Lý
thuyết “chủng tộc thượng đẳng” (master race) của chủ nghĩa quốc xã
(nazism) là một quái thai trong lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy
không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con đẻ của một “bà mẹ
bệnh hoạn” – Học thuyết
Darwin-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – và một “ông bố điên
rồ” – Tư tưởng phục thù (Feeling of Revenge) trong xã hội Đức
sau Thế Chiến I.
Khi đã có Học
thuyết Darwin-xã-hội làm cơ sở “khoa học” để suy tôn “chủng tộc Đức”
thành “chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ nghĩa
quốc xã chỉ còn thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Nhưng đích
thân Hitler đã tìm thấy biểu tượng đó: Swastika của người Aryan!
Vậy trước hết hãy
tìm hiểu xem Học thuyết Darwin-xã-hội là gì?
1-Học thuyết Darwin-xã-hội:
Học thuyết
Darwin-xã-hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến hoá thông
qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh
hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc
có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với
môi trường sẽ bị đào thải. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách
máy móc Thuyết tiến hoá của Darwin vào trong xã hội loài người.
Không phải ngẫu
nhiên mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả của việc áp dụng tràn
lan chủ nghĩa thực chứng (positivism) vào trong xã hội học.
Chủ nghĩa thực
chứng do Auguste Comte (1798-1887) nêu lên từ những thập kỷ đầu tiên
của thế kỷ 19, trong đó cho rằng một
hệ
thống lý thuyết chỉ trở thành khoa học thực sự khi nó có thể kiểm
chứng được bằng thực nghiệm trong thực tế.
Với thắng lợi
trong khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chứng đã tạo ra tinh thần lạc
quan mạnh mẽ trong thế kỷ 19, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách
giải thích hành vi của số đông (en masse behaviour) bằng
những quy luật của tự nhiên.
Đúng lúc đó,
Thuyết tiến hoá của Darwin ra đời. Những kẻ có đầu óc chủng tộc lập
tức áp dụng Thuyết tiến hoá của Darwin để giải thích sự tiến hoá của
xã hội loài người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội loại người cũng
phải tiến hoá theo quy luật của sinh giới nói chung. Đó chính là Học
thuyết Darwin-xã-hội.
Học thuyết
Darwin-xã-hội có liên quan gì đến cá nhân Darwin không?
Trước
đây tôi luôn luôn nghĩ rằng
Darwin
chỉ nêu lên quy luật tiến hoá trong xã hội loài vật mà thôi. Việc đem
lý thuyết của ông áp dụng một cách máy móc vào xã hội loài người là
việc làm của những kẻ có đầu óc kỳ thị chủng tộc. Nhưng gần đây, tôi
phải suy nghĩ rất nhiều khi đọc bài báo “What Darwin taught Hitler?”
(Darwin đã dạy Hitler cái gì?) của Grenville Kent, trên tạp chí SIGNS
of the Times của Mỹ-Úc, số tháng 10 năm 1996, trong đó tác giả đã
trích nguyên văn một phát biểu của Darwin như sau:
“Trong một tương lai không xa lắm, có thể đo bằng số thế
kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như sẽ tiêu diệt và thay
thế các chủng tộc dã man trên thế giới”.
Kent đã trích câu nói này trong tác phẩm nổi tiếng của
Darwin, On the Origin of Species (Về nguồn gốc các loài) [Tôi
chưa có điều kiện liên lạc với Grenville Kent để kiểm phối tính xác
thực của thông tin, nhưng tôi sẽ cố gắng thực hiện việc kiểm phối đó
trong tương lai sắp tới].
Nhưng dù câu nói trên xuất phát từ cửa miệng của bất kỳ ai
chăng nữa thì chắc chắn đó là một phát ngôn của Học thuyết
Darwin-xã-hội.
Kent đặt dấu hỏi chua chát “Nếu Darwin đúng thì tại sao
Hitler lại không được bào chữa về mặt khoa học?”, rồi ông cho biết chủ
nghĩa quốc xã Đức đã từng lý luận rằng “Nếu chúng ta xuất thân từ động
vật thì tại sao chúng ta không hành động theo quy luật (đấu tranh sinh
tồn) đó?”. Thế đấy, dưới con mắt của chủ nghĩa quốc xã, con người
trước hết là một sinh vật, do đó mọi hành vi trước hết phải tuân theo
quy luật đấu tranh sinh tồn – một quy luật bất khả kháng của tự nhiên
(!!!).
Ngày
nay, khi Học thuyết Darwin-xã-hội đã lộ nguyên hình là một học thuyết
bệnh hoạn, không ai có thể chấp nhận sự vay mượn tư tưởng từ một học
thuyết thuần tuý sinh học để đem áp dụng vào xã hội loài người một
cách thô thiển và đơn giản đến như thế. Nhưng than ôi, đó lại là một
sự thật đã diễn ra vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chúng ta
không thể được phép quên!
Thật
vậy, vào đầu thế kỷ 20, trường Đại học tổng hợp Berlin chặt cứng sinh
viên ngồi nghe các giáo sư trình bầy Học thuyết Darwin-xã-hội. Trong
đám thính giả có rất nhiều nhà ngoại giao, nhà quân sự, thương gia và
các lãnh tụ của nhà nước Đức. Một trong số đó là Heinrich Himmler, kẻ
sau này trở thành cánh tay phải của Hitler, đứng đầu bộ máy SS – bộ
máy tàn sát chủng tộc khét tiếng của Nazi.
Bối
cảnh ấy thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức
phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng quốc xã thắng thế
vào cuối những năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế Thứ
III (The Third Reich) với việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm
1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa từng có trong
lịch sử.
2-Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù:
Bước
vào thế kỷ 19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế
quốc lớn, hùng mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc
rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt
hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ
đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình
không những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế
ấy là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất
bại thảm hại của Đức trong cuộc thế chiến này lại càng đẩy thanh niên
Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất mãn sâu sắc hơn nữa. Đễ chống
lại căn bệnh tủi hổ này, những nhà lý luận có đầu óc chủng tộc đã cố
gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà
chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục
thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí
lãnh đạo thế giới.
Trong
bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan và Swastika cùng với Học thuyết
Darwin-xã-hội đã trở thành “những nguyên liệu quý giá” để những nhà lý
thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một
chủ thuyết chủng tộc trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là
thuỷ tổ của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và
tinh tuý nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế
giới.
Một
trong những kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg.
Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất
trong “hệ thống các bậc thang chủng tộc” (racial hierarchy), trong khi
“chung tộc Do Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một mối đe doạ đến “nền
văn minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn
thế nữa, “chủng tộc Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng
tạo nên những nền văn hoá và văn minh đích thực, trong khi các
chủng tộc khác chỉ có khả năng giữ gìn hoặc phá hoại những nền văn hoá
đó mà thôi.
Rosenberg sau này đã trở thành cánh tay phải của Hitler về tuyền
truyền và giáo dục tư tưởng quốc xã, đồng thời làm bộ trưởng quốc xã
phụ trách khu vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm
1945, bị xử tử hình tại toà án tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày
16-10-1946.
Từ điển
Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh
xuất bản năm 1994 viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học
về chủng tộc Đức như là bộ phận tinh tuý nhất trong chủng tộc Aryan,
trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách
nhiệm với tiến bộ của nhân loại (trang 60), … Chủ nghĩa quốc xã khẳng
định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng
tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là
chủng tộc thượng đẳng về văn hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém
nhất. Điều đó cũng có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu
diệt loại bỏ khỏi thế giới …(trang 661)”.
Một khi
đã tự nhận mình là hậu duệ tinh túy nhất của người Aryan thì đương
nhiên, những kẻ theo chủ thuyết chủng tộc Đức cũng sẽ tự nhận Swastika
là biểu tượng của họ, bởi như chúng ta đã biết trong bài kỳ trước: Nhà
khảo cổ học
Heinrich
Schliemann đã khám phá ra rằng
Swastika
là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu, tức đặc trưng của người Aryan. Đó
là lý do để chủ nghĩa quốc xã đã chộp lấy Swastika để biến thành biểu
tượng của chúng.
3-Swastika rơi vào tay quỷ dữ:
Bách khoa toàn thư
Wikipedia cho biết:
Cuối thế kỷ 19,
Swastika của người Aryan đã xuất hiện trong tạp chí về chủng tộc xuất
bản định kỳ của những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là biểu
tượng chính thức của những vận động viên thể thao Đức.
Đầu
thế kỷ 20, Swastika của người Aryan đã trở thành một biểu tượng chung
của chủ nghĩa dân tộc Đức (German nationalism) và có thể tìm thấy ở
nhiều nơi như biểu tượng của Wandervogelb - một phong trào tuổi trẻ
Đức; trên tạp chí Ostarra, một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg
Lanz von Liebenfels; trên nhiều đơn vị Freikorps khác nhau; và như một
biểu tượng của Hội Thule.
Nhưng Swastika chỉ chính thức trở thành biểu tượng của quỷ
dữ kể từ khi Hitler chính thức sử dụng biểu tượng đó.
Sau hai lần thi trượt vào Đại học Mỹ thuật vì bị phê là
“thiếu tài năng”, Hitler rất hậm hực bất mãn. Năm 1909, Hitler rơi vào
cảnh nghèo túng, nhưng được một người Do Thái là Hanisch giúp kiếm
sống bằng cách vẽ bưu ảnh để bán cho du khách (tổng cộng trước Thế
Chiến I, hắn đã bán được 2000 bưu thiếp). Trớ chêu thay, chẳng bao lâu
sau Hitler đã phản bội lại người giúp đỡ mình khi hắn say mê với những
lý thuyết về chủng tộc Aryan, coi người Do Thái là kẻ thù của người
Aryan và phải chịu trách nhiệm về những khủng hoảng trong nền kinh tế
Đức.
Đến những năm 1920, khi Hitler trở thành lãnh tụ đảng quốc
xã, hắn thấy đảng
này cần phải có một lá cờ và biểu tượng riêng của nó.
Năm 1923, Hitler
bị phạt tù 5 năm vì một hành động chống chính phủ. Trong tù, hắn viết
tác phẩm “Mein Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi), trong đó viết: “Lá cờ
mới phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng của chúng ta, đồng
thời có hiệu quả cao như một áp-phích tuyên truyền”. Không những thế,
vốn xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra hình ảnh cụ thể
của lá cờ đó, trong đó Swastika của người Aryan được đặt chính giữa
trên một hình tròn mầu trắng. Hắn viết trong Mein Kampf: “Mầu trắng
thể hiện tư tưởng dân tộc, biểu tượng Sawstika thể hiện sứ mạng đấu
tranh vì thắng lợi của người Aryan, đồng thời nói lên sự chiến thắng
của tinh thần sáng tạo, một tinh thần đã và sẽ mãi mãi chống lại bọn
Do Thái”.
Chẳng bao lâu sau,
Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh thánh” của đảng quốc
xã, chứa đựng tất cả các giáo điều của chủ nghĩa quốc xã, bao gồm cả
những kỹ thuật tuyên truyền và kế hoạch làm thế nào để trước tiên
chiếm lĩnh nước Đức, sau đó là chiếm lĩnh châu Âu.
4-Kết:
Như đọc giả đã
thấy, đich thân Hitler đã chọn Swastika của người Aryan làm biểu tượng
cho đảng quốc xã. Từ năm 1933, khi đảng quốc xã thắng cử ở Đức, Hitler
trở thành quốc trưởng của Đế Chế Thứ III, thì Swastika trở thành biểu
tượng của cả nhà nước quốc xã và quân đội quốc xã. Kể từ đó, Swastika
bị coi là biểu tượng của quỷ dữ. Sau Thế Chiến II, Swastika bị cấm phô
bầy tại rất nhiều nước Âu châu.
Tuy nhiên, trong
thời đại hiện nay, khi sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các quốc gia,
các sắc tộc, các vùng địa lý, các truyền thống văn hoá khác nhau ngày
một phát triển, thì hai nhận thức khác nhau về Swastika đã gây nên
những hiểu lầm và va chạm rất đáng tiếc, thậm chí có nơi đã xẩy ra
xung đột.
Một đằng, Swastika
là biểu tượng của cái Thiện. Đó là Swastika của Ấn Độ giáo, của Phật
giáo. Đó là ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika. Một đằng, Swastika là
biểu tượng của quỷ dữ từ khi nó rơi vào tay Đức quốc xã.
Chỉ có một cách
duy nhất thanh toán sự hiểu lầm và xung đột này là mọi người phải biết
rõ lịch sử của Swastika, để có thể phân biệt được đâu là Swastika của
cái Thiện, đâu là Swastika của quỷ dữ.
Trước khi kết
thúc, bài viết này xin lưu ý:
Có những người cố
gắng chứng minh rằng chữ Vạn của Phật giáo và chữ thập ngoặc của phát
xít Đức có hình thức khác nhau. Cụ thể: Chiều quay khác nhau, và tư
thế khách nhau: chữ Vạn thẳng đứng, chữ thập ngoặc đổ nghiêng.
Trong bài “Lịch sử
lần theo chữ Vạn” trên Văn nghệ ngày 15-06-2002, tôi đã chứng minh cả
hai nhận xét đó đều sai. Xin khẳng định lại, về hình thức bề ngoài,
Swastika của Phật giáo và Swastika của người Aryan mà Đức quốc xã đã
lợi dụng, hoàn toàn giống nhau. Xin cung cấp thêm bằng chứng:
 |
Hình 2-1:
2 chữ Vạn đối
xứng có chiều quay trái ngược nhau trên 2 cánh cổng chùa Pháp Hoa,
Q.III, TpHCM, cho thấy chữ Vạn của Phật giáo có thể có 2 chiều
quay trái ngược nhau, mỗi chiều có một ý nghĩa riêng, nhưng đều
thiêng liêng |
·
Ngay
trên 2 cánh cổng chùa Pháp Hoa, Q.III, TP HCM, bạn có thể thấy 2 chữ
Vạn có chiều quay trái ngược nhau, đối xứng với nhau (Hình2-1).
Điều đó có nghĩa là trong Phật giáo, chữ Vạn có thể có cả 2 chiều
quay, một trong 2 chiều quay này trùng với chiều quay của Swastika của
Đức quốc xã. Do đó không thể căn cứ vào chiều quay để phân biệt chữ
Vạn với chữ thập ngoặc.
·
 |
Hình 2-2:
Ảnh của tạp chí Times, trong đó cho thấy Hitler thời mới lên cầm
quyền được tiền hô hậu ủng. Chữ thập ngoặc trong ảnh thẳng đứng, không
đổ nghiêng. |
Trong Hình 2-2, hình ảnh Hitler đang
được tiền hô hậu ủng thời mới lên cầm quyền, có thể thấy chữ thập
ngoặc thẳng đứng, không đổ nghiêng. Điều đó có nghĩa là không thể phân
biệt Swastika của Phật giáo với Swastika của Đức quốc xã bởi tư thế
thẳng đứng hoặc đổ nghiêng.
Chỉ có thể phân
biệt các Swastika bằng cách hiểu rõ ý nghĩa lịch sử của nó. Vì thế,
lịch sử là một khoa học rất cần thiết đối với nhận thức nói chung.
Sydney ngày 09
tháng 09 năm 2005
Phạm Việt Hưng