đường lối quần chúng; phòng bệnh hơn
chữa bệnh; kết hợp Đông-Tây y…). Trường Y Hà Nội vận
dụng bằng cách: lập ra bộ môn Đông Y, tăng thêm giờ
cho môn Vệ Sinh, hàng năm cho sinh viên đi lao động
ở nông thôn kết hợp tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh…
Sơ kết.
Dù quan điểm có được nâng cao, nhưng việc vận dụng
chúng vào cách ứng xử cụ thể khi hành
nghề… lại hoàn toàn
không dễ dàng. Các thầy chính trị không bao giờ đi
theo sinh viên tới bệnh viện để hướng dẫn cách ứng
xử “đúng” (ngay cả
với
bệnh
nhân là Công-Nông)
và uốn nắn những ứng xử “sai”.
Điều may mắn là cái khẩu hiệu phi giai cấp Thầy
thuốc như mẹ hiền vẫn còn
được đề cao, các thầy chuyên môn đã dựa vào đó để
dạy sinh viên về thái độ ứng xử nhân đạo với mọi
người bệnh (bệnh nhân có địa vị cao trong xã hội
mới
có bệnh viện riêng,
sinh viên không bao
giờ tới đó thực tập).
Cũng chính nhờ cái khẩu hiệu phi giai cấp đó mà về
sau Bộ Y Tế dựa
vào để có thể ban
hành bản Quy Định ứng xử cho nhân viên y tế toàn
ngành. Đó là các tiêu chuẩn để nhân viên y tế trở
thành “mẹ hiền”, bất kể trước mặt mình người bệnh
bao nhiêu tuổi.
Quả thật,
Đổi Mới là quá trình gian khổ
- Cuốn sơ
thảo Lịch Sử 70 năm của trường, do các thầy
bộ môn Mác-Lê viết ra (1972) đã thoá mạ “không tiếc
lời” quá khứ 43 năm dưới thời thuộc Pháp. Nhưng khi
kỷ niệm 80 năm thành lập, thì cái “quá khứ đẹp” này
bắt đầu được thừa nhận. Tới khi kỷ niệm 90 năm, tổng
bí thư tới dự lễ phát huân chương Độc Lập.
- Từ thập
niên 80, dưới sức ép của các thầy lão thành, trường
dạy lại Đạo Đức Hành Nghề. Tuy vậy, các bậc lão
thành chưa được đứng trên bục, mà vị trí này vẫn
dành cho các thầy Chính Trị. Họ viết ra giáo trình
Đạo Đức Học, theo đúng quan điểm Mác-Lênin, tuy rất
hay, nhưng cũng rất khó vận dụng vào ứng xử nghề
nghiệp. Gần hai chục năm, sinh viên đã học và thi
theo giáo trình này.
- Lời Thề
tốt nghiệp cũng được phục hồi, nhưng chưa thể gọi đó
là lời thể nghề nghiệp (ví dụ, thề trung thành với
CNXH; thậm chí “thề” giữ gìn kỷ luật)…
- Năm 1992
đề thi Chính Trị của sinh viên năm cuối vẫn hỏi về
lý tưởng và chức năng “người thầy thuốc XHCN”. Nếu
trả lời là “để kiếm sống”, qua đó phục vụ xã hội,
thì chưa đạt. Phải trả lời là “cống hiến quên mình”
mới được điểm cao. Trường chưa điều tra coi thử bao
nhiêu % bác sĩ năm đó thực hiện được bao nhiêu %
những điều mà chính họ viết ra trong bài thi.
Hãy thôi
thuyết trình đạo đức. Mà dạy thái độ để tạo kỹ năng
ứng xử.
Phương pháp
sư phạm hiện đại cho thấy, trong giáo dục có
3 (và chỉ cần 3) mục tiêu: Kiến thức, Thực hành và
Thái Độ.
Phương pháp
này vận dụng vào y học không những cho phép “tích
cực hoá người học”, mà dạy mục tiêu Thái Độ chính là
nhằm giúp người học ứng xử đúng khi giao tiếp với
đối tượng nghề nghiệp (bệnh nhân, người nhà họ, đồng
nghiệp và dân cư trong cộng đồng). Nói khác, điều
cần đạt là sự hình thành kỹ năng giao tiếp cho người
học. Ví dụ, họ phải có kỹ năng giải thích, kỹ năng
thuyết phục, kỹ năng an ủi…v.v. Tóm lại, đó là dạy
kỹ năng chung sống nói chung và phải dạy ngay
từ bậc tiểu học. Lên bậc đại học, chính là môn học
dạy ứng xử nghề nghiệp. Hoá ra, từ thời thuộc Pháp
trường Y đã có môn này.
Nhớ rằng 4
trụ cột vững chắc của ngôi nhà Giáo Dục (được UNESCO
đề ra cho thế kỷ XXI) là:
Học để biết, học để làm, học để
chung sống và học để tồn tại.
Người viết:
Nguyễn Ngọc Lanh, nguyên GS đại học Y Hà Nội; NGND
|