Những bài cùng tác giả
Những bài cùng đề tài
Những bài
báo theo thứ tự :
***
Thứ Ba, 02/04/2013
07:39
(Thethaovanhoa.vn)
-
Như
TT&VH
đã đưa tin,
nhà văn Võ
Hồng - tác
giả cuối
cùng của
thởi
Tiểu thuyết
thứ Bảy
- đã qua đời
ở tuổi 92
tại TP Nha
Trang. Ông
ra đi nhưng
văn chương
của ông đã
để lại trong
lòng người
đọc nhiều
thế hệ những
dư vị về một
thời tưởng
đã lãng
quên.
Từ năm 35
tuổi (1956)
đến cuối đời
Võ Hồng sống
tại Nha
Trang, nhưng
ông sinh ra
và lớn lên
tại vùng
đất Phú Yên
và có lẽ
cũng vì thế
mà văn
chương ông
luôn đau đáu
về vùng đất
nơi chôn
nhau cắt rốn
của mình.
18 tuổi -
“hoa” nở
trong “văn”
Đã có nhiều
nhận định và
nghiên cứu
về văn
chương của
nhà văn Võ
Hồng. Tiến
sĩ ngữ văn
Nguyễn Thị
Thu Trang
khi làm
nghiên cứu
sinh thạc sĩ
đã chọn đề
tài
“Võ Hồng,
nhà văn và
tác phẩm”
do GS
Hoàng Như
Mai hướng
dẫn. PGS-TS
Huỳnh Như
Phương (phản
biện), chia
sẻ: Mong
thấy đề tài
được in
thành sách
để bạn đọc
hiểu thêm về
nhà văn Võ
Hồng.
“Năm 1939
khi đang học
lớp Đệ Tam
trường
College Quy
Nhơn, trong
giờ Việt
văn, thầy
Trần Cảnh
Hảo phê vào
bài văn của
Võ Hồng:
“Tôi nhận
thấy có vài
đóa hoa
trong bài
của anh”.
Anh học trò
thấy vui vì
lời khen của
thầy hơn là
phát hiện ra
mình có khả
năng văn
chương”
(Nguyễn Thị
Thu Trang -
Võ Hồng, nhà
văn và tác
phẩm).
Thời gian
này, ông
cùng bạn bè
viết báo
tường và ông
chọn một
trong số
những truyện
đó gửi cho
Tiểu thuyết
thứ Bảy
(tờ báo có
nhiều độc
giả nhất lúc
đó tại Hà
Nội).
Hơn tháng
sau truyện
được đăng
báo, có tên
Mùa gặt
ký tên Ngân
Sơn (Ngân
Sơn là tên
làng của
ông, phía
sau tên Ngân
Sơn, tòa
soạn chú
thích hai
chữ: Trung
Việt). Niềm
vui của cậu
học trò Võ
Hồng với sự
thành công
khá bất ngờ.
Ông kể lại
cảm xúc của
mình hồi đó:
“Tối đó, tôi
thích quá cứ
lang thang
hết đường
Gia Long, rẽ
qua Jules
Ferry, xuôi
Khải Định,
rồi đi tuốt
xuống biển
ngồi… một
mình” (Võ
Hồng, trả
lời phỏng
vấn báo
Tuổi xanh lơ
số 1/1973
Ông theo học
Tú Tài ở Hà
Nội, chưa
tròn năm thì
chiến tranh
nổ ra, ông
lên tàu về
quê (1943)
bỏ lại bao
nhiêu mơ ước
chưa hoàn
thành. Có
lần, trên
căn gác vắng
53 đường
Hồng Bàng
(Nha Trang),
chúng tôi
hỏi ông về
tác phẩm
Mùa gặt,
Võ Hồng cho
biết: “Chừng
năm ấy loạn
lạc, tản cư,
gồng gánh
chạy giặc…
sách vở cứ
rớt dần dọc
đường. Tờ
Tiểu thuyết
thứ Bảy
cũng rớt
mất… dĩ
nhiên truyện
thì còn in
đậm trong
đầu tôi. Nội
dung tôi mô
tả lại làng
quê của
mình, có con
trâu, con
bò, củ khoai
củ sắn, cô
chú bác
trong làng,
đám bạn nhỏ
và sau đó là
cảnh mùa gặt
lúa ở nơi
làng quê
nghèo khó
của mình.
Truyện không
có nhân vật,
chỉ có cảnh
con người
tất bật với
việc đồng
áng. Chỉ có
vậy…”.
Sau đó ông
lặng lẽ
dạy học,
mãi đến năm
1959 ông mới
in tập
truyện ngắn
đầu tay
Tác phẩm Võ
Hồng để lại
trong lòng
người đọc
nhiều dư vị.
Có những độc
giả, sau khi
đọc truyện
ông bỗng nhớ
đến da diết
về chốn quê
hương cỏ lá.
Có người vào
thư viện đọc
xong rồi xé
vài trang
truyện ông
mô tả một
làng quê với
viên cốm đầu
năm mới,
mang về để
thấy quê
hương thật
gần gũi bên
mình, để tận
hưởng hương
vị ngày Tết
cổ truyền
dân tộc như
thể mình
đang sống
trên mảnh
đất còn đầy
khốn khó
này.
Một cuộc đời
sống động
Từ năm 2006,
nhà văn Võ
Hồng bị
bệnh nằm một
chỗ, phải
trông nhờ
vào sự chăm
sóc của một
người học
trò cũ và
nay trở
thành bạn
vong niên.
Hơn nửa thế
kỷ trôi qua,
ông vẫn luôn
sống trong
cảnh cô đơn
như thế. Năm
1957, vợ ông
qua đời để
lại cho ông
3 người con,
lớn nhất 9
tuổi và nhỏ
nhất 3 tuổi.
Từ ngày vợ
mất, ông
sống cảnh
“gà trống
nuôi con”,
dù Võ Hồng
được nhiều
“fan nữ” hâm
mộ. Lý do
đơn giản là
ông sợ đi
bước nữa sẽ
làm khổ các
con.
Sau này, các
con đều lớn,
ông vẫn
sống vò võ
một mình
trong ngôi
nhà im lặng
ở số 53
đường Hồng
Bàng, Nha
Trang, một
địa chỉ quen
thuộc với
bất kỳ độc
giả nào mến
mộ ông. Niềm
vui của ông
ngoài sách
báo là những
người yêu
mến ông
thường xuyên
ghé thăm.
Năm 2009, Tủ
sách Hoa
hướng dương
của nhà sách
CADASA và
NXB Văn học
đã tái bản
cùng lúc 6
tác phẩm,
trong đó tác
phẩm
Một bông
hồng cho cha
nhận
được sự
ngưỡng mộ
của đông đảo
độc giả.
Một bông
hồng cho cha
là một tạp
bút mỏng,
viết về
người ông,
cha, mẹ và
thầy. Trong
đó có hai
tạp bút viết
về người
cha, bằng
một giọng
văn chân
chất giản dị
đến từng
câu, từng
hình ảnh,
gây xúc
động, dẫu
chỉ đọc một
lần! Chỉ với
vài trang,
ông đã dẫn
dắt độc giả
tiếp cận
hình ảnh
người cha
thay thế vai
trò mẹ khi
bên nôi con,
đến hình ảnh
người cha
nghiêm khắc
mong con
khôn lớn,
rồi bước qua
tuổi trung
niên, lần
đến tuổi
già:
Ngày Vu
Lan, nhiều
chùa tổ chức
lễ hội Bông
hồng cài áo.
Hoa hồng
tượng trưng
cho mẹ. Ðể
tỏ lòng
thương nghĩ
đến cha,
nhiều nơi
buộc thêm
dải nơ tượng
trưng cho
cha. Cha
còn: nơ
xanh. Cha
mất: nơ
trắng. Lễ
đường xếp
thành bốn
dãy, dãy cha
mẹ song
toàn: hoa
hồng nơ
xanh. Mẹ
còn, cha
mất: hoa
hồng, nơ
trắng. Mẹ
mất, cha
còn: hoa
trắng, nơ
xanh. Mẹ cha
đều mất: hoa
trắng, nơ
trắng. Người
dự lễ đứng
theo hoàn
cảnh của
mình. Có
lần, một em
nhỏ tuổi
chừng lên
tám đứng
trong hàng
hoa trắng nơ
trắng. Em
nhìn quanh,
tủi thân
khóc òa và
cả lễ đường
cùng khóc òa
theo”.
Phải chăng,
Một bông
hồng cho cha
xúc động
người đọc vì
Võ Hồng đã
viết về
chính thân
phận của ông
trong cảnh
vừa đóng
“vai cha”
vừa làm “vai
mẹ”?!
Đến trước
khi mất, Võ
Hồng đã in
30 cuốn sách
thuộc nhiều
thể loại:
truyện dài,
truyện ngắn,
đoản văn,
tùy bút,
thơ…
Tác
phẩm Tiếng chuông
chiêu mộ
in
năm 2005
được xem như
cuốn sách
cuối cùng
của Võ Hồng.
Trường Lương Văn Chánh thành lập năm 1946 trong chiến khu thời kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, trường không hoạt động nữa. Mãi cuối những năm 1980, trường Lương Văn Chánh mới được phục hồi và trở thành trường chuyên của tỉnh Phú Yên.
Nhà văn Võ Hồng là một trong ba vị hiệu trưởng trường Lương Văn Chánh thời kỳ ở chiến khu kháng Pháp cùng với thầy Trần Suyền thầy Bùi Xuân Các. Thầy Bùi Xuân Các viết chữ đẹp nổi tiếng và vinh dự được Bác Hồ tặng danh hiệu “ông nghè bút thiếp”.
Nét chữ của thầy Võ Hồng cũng đẹp “một chín một mười” với “ông nghè bút thiếp” Bùi Xuân Các. Hình như, thế hệ thầy Hồng, thầy Các ai viết chữ cũng đẹp.
Đoàn Việt Hùng -
Thanh Kiều
Thể thao & Văn
hóa
|
***
http://www.lieuquanhue.vn
(TT VĂN HÓA PHẬT GIÁO LIỄU QUÁN HUẾ)
Ngày 02/04/2013
Tiếng chuông triêu mộ" vĩnh biệt nhà văn Võ Hồng
THÍCH THANH THẮNG
(LQ) Sau 7 năm lâm bịnh, nhà văn, nhà giáo, cư
sĩ Phật tử Võ Hồng đã qua đời vào lúc 14 giờ ngày 31-03-2013 (nhằm ngày
20-02-Quý Tỵ) tại nhà riêng, hưởng thọ 93 tuổi.
Linh cửu được quàng tại tư gia số 51 đường
Hồng Bàng, phường Tân Lập, TP.Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Lễ di quan tiễn biệt cư sĩ Võ Hồng sẽ tổ chức
vào lúc 15 giờ ngày 04-04-2013, an táng tại Nghĩa Trang Suối Đá, huyện Cam Lâm
(Khánh Hòa)
Cư sĩ Võ Hồng sinh ngày 05-5- 1921 tại làng
Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Cả cuộc đời làm nghề giáo và
viết văn, đã cho ra đời 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70 truyện ngắn, nhiều
tập tùy bút, bút ký, các tập truyện viết cho thiếu nhi, hơn 40 bài viết, bài
khảo cứu, phê bình…
Để truy niệm Cư sĩ Võ Hồng, BBT trang nhà Liễu
Quán Huế trân trọng giới thiệu bài viết "Tiếng chuông triêu mộ" của ĐĐ.
Thích Thanh Thắng như góp một tiếng chuông tiễn biệt Cư sĩ Võ Hồng về đất Phật.
“TIẾNG CHUÔNG TRIÊU MỘ”
Truyện ngắn của Võ Hồng khi nào cũng mang
phong cách như thế, vẫn là cảnh làng quê và những con người bình dị chân chất,
những chuyện tình yêu nhẹ nhàng pha lẫn nhiều hụt hẫng, nuối tiếc, đôi khi là
mất mát, xót thương. Những nhân vật đi vào truyện của ông đều mang trong mình
một số phận có khi là bi kịch, có khi là nghiệp báo, có khi là hư vô… Song tất
cả điều đó chỉ muốn nói rằng, truyện của ông thấm cái thực, và người ta nhìn vào
cái thực ấy để kinh nghiệm về cuộc sống. Đằng sau những nhân vật của ông lung
linh giá trị nhân bản về tình người, tình đời. Những mảnh đời: hạnh phúc, buồn
đau, ẩn nhẫn, lặng lẽ và vô thường, nhưng vang vọng nhịp đập chân thành của cuộc
sống. Và không hoang phí mọi nỗ lực, truyện của ông đánh thức người ta phải suy
nghiệm, cũng như hối hận, trắc ẩn để học cách sống, học cách yêu thương và học
cách làm người.
Với tập truyện ngắn “Tiếng chuông triêu mộ”,
sẽ chẳng có những điều to tát, những triết lý cao siêu trong câu chữ, còn cốt
truyện, tình tiết có vẻ như đơn điệu, chắp vá, nhưng Võ Hồng vẫn rất kỹ, rất
tinh ở cả văn đối thoại lẫn độc thoại, bởi đơn giản nó mang hơi thở của cuộc
sống. Cũng không có nhiều những tình tiết mang tính bi kịch, cao trào hay mâu
thuẫn gay gắt, nhưng mỗi nhân vật tồn tại đều có một cái cớ rất riêng. Cái cớ ấy
có người thích có người không, nhưng lối dẫn chuyện tự nhiên của ông cho dù đôi
chỗ dễ dãi nhưng mục đích vẫn không ngoài cách viết “giản dị thiệt thà, ngắn gọn
không hoa hoè” (Một cách báo hiếu).
Tính “nôm na” có vẻ như quê mùa, dễ dãi ấy
trong truyện của ông là phong cách riêng của ông... Và ở Võ Hồng, chúng ta thấy
toát lên sự cảm thương người phụ nữ - những người đã làm mẹ hay chưa một lần làm
mẹ… Có thể nói, truyện Võ Hồng là những tâm sự khác nhau về số phận của người
phụ nữ: cô Trâm hiền lành trong “Hoa khế lưng đồi”, lúc nào cũng nhớ ngoại, nhớ
quê nhưng tai nạn giao thông bất ngờ ập đến; cô Phấn trong “Nói với hư vô”, chưa
một lần được hạnh phúc mỉm cười mà phải vĩnh viễn ra đi trong sự chung tình mặc
cho lòng người hờ hững… Còn “Dấu chân sa mạc” là tiếng nói đầy cảm thương về số
phận người phụ nữ, ở đó, nhân vật cô Ba phải trải qua cảnh sống từ giàu sang đến
nghèo túng, vật lộn giữa lòng tin người và thói ác độc, khao khát sự thành thực,
thèm muốn sự nương tựa, ghét sự giả dối nhưng phải đối mặt với tai tiếng, bệnh
tật và cái chết. Sẽ có những tình tiết gây thắc mắc, nhưng rồi cũng chẳng có lời
giải nào cụ thể ngoài những cái chết: chết nát nhừ, bầm tím, chết trong hoang
vắng se lạnh, chết ngồi… - kinh nghiệm cuối cùng của một kiếp sống:
“Chặng đường đi đến nấm mồ dễ dàng thoải mái
hơn nhiều so với những chặng đường nhọc nhằn cam go… trong cái xã hội quá nhiều
ác tâm, lường gạt” (Dấu chân sa mạc).
Những xót thương, day dứt còn để lại khi lần
lượt từng mảnh đời bất hạnh được lặng lẽ vùi sâu dưới lòng đất, nhưng chẳng có
người chết nào cô đơn cả. Võ Hồng không muốn họ cô đơn, nên những nhân vật đáng
thương, “bi kịch” của ông vẫn còn có người đứng quan sát họ, hiểu họ, tâm tình
với họ và hơn hết là dành cho họ một vị trí trân trọng trong trái tim mình.
Có lẽ, khám phá nhiều nhất trong truyện ngắn
Võ Hồng là dấu ấn của sự vô thường, luân chuyển: hợp rồi tan, xôn xao rồi vắng
lặng, giàu sang bỗng chốc nghèo túng… nhưng tất cả mạch chuyển trong sự đổi thay
ấy vẫn đau đáu những ước mơ và khát vọng. Sự giàu sang dễ đổi thay, dễ mâu thuẫn
với tình người, dễ làm người ta xa nhau… Nhưng những cặp song hành, giàu nghèo,
sang hèn, khôn dại, trí ngu… trong truyện của ông không thể hiện nặng nề bằng sự
căm tức, đố kị mà toát lên những giá trị nhân văn, tự nhiên, là duyên là nghiệp…
Cái phong cách “chỉ là người quan sát” của Võ
Hồng khiến chúng ta nhớ đến những lời văn chiêu hồn tha thiết của Nguyễn Du,
chẳng thế mà, có lúc vì không muốn cuộc sống có thêm phiền não, Võ Hồng xúc động
thương đời đến mức muốn rơi nước mắt khi nghe câu “Phiền não vô tận thệ nguyện
đoạn” (Tiếng chuông triêu mộ).
Nói thế cũng không thể bỏ qua hồn quê, chất
quê trong truyện của ông. Có lúc tính cách quê ấy cần mẫn, lầm lũi, dễ thương
nhưng có lúc khắc nghiệt: “Nghèo nàn là một sợi dây thân ái ràng buộc mọi người.
Khi có đồng tiền dính dự vào thì đồng tiền gây ra mầm chia rẽ…” (Mái chùa xưa),
hay: “Chuyện nào hay thì được coi là thật. Nghe chuyện người là một lối tiêu
khiển…” (Dấu chân sa mạc). Khắc nghiệt là thế nhưng ở đó tuổi thơ và cảnh vật
loang loáng qua đi và in dấu khó phai trong miền ký ức.
Võ Hồng quan sát rất kỹ “triết lý quê” để có
thể giải phóng những toan tính đang tràn vào cõi tâm linh, xâm lấn sự yên bình,
bởi thế giới tâm linh trong mắt ông bao giờ cũng đẹp, và lý do ông tôn vinh cái
đẹp ấy, giản dị chỉ là để yêu người, tin người. Võ Hồng thấm tình quê, cử chỉ
quê, tính cách quê nên các nhân vật của ông hầu hết đều có tuổi thơ và bước vào
cuộc đời bằng những nhân duyên khác nhau nhưng không khi nào quá đà buông thả mà
nhiều khát khao yêu và sống.
Có thể nói, truyện của ông như một miền ký ức
đầy “tổn thương” nhưng tế nhị, bao dung. Đọc truyện của ông người ở xa quê hương
có cảm tưởng như được trở về quê hương, và làng quê, mái chùa, tiếng chuông sớm
chiều hiện về trực tiếp hơn, sinh động hơn… Cái mạch quê, nếp quê có khi bị xáo
trộn, hay được miêu tả giống như cảnh sống “nhàn nhã mà uể oải” nhưng nó có sự
vận động thôi thúc lòng người, sự “vận động tĩnh” để giữ hồn, giữ nếp, để đưa ra
một kết luận sống: “Mọi nguyên do đều vô ích khi không sửa chữa được thực tại”
(Đi con đường khác). Cõi người chúng ta có nhiều đổ vỡ, và cũng có nhiều phương
cách để vãn hồi nhưng sự lạnh nhạt, hờ hững, vô tình của xã hội hiện đại làm cho
mỗi ngày một ít đi những người biết day dứt, trắc ẩn trước một số phận.
Cuộc đời ai cũng có những bí ẩn, những chốn
riêng, những tâm tình sâu kín,… nhưng nhân vật của Võ Hồng cứ tràn ra những
duyên phận, có khi là tiếng vang của tuổi trẻ, có khi là giọt nước mắt hối hận,
có khi quyết liệt dứt bỏ để đi tìm sự thanh cao, có khi là sự đa sầu, đa cảm để
chiêm nghiệm một cái gì đó đã lùi xa và nối kết với hiện tại. Tuy nhiên, đậm nét
ở ông là dấu vết của sự cô đơn, trống vắng và sự mất mát, tất cả đều được dồn tụ
thành những cảm hoài xao xuyến thấm đượm tình người.
(Vĩnh biệt Nhà văn Võ
Hồng)
***
Báo KHÁNH HÒA
Ngày 2.4.2013
Nhà văn Võ Hồng:
Người gieo suối nguồn yêu thương
XUÂN THÀNH
Nhớ đến nhà văn Võ Hồng, người đọc nhớ đến
những trang văn đầy chất thơ, thấm đẫm tình người, tình yêu quê hương… Văn của
ông nhẹ nhàng, không có những ngôn từ đao to búa lớn nhưng lại có sức sống lâu
bền. Tình yêu con người bàng bạc trong từng câu từng chữ, khi gấp sách rồi lòng
vẫn còn xao động.
Tuy đã biết nhà văn Võ Hồng bệnh nặng từ lâu,
nhưng khi nghe tin ông ra đi vào chiều 31-3, tôi không khỏi xúc động. Giây phút
nghe tin “Người về đầu non”, tôi lại nhớ đến lần may mắn theo họa sĩ Thanh Hồ
gặp ông tại nhà riêng vào tháng 9-2006.
Thời điểm ấy, nhà văn vẫn lặng lẽ sống một
mình trong căn nhà nhỏ nép mình bên con phố Hồng Bàng (TP. Nha Trang). Mỗi khi
có ai đó muốn gặp ông, chỉ cần rung cái chuông làm bằng lon sữa bò phát ra tiếng
kêu leng keng là ông có mặt để đón khách. Hôm chúng tôi đến, cái “chuông sữa bò”
ấy đã không còn, nhà văn cũng không ra mở cửa mà thay vào đó là người học trò,
người nữ thư ký riêng của ông. Sau một lần bạo bệnh cách đó vài tháng, nhà văn
Võ Hồng gần như không bước chân ra ngoài. Sợi dây nối ông với thế giới sinh động
bên ngoài là vài cuốn tạp chí, báo mà người nhà mua cho ông. Căn phòng nhỏ trên
gác của ông thường xuyên khép hờ để tránh gió, ở đó là một thế giới riêng của
ông với tủ sách ố vàng, những tấm ảnh đã nhuốm màu thời gian. Ảnh của bà Diệu
Báu, người vợ đã sớm lìa xa ông và ba người con còn ở tuổi ấu thơ mà ông thường
nhắc đến trong câu chuyện về đời mình được đặt ở vị trí dễ nhìn thấy nhất. Có
cảm tưởng như hàng ngày, ông vẫn thường xuyên trò chuyện, chia sẻ vui buồn cùng
với bà ấy.
Nghe người nhà báo có người quen đến thăm, nhà
văn Võ Hồng liền ra tiếp khách dù bước chân vẫn còn yếu. Hôm ấy, ông mặc một
chiếc áo sơ mi tay dài, đầu đội mũ len che kín 2 tai để tránh gió. Nghe họa sĩ
Thanh Hồ nhắc lại chuyện cũ, ông lặng im chìm vào hồi tưởng. Nhắc đến chuyện
viết văn, nhà văn Võ Hồng cho biết: “Trí nhớ của tôi đã bị loãng rồi nên hầu như
không viết nữa, thỉnh thoảng đọc sách cho đỡ buồn, nhưng vẫn hay quên lắm”. Tôi
nhận ra trong giọng nói của ông có sự khát khao được viết của một người cầm bút,
dù suốt một đời theo nghiệp văn chương, ông đã cần mẫn như con tằm nhả đến những
sợi tơ cuối cùng “dệt” nên những trang văn làm rung động lòng người. Nhà văn Võ
Hồng nói một cách nhỏ nhẹ: “Tôi mong ước sẽ có một nhà xuất bản nào đó tập hợp 3
tác phẩm Một bông hồng cho cha, Nghĩ về mẹ, Nửa chữ cũng là thầy thành một cuốn
sách mỏng để làm quà tặng cho học sinh trong những ngày tựu trường để gieo vào
lòng các em những suối nguồn yêu thương”. Cuộc trò chuyện không dài, nhưng ấn
tượng về một nhà văn lớn, rất khiêm nhường với cái chắp tay xá chào lúc từ biệt
khiến tôi nhớ mãi.
Hơn 60 năm cầm bút, nhà văn Võ Hồng đã làm
trọn thiên chức của một nhà văn với 8 tiểu thuyết và truyện dài, hơn 70 truyện
ngắn, nhiều tập tùy bút, bút ký. Nhắc đến văn của ông, độc giả không quên những
tác phẩm như: Hoài cố nhân, Con suối mùa xuân, Hoa bươm bướm, Người về đầu
non, Trầm mặc cây rừng, Vết hằn năm tháng, Nhánh rong phiêu bạt, Một bông hồng
cho cha... Văn xuôi của Võ Hồng không có những câu chuyện lắt léo, thay vào
đó là những chuyện rất bình thường xảy ra trong đời sống hàng ngày, nhưng vẫn
rất thu hút bởi giọng văn luôn nhỏ nhẹ nhưng không kém phần sâu sắc. Văn của ông
luôn thấm đẫm tình người, những vùng quê nghèo khó, những con người lam lũ luôn
được nói đến với giọng văn trìu mến, bao dung. Cảm tưởng như tất cả những gì
hiện ra dưới ngòi bút của ông, trước khi thành mực chảy thấm vào trang sách đã
chảy qua trái tim nhân hậu, hết mực yêu thương con người và quê hương đất nước
của ông.
Đọc văn của Võ Hồng, có cảm giác như ông đang
đi gieo những suối nguồn yêu thương. Các nhân vật của ông dù là “phản diện” cũng
được miêu tả rất độ lượng và thường quay về làm người tốt. Nhà nghiên cứu Phạm
Phú Phong viết: “Tâm hồn Võ Hồng như được đúc bằng khối thủy tinh trong suốt
tình thương, không chịu nổi những va chạm mạnh nên đôi khi lên án cái ác cũng
ngọt ngào”. Sự nhân từ ấy có thể dẫn đến những hạn chế về mặt văn chương, nhưng
phản ánh đúng tính cách của một nhà giáo - nhà văn, luôn muốn mọi người hướng
thiện. Giữa cuộc sống xô bồ, nhiều người tìm về những trang văn của ông để tìm
thấy một sự thảnh thơi. Nhiều người nhận xét, đọc những trang văn của Võ Hồng
luôn cảm thấy một nỗi buồn nhẹ nhàng len lỏi vào tâm hồn nhưng kỳ diệu thay, sau
nỗi buồn ấy là sự thanh thản, bình tĩnh tiếp nhận chứ không phải bi lụy. Bởi đó
là những trang văn được viết ra từ sự trải nghiệm của cả một đời người, của
một tâm hồn yêu cuộc sống.
Giờ đây, nhà văn Võ Hồng - người viết những
trang văn thấm đẫm tình người ấy đã về với cõi vĩnh hằng. Người nhà cho biết,
khi ra đi, gương mặt ông rất thanh thản như đi vào giấc ngủ, bởi cuộc đời ông
không có gì phải tiếc nuối. Nhà văn Võ Hồng đã “về đầu non” nhưng bạn đọc vẫn
luôn nhớ đến ông. Nhiều người vẫn tìm “gặp” nhà văn mỗi ngày bằng việc vào trang
web www.vohong.de để đọc tác phẩm của ông.
***
http://lamhongs.wordpress.com
Ngày 2/4/2013
LAM HỒNG
Vọng
Võ Hồng
“Nhánh rong phiêu bạt” giang hồ
Mặc cho ” gió cuốn “ sóng vồ hề chi
“Hoài cố nhân “ lòng khắc ghi
Cánh ” hoa bươm bướm “ xuân thì mộng hoa
” Ông ngoại của bạn tôi” già
Mênh mông ” khoảng trống “ sau là còn ai…!?
“Như cánh chim bay” mãi hoài
“Ngày xuân êm đềm ” mộng quay quắt đời
“Vết hằn năm tháng “ không nguôi
Với “tình yêu đất” yêu trời thiết tha
“Người về đầu non “ với ta
“Bên đập đồng cháy “ hiểu ra ít nhiều
“Dấu chân sa mạc “ hắt hiu
Biết ” thế giới của năm nhiều “ gian nan
Mong rằng ” lá vẫn xanh “ non
“Tiếng chuông chiêu mộ” gọi hồn vang vang
“Một bông hồng cho cha “ an
“Vùng trời thơ ấu ” bàng hoàng gió mưa
Ai còn “Thương mái trường xưa”
“Chúng tôi có mặt” tiễn đưa bùi ngùi
“Mùa gặt” mong hái niềm vui
Sao đành “(tay) vẫy tay ngậm ngùi “ tiếc thương
Người đi ” qua bên kia đường “
Còn ” những giọt đắng “ vô thường cho ai
“Khoảng mát” đêm lặng sầu cay
“Trong vùng rêu im lặng” lay lắt đời
“Trầm mặt cây rừng” mãi thôi
Đâu “con suối mùa xuân “ trôi nhiệm màu
Vườn xưa “thơm ngát hương cau”
Nhìn “tia nắng rớt” sáng màu huyền quang
(
Những từ trong ” ” là tác phẩm của Võ Hồng )
***
http://nguyenhuuduyen.blogspot.com
Ngày 2/4/2013
TIN BUỒN: NHÀ VĂN VÕ HỒNG ĐÃ QUA
ĐỜI
>Chúng tôi vô cùng thương
tiếc hay tin:
>NHÀ VĂN
>VÕ HỒNG
>Sinh ngày 05-05-1921 tại
Ngân Sơn, Tuy An, Phú Yên
>Vừa tạ thế lúc 14 giờ ngày
31-03-2013
>(nhằm ngày 20-02- Quý Tỵ)
>Hưởng thọ 93 tuổi
>Nhập quan lúc 08g00 ngày
01-04-2013
Di quan lúc 15g00 ngày 04-04-2013
An táng tại nghĩa trang Suối Đá, xã Suối
Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa
Thành tâm kính chia buồn cùng tang quyến
và cầu chúc hương hồn
Nhà Văn VÕ HỒNG sớm được tiêu diêu nơi
đất Phật
Nhóm thân hữu:
Khuất Đẩu, Đỗ Nghê, Nguyên Minh, Trần
Hoài Thư, Đinh Cường, Lữ Quỳnh, Phạm Cao Hoàng, Lữ Kiều, Lê Ký
Thương, Sâm Thương, Ban Mai, Nguyệt Mai, Chu Trầm Nguyên Minh,
Nguyễn Tùng Vân, Trương Văn Dân, Elena Pucillo Trương, Cao Quảng
Văn, Đoàn Văn Khánh, Huỳnh Như Phương, Mang Viên Long, Khánh
Linh, Trần Huiền Ân, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Ước, Đặng Châu Long, Hải
Phương, Thanh Nhung, Từ Sâm, Tâm Tấn
|
Báo điện tử Nhà Văn THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
Ngày 2/4/2013
Đăng
lại bài VÕ HỒNG ĐÃ VỀ ĐẦU NON của Trần Huiền Ân
***
http://www.nguoi-viet.com
Ngày 2/4/2013

***
http://sangtao.org
Ngày 2/4/2013
Ra đi để phục sinh
ĐẶNG CHÂU LONG
Kính viếng thày Võ Hồng, nhà
văn nhân bản
Hỡi thân phận, giấc mơ trăm năm
Bãi bể nương dâu, rút ruột tơ tằm
Sao không ngàn năm, vạn năm, vĩnh viễn
không gian bất tận, thời gian vô cùng
(Võ Hồng, Phù Thế)
Nhẹ nhàng như cánh gió, Thày đã bước vào miền hư vô như
định mệnh đã an bài. Dùng bữa trưa, ngủ một giấc trăm năm thanh thản. 14 giờ
ngày 31- 03-2013, nhà văn cổ thụ miền sông Ba Võ Hồng đã vĩnh viễn ra đi.
Chính xác và trang nghiêm của một nhà giáo, Thày Võ Hồng
không chọn ngày Poisson d’Avril 01-04 bông phèng như Trịnh Công Sơn, mà phải
ra đi đúng vào ngày PhụcSinh Chúa nhật 31-03-2013. Ra đi để sống lại.
Người đứng thẫn thờ, buồn hay vui đây ?
Thương kẻ khuất mặt ? Ai thương dùm mi ?
Ảo hóa. Ảo hóa. Thân phù du nhỏ
Vinh nhục sướng khổ nặng đôi vai gầy
(Võ Hồng, Phù Thế)
Nhìn lại khoảng dài cuộc sống của Thày, từ khi sinh ra
ngày 05-05-1921 được mấy ngày như ý ? Cáng đáng 3 con thơ dại sau khi vợ
thày ra đi năm 1957 để rồi sau 1975 đàn con như những cánh chim bằng bay xa
dựng nghiệp. Ngày Thày mất cũng chỉ là chị Nguyễn thị Đạm, người học trò,
người đồng nghiệp cùng trường và cũng là người trân trọng, ghi chép, giữ gìn
văn nghiệp của Thày, có mặt trong phút cuối. Bên nhà chị thường trực có
camera theo dõi bệnh trạng của thày từ xa và nhà chị chỉ cách nhà thày vài
trăm mét. Quyết định ở lại quê nhà của thày như quyết định của người qua một
con đường dài mõi cánh, chỉ muốn thu đời mình vào khung ký ức đơn độc cho
khoảng đời còn lại.
Cho đến một ngày kia … tôi sẽ nhẹ nhàng giã từ
Hạnh phúc yêu thương … Băng giá mây mù …
Nhưng trên sân, chiếc ghế cô đơn uy nghi còn đó
Tiếp tục ngồi chờ, lặng lẽ chờ cho mãi đến thiên thu.
(Võ Hồng, Di ngôn, 1989)
Sau 1975, Thày quyết định giới hạn sinh hoạt văn học của
mình trong lãnh vực giáo dục và tuổi thơ. Năm 1977 thày nhận quyết định làm
nhà văn dự bị của hội nhà văn như một nỗi ngậm ngùi sau 38 năm cầm
bút. Truyện của thày, quyển Ông Cháu đã phải xuất bản nước ngoài với bút
danh Võ Tri Thủy (tên con gái thày). Ngay cả truyện Thiên Đường ở trên cao
(1988) cũng chỉ được thày sáng tác trước năm 1975.
Tuy vậy, nhưng khi đưa ra một nhận xét xã hội nào, thày
đều rất cẩn trọng và có trách nhiệm:
Năm 1985, tạp chí Văn nghệ Phú Khánh đặt câu hỏi: “Xin
cho những nhận xét về tình hình văn nghệ ở địa phương ta sau 10 năm”. Tôi
ghi những suy nghĩ rồi trao cho anh Tổng biên tập, vừa nói: “Tôi có thể viện
cớ là bệnh, là bận để khỏi trả lời. Nhưng lòng tự trọng không cho phép tôi
nói dối. Nhưng đưa anh đọc rồi xin anh cho lại. Ðừng đăng. Bởi nếu đăng thì
tôi bị khó khăn”. Sau đây là sao y tờ giấy tôi trả lời:
“… Có một nhược điểm thường gặp nơi văn chương địa phương
cấp nhỏ, cấp thấp… đó là đọc xong thấy tất cả đều tốt, mọi việc đều hay,
tiến bộ khả quan, mọi người vừa lòng. Văn chương tròn trịa lý tưởng! Không
dám có những suy nghĩ gai góc, không cho có những cảm xúc mới lạ, độc đáo…
Mà chỉ được cảm xúc thông thường, bình thường, tầm thường, bằng phẳng, công
thức, gần như đã vạch sẵn. Văn chương được bào chế như những món ăn quá lành
mạnh, bởi đã được sát trùng quá kỹ lưỡng. Như kho cá, rim thịt đúng theo
sách dạy gia chánh.
Mà đúng ra xã hội đòi hỏi người cầm bút phải nhìn thấy
những vấn đề, phát biểu những ý nghĩ, nêu lên những băn khoăn… để được người
đọc cùng cảm xúc, cùng suy nghĩ. Có vậy xã hội mới tiến lên được. Chớ nếu
tròn trịa như bánh xe thì xã hội cứ như thế mà lăn tới an toàn, hà tất còn
cần đến văn chương làm gì ?”.
(Võ Hồng, trả lời phỏng vấn tạp chí Cánh Én Nha trang năm 1988).
Một người thày, một nhà văn giản dị và cô đơn nhưng không
cô độc trong đời sống. Phạm Công Thiện từng viết cho thày:
Anh V.H ạ, anh có cần gì phải thuyết giảng philo ? Tất cả
những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm
tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là
sagesse của quả tim.
Và một Triệu trang giấy Triết Học Cũng Không Ðáng Giá
Bằng Một tiếng Ðập Của Con Tim. Anh có nghe rõ chưa ? Tôi muốn hét to lên
như vậy.
Anh có nghe tim con người đập trong những trang Xuất
hành năm mới, trong Trận đòn hòa giải? Xuất hành năm mới còn cảm
động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất. Những đứa
nhỏ Hằng, Hào và Thủy trong Xuất hành năm mới và Trận đòn hòa giải là những
hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả
những đứa trẻ ở trần gian này.
(Phạm Công Thiện, trích thư gởi Võ Hồng)
Từ ngày về thăm thày 12-12-2012 đến nay chưa đầy 4 tháng,
những cảm thức về nỗi đời chưa nguôi trong tôi. Nay nghe tin thày đã vẫy
tay ngậm ngùi bước qua bên kia đường, khoảng mát của thày sẽ còn
đọng mãi cho mai hậu những nụ tình người.
Xin thày hãy bình an phục sinh, tất cả phức tạp, đa sắc
ngày thường giờ không níu được nỗi cô đơn của thày. Năm mươi lăm năm xa cách
cô, giờ thày đã có thể thỏng tay tương phùng rồi đó. Sẽ không còn những cảnh
đơn điệu để thày phải ghi lại những giòng thơ vần trắc này:
Năm giờ sáng mở mắt
Nhìn quanh: chỉ ghế bàn
Thèm thấy một khuôn mặt
Thèm nghe tiếng dịu dàng
Mười giờ đêm thâm u
Bóng tối như cõi chết
Tình yêu, tìm nơi đâu
Hạnh phúc, chào vĩnh biệt
Vậy đó, ngày bắt đầu
Vậy đó, ngày kết thúc
Những ngày nặng buồn đau
Một chuỗi ngày tù ngục
(Võ Hồng, Quạnh hiu)
Xin kính tiễn một người thày, một nhà văn và một con
người vô cùng chân chính
31-03-2013
***
http://tuhoaitan.blogspot.com
http://phovanblog.blogspot.com
Ngày
2/4/2013 Ngày 9/4/2013
Không còn dây chuông để gọi Võ
Hồng
Lữ Quỳnh
Những ghi chép như một nén hương tưởng niệm nhà văn Võ Hồng
Ngôi nhà của nhà văn Võ Hồng trước đây mang số 53 Hồng Bàng Nha
Trang. Cái địa chỉ này quen thuộc tưởng như gắn liền với tên tuổi anh. Lần
nào ghé Nha Trang tôi cũng đến thăm anh. Đứng ngoài đường, vói tay vào phía
sau cánh cổng sắt, nắm sợi dây chuông giựt vài cái, tiếng leng keng vang
lên, và từ trên lầu anh nhóai người ra nhìn xuống, anh hỏi nhưng không đợi
khách trả lời, chân đã bước xuống cầu thang.
Đó là những ngày giữa năm 1995, anh còn khỏe mạnh. Thường thì
khi gặp, anh mừng rỡ ồ lên thành tiếng rồi kéo nhau lên gác, vừa đi vừa hỏi
chuyện. Chúng tôi ngồi ở chiếc bàn kê sẳn ở khoảng sân hẹp trước phòng ngủ
của anh. Anh nói chuyện vui vẻ, kể về những tác phẩm tái bản, cả một cuốn
mới, đang hỏi nhà xuất bản để in. Anh đưa tôi vào phòng, chỉ cho xem kệ sách
nhỏ, nhiều tờ báo cũ có những bài viết về anh. Căn phòng ngổn ngang chăn
màn, radio, chén ly, sách báo. Lộn xộn chẳng khác nào của một chàng thanh
niên độc thân lười biếng!
Qua năm 2005, khoảng sau tết âm lịch tôi từ Mỹ về, khi ra Nha Trang ghé lại
thăm anh. Lần này anh tiếp tôi trong phòng. Vẫn căn phòng trên gác ấy, với
bề bộn sách báo, tưởng như không thay đổi dù nhiều năm tháng đã qua. Anh hỏi
thăm tôi về vài bạn văn cùng quê ở hải ngoai.
Anh hỏi nhiều chuyện không đâu, và điều này làm tôi
rất ái ngại nhìn anh lo lắng. Anh nghe tôi trả lời và cẩn thận ghi vào sổ
tay, từng chi tiết. Tôi buồn vì biết anh bắt đầu lẫn! Anh chỉ cho tôi cái
sân nhỏ trước phòng được anh căng dây thép treo khoảng mười mấy cái bìa lịch
màu đỏ chói. Anh có vẻ thích trò chơi này. Anh nói ngày tết treo lên màu đỏ
thế này cho vui mắt Tôi xin anh chụp vài tấm hình . Anh kéo tôi ra sân,
đứng trước những tấm bìa lịch. Rồi sực nhớ ra cần phải thay chiếc mũ đang
đội, anh nói toa đợi moa một chút rồi bước vội vào phòng loay hoay
tìm chiếc mũ quen thuộc mà anh thường đội, nhưng không thấy. Tôi thầm nghĩ,
anh Võ Hồng điệu quá. Thôi anh ạ, chiếc mũ đang đội cũng đẹp chán rồi.
Anh cười hồn nhiên. (**) Dịp này anh ký tặng tôi cuốn “Võ Hồng, nhà văn và
tác phẩm” của Nguyễn thị Thu Trang. Tôi cũng xin anh cuốn “Một bông hồng cho
cha”, bản copy đang nằm lẫn giữa đám sách báo trên giường.
Từ giả anh lần ấy không ngờ là lần cuối cùng từ giả
một Võ Hồng còn tỉnh táo, nói cười.
Bởi ba năm sau khi tôi ghé lại thì anh đã nằm liệt
giường trong căn phòng nhà dưới, không còn nhận ra những người đến thăm mình
là ai nữa ./.
San Jose, 1-4-2013
Báo NGƯỜI LAO ĐỘNG
Ngày 2/4/2013
Võ Hồng trong trí nhớ
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Có lẽ ít ai biết rằng nhà văn có những đóng góp quan trọng
cho văn học hiện đại như Võ Hồng, sau ngày hòa bình, được “kết nạp” lại vào Hội
Nhà văn Việt Nam...
Mặc dù có dịp
liên lạc qua thư từ với thầy Võ Hồng nhiều năm trước, mãi đến mùa hè năm 1994,
tôi mới có cơ duyên gặp ông lần đầu tiên. Lần đó, tôi hẹn đến thăm ông cùng với
các anh chị học viên trong lớp cao học do Trường Đại học Sư phạm TPHCM tổ chức.
Lần đầu gặp ông mà tôi cảm thấy như mình đã quen từ lâu cái dáng người cao ráo
mảnh mai, đôi mắt tinh anh giấu sau cặp kiếng lão, nụ cười hóm hỉnh và giọng nói
Phú Yên thuần chất đó. Đúng như trong hình dung của tôi khi đọc văn ông và xem
tấm ảnh ông đăng trên bìa Tạp chí Văn, ông là một nhà giáo thuần thành và một
nhà văn đôn hậu.
Hai năm sau,
lớp học ấy hoàn thành luận văn và bảo vệ tốt nghiệp ngay tại Nha Trang. Các thầy
giáo từ TPHCM ra chấm thi đến thăm và mời ông dự lễ. Đó cũng là dịp đài truyền
hình làm cuốn phim về nhà văn, nhà giáo Võ Hồng. Ông cười vui: “Lâu lắm rồi qua
mới ăn mặc trịnh trọng đi dự lễ như thế này. Sáng nay, anh đạo diễn còn bắt qua
đi dạo ngoài bờ biển để quay phim. Ui chao, từ năm 75 đến giờ qua mới lại ra
biển!”.
Trước đó khá
lâu, khoảng năm 1985, tôi chọn giúp cho Nhà Xuất bản Cửu Long một tập sách gồm
15 truyện ngắn của các nhà văn miền Nam. Sau nhiều lần đắn đo, giữa hàng chục
truyện ngắn của Võ Hồng, tôi quyết định chọn Bên đập Đồng Cháy. Nhưng văn
bản mà tôi có từ một tờ báo cũ bị kiểm duyệt cắt mất mấy câu, thế là tôi mạo
muội viết thư xin ông bản thảo gốc truyện ấy để đăng nguyên vẹn tác phẩm. Chỉ 10
ngày sau, tôi nhận được thư trả lời: ông bảo Nhẹ hơn cơn gió thoảng mới
là truyện ngắn ông thích hơn cả. Nhưng ông vẫn gửi kèm theo bản đánh máy rõ ràng
toàn văn truyện Bên đập Đồng Cháy với nhan đề ghi bằng bút chì màu.
Những lần
gặp gỡ ngắn ngủi, tôi luôn học được ở ông tính cẩn trọng và chu đáo của nghề
viết. Có lần ông hỏi tôi, “em hay viết báo, có bao giờ em giở ra đọc lại những
bài báo của mình đăng 10 năm trước không, có bao giờ đọc rồi thấy đỏ mặt không?”
Tôi thú thật với ông là có. Thi thoảng, ông nhờ tôi chuyển bản thảo cho một tờ
báo hay một nhà xuất bản nào đó. Ngoài những truyện ngắn về tuổi thơ, ông còn
viết một loạt bài về chuyện học văn ở nhà trường mà ông bảo tôi đề nghị Báo
Yêu trẻ đăng liên tục nhiều kỳ...
Ở miền Nam
trước đây, ít có nhà văn nào viết về cuộc kháng chiến chống Pháp vừa chân thực
vừa khẳng khái như Võ Hồng. Những kỷ niệm kháng chiến của ông được lưu giữ và
thăng hoa trong Hoa bươm bướm, Như cánh chim bay… Với Võ Hồng, cuộc kháng
chiến đó là một vận hội của sự đoàn kết dân tộc lẽ ra không nên bỏ lỡ. Những nhà
văn, nhà phê bình ở miền Nam thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau khi nói về tác
phẩm của Võ Hồng đều tỏ ra trân trọng suy nghĩ đó của ông.
Có lẽ ít ai
biết rằng nhà văn có những đóng góp quan trọng cho văn học hiện đại, nổi tiếng
từ những năm 1960, mà sau ngày hòa bình đã được “kết nạp” lại vào Hội Nhà văn
Việt Nam. Trong một phụ san của Báo Văn nghệ in danh sách các nhà văn hội viên,
Võ Hồng cùng với Sơn Nam nằm trong số những “hội viên dự bị”. Được xếp vào
khuynh hướng văn học “yêu nước và tiến bộ” mà sau ngày thống nhất hơn 10 năm,
ông mới chính thức “tái xuất giang hồ” với tiểu thuyết Thiên đường ở trên cao.
Võ Phiến có
lần trách móc một cách tế nhị: “Võ Hồng quả được an thân. Sống từ chế độ này qua
chế độ kia, thế cuộc bao phen đổi thay, ông vẫn an, vẫn nhàn, vẫn khỏe. Vẫn viết
lách để răn đời. Răn toàn điều lành…”. Trước Tết Quý Tỵ, tôi đến chơi với một
người bạn thân ở Trạm Hành, Cầu Đất, cách Đà Lạt 25 cây số trên Quốc lộ 20 dẫn
về Phan Rang.
Đứng trên
triền dốc nhìn xuống bạt ngàn đồi chè và cà phê xanh mượt, tôi nhớ đến truyện
ngắn Trạm Hành của Võ Hồng đăng trên Giữ thơm quê mẹ hơn 40 năm
trước. Câu chuyện về một người thanh niên đi tản cư đến chốn này, mong có cơ hội
làm việc gì có ích cho kháng chiến và khi cơ hội ấy đến thì lại quyến luyến
trước khi xa lìa cảnh vật và con người nơi đây. Không biết trong ấy có bao nhiêu
yếu tố tự truyện nhưng chắc chắn Võ Hồng đã thông thuộc miền đất này mới miêu tả
được như vậy. Nhưng từ ấy đến nay, người không thiết gì ra đến biển dù chỉ cách
mấy con phố, chắc cũng không có dịp nào trở về núi đồi chốn cũ.
Nghe tin Võ
Hồng tạ thế, Đặng Tiến bảo rằng cần phải có thời gian để giải mã văn chương Võ
Hồng. Có lẽ cũng cần phải có thời gian để hiểu con người Võ Hồng, xem đằng sau
cuộc đời lặng lẽ, trầm mặc đó có thật là sự an thân, an nhàn hay không; hiểu
được tại sao ông chấp nhận dừng chân một chỗ, trụ lại trong tín ngưỡng nghệ
thuật của mình, giam mình trong thế giới đó để “hoài cố nhân”.
****
***
www.tin247.com
Theo
Báo Phú Yên|
Thứ ba, 02/04/2013
Người thầy ở trong tôi
HUỲNH THẠCH THẢO
Trước
lúc tôi chưa gặp ông, chỉ nghe cô và cha hay kể về một người thầy thuở còn
dạy hai người ở ngôi trường quê tận ngoài Tuy An. Nhưng các tác phẩm của Võ
Hồng (ông vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo) tôi đã đọc hầu hết khi còn ngồi
trên ghế nhà trường, chưa kể một số tác phẩm mà cha tôi có được trong tủ
sách gia đình: Như cánh chim bay, Người về đầu non, Hoa bươm bướm, Nhánh
rong phiêu bạt, Bên đập Đồng Cháy, Thiên đường ở trên cao...
Tôi
say mê từng cuốn vì nó thu gọn hình ảnh quê hương, con người của xứ Nẫu -
Phú Yên. Và khi tôi vào nghiệp viết, thường trò chuyện cùng cha, ông lại kể
thầy Võ Hồng vừa nghiêm khắc vừa nhân hậu, vừa gần gũi mọi người vừa thủy
chung với người vợ mất sớm. Thầy gắn bó với đám học trò quê lặn lội đến
trường Lương Văn Chánh, ngôi trường duy nhất của tỉnh đặt tận miền núi vì
lúc này, Phú Yên đang là vùng giặc Pháp hay càn, bắn phá. Lúc ấy, tôi rất
muốn gặp ông nhưng chần chừ không dám…
Một lần vào cuối năm 1998, tôi vào
Khánh Hòa gặp anh chị văn nghệ sĩ. Nhà văn Cao Duy Thảo đưa tôi đến gặp một
người đồng hương là ông, nhà văn Võ Hồng. Ông đang ngồi yên lặng phía cuối
dãy bàn trong bộ kaki đen, cặp kính trắng, mũ bêrê đen, dáng người cao gầy
mảnh khảnh. Khi biết tôi từ Phú Yên vào, ông mừng rỡ đứng vội dậy, choàng
vai: Huỳnh Thạch Thảo đây hả, trẻ quá. Qua đọc của em nhiều, thích
lắm, nhưng đôi chỗ còn sơ sót. Và hài hước "Mà này, trưa lên nhà qua,
ở đây không tiện trao đổi vì ai cũng lo nói!". Thầy ở cách khá xa trung tâm
thành phố trong ngôi nhà số 51, phố Hồng Bàng, TP Nha Trang. Một ngôi nhà
nhỏ yên ắng, chuông gọi cửa là sợi dây dài cột chùm lon rỗng phía sau, bụi
trúc nhà bên cho nhánh râm mát. Thầy dẫn tôi lên gác, nơi ở và viết với căn
phòng ngủ cùng khoảng sân rộng trồng nhiều hoa bươm bướm và những chậu gấm
gạc nai. Bất chợt, tôi nhớ các tác phẩm của thầy, trong đó là ngôi trường
trồng hoa bươm bướm, nhiều bụi chà rang vì gần núi, những dãy trâm bầu trảy
ngọn làm tường rào với tiếng cười trong trẻo của các trò nhỏ. Gặp lần đầu,
thầy ngồi kể những năm tháng tuổi thơ mình ở Lò Gốm, về dòng sông Ngân mùa
nước cạn, soi mướp hoa vàng mùa nước dâng, về ngôi trường ẩn mình trong hốc
núi nhiều lần di dời, nơi ấy có thầy Bùi Xuân Các với chữ viết chân phương
để tất cả học trò nhà quê tập viết chữ đẹp (sau này thầy Các tập kết ra Bắc,
được gọi là Ông Nghè bút thiếp). Thầy nói nhỏ: "Vùng đất quê mình có rất
nhiều chuyện để viết, qua viết mãi vẫn không hết mà không cần đi đâu
xa cả, có chăng là tấm lòng yêu quê hương mình đến đâu để mà viết…". Chia
tay thầy khi đã bóng xế, thầy đưa ra tận cửa với nụ cười rộng mở. "Thảo ơi,
sao không đội mũ… Thôi, cho qua gửi lời thăm ngoài ấy. Mà em cũng nhớ
gửi tác phẩm vào cho qua". Thầy đứng, tay che mắt tránh nắng nhìn mãi
theo tôi.
Từ đó, mỗi lần vào Nha Trang, việc
đầu tiên là tôi đến thăm thầy. Con phố Hồng Bàng nay đã mở rộng, căn nhà lúc
trước giờ bớtxanh rêu
vì đã nhộn nhịp xe cộ. Bụi trúc nhà bên cũng đã cao, ngả sang cho bóng mát
bên cạnh lối đi lên căn gác nhỏ và chuông điện đã thay chuông dây có treo
chùm lon rỗng. Thầy vẫn bộ đồ đen hoặc trắng với mũ bêrê đen cùng đôi kính
lão đón tôi trước cổng cho dù nắng có chói gắt xuyên thẳng vào con người tóc
vương nhiều sợi bạc. "Vào thăm qua đó hả người bạn nhỏ? À, tiếng Pháp
với tên bạn là gì ta? Phải rồi, nó còn mang tựa bài thơ của Pháp có tên
Hoa Thạch Thảo mà ông Phạm Duy từng phổ nhạc". Thầy giở từng tác phẩm
tôi gửi vào và bảo tôi ngồi bên. Thầy đọc kỹ trước nên đoạn hay đã gạch bút
đỏ, đoạn lệch từ hoặc sai âm ngữ thầy ghi với nét chữ nghiêng nghiêng "chỉnh
lại cho đúng từ địa phương nếu muốn viết về quê mình". Mỗi lần vào, thầy
thường nói "Đã viết cho xứ Nẫu nên dùng phương ngữ phù hợp. Nè Thảo,
những đàn bò gối sừng qua sông của em rất hình
tượng, quê mình là cầu ván đóng đinh, mương nước róc rách, bụi chuối sau hè,
cành tre xào xạc chứ không la đà vì vùng gió mà… Ở đó, không giống những gì
em thấy ở các làng quê khác. Đã thương quê thì ở lại quê, qua nhớ lắm
nhưng đành chịu…". Tôi cũng hiểu rằng, những câu chữ của thầy thật giản dị
chân chất, có mùi bùn non, thơm hoa vạn thọ, ấm nồng khói rạ và đặc trưng
nhất là tiếng Nẫu được xài một cách dễ hiểu. Trước năm 1975, trong
20 gương mặt văn nghệ hôm nay của Tạ Tỵ do NXB Lá Bối ấn hành, đã xem
nhà văn Võ Hồng tiêu biểu cho cách viết làng quê vùng Nam Trung Bộ. Và hôm
nay, đôi mắt thầy như một cánh chim cô đơn đã rời xa tổ ấm đầy khắc khoải
vọng về năm tháng của hoài niệm quê nhà. "Chừng nào em dìa lại Tuy
Hòa, để qua nhắn rằng, đền ơn quê hương là những tháng năm dài cho
qua nhẫn nại cầm bút".
Nghe thầy bệnh, tôi vào. Vẫn phố Hồng
Bàng ấy có căn gác nhỏ chứa nhiều sách trên kệ, góc bàn, trên ghế, trên sàn
nhà và cả trên chiếc giường cũ như ngày nào, nhưng thầy đã lẫn lúc nhớ lúc
quên và gầy đi thấy rõ. Thầy không ra đứng bậc cầu thang đón người bạn nhỏ
từ quê nhà, không còn đưa tôi xem những bức thư hay dòng tin nhắn cũng như
đã lâu, thầy không thể viết những dòng ngắn gọn gửi cho tôi, hỏi tôi còn ở
quê hay rời đi xứ khác như bao người viết trẻ. Tôi thưa với thầy là vẫn ở
quê vùng gió cát, oằn mình theo vùng đất như chiếc đòn gánh mà gánh hai mùa
mưa nắng, bão lũ và vẫn viết đều đặn bằng phương ngữ giản dị của quê mình,
của sự thương yêu chỉ bảo của thầy mà mắt rướm lệ khi thầy mệt mỏi ngước mắt
nhìn tôi. Thâu rầu, chim kêu về núi, tấu rầu… em phải về lại
Tuy Hòa và như thoảng nghe trong gió biển Nha Trang vào chiều "Cho qua
gửi lời thăm ngoài ấy".
Sau cơn bạo bệnh thầy yếu nhiều. Năm
trước càng yếu hơn và nghe tin lại trở bệnh. Đã lâu không còn mỗi buổi sáng
ra ban công ngồi trên chiếc ghế mây đón nắng, ban chiều tưới từng gáo nước
cho cụm hoa bươm bướm nở vàng. Đã 92 tuổi (thầy sinh ngày 5/5/1921) thì xưa
nay hiếm và chắc chắn rằng không thể trở lại quê nhà như có lần thầy bảo tôi
khi nào thầy khỏe thì sẽ về, sẽ thăm lại quê mình, thăm trường Lương Văn
Chánh ở phố Tuy Hòa. Dòng Ngân Sơn thì xa, phía quê An Thạch - Tuy An lắm
đèo dốc cách trở. Cánh chim phiêu bạt đã mỏi chỉ vọng về một Hoài
cố nhân mà Vẫy tay ngậm ngùi để nhớ Ngày xưa có một
Nhánh rong phiêu bạt; nơi ấy, Bên đập đồng Cháy đang nở vàng một
sắc Hoa bươm bướm mà đợi Người về đầu non… Dù gì, tôi cũng
luôn mong thầy nhiều sức khỏe, mong một cái tên của loài hoa yêu thương ngập
tràn hạnh phúc cho bao học trò ngày cũ và cả cho tôi, người bạn nhỏ viết văn
của thầy, luôn được gặp khi trở lại phố ấy, nhà ấy, cảnh ấy có người thầy
giản dị, mực thước cùng nụ cười hiền đang đứng chờ nơi bậc cầu thang hẹp cho
dù Thiên đường ở trên cao luôn sẵn đón một con người.
Thầy đã ra đi (lúc 14g ngày
31/3/2013). Cánh chim đã mỏi vọng về đầu non. Xin vĩnh biệt một người thầy,
một nhà văn xứ Nẫu da diết nhớ về quê hương… Và nơi ngàn năm mây trắng bay
kia, thầy sẽ được nhìn về quê nhà với nụ cười hạnh phúc.
***
Thứ tư, 03/04/2013, 09:54
Nhân cách văn học Võ Hồng
Giống như Sơn
Nam hay Bình Nguyên Lộc của Sài Gòn và Nam bộ, Võ Hồng (ảnh) là cây bút tiêu
biểu của Phú Yên và Nam Trung bộ nửa sau thế kỷ XX.
Võ Hồng sinh ngày 5-5-1921
tại làng Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông còn có các
bút danh Ngân Sơn, Võ An Thạch, Võ Tri Thủy... Sự nghiệp sáng tác của ông
gồm 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70 truyện ngắn, đó là chưa kể những
tập bút ký, tùy bút và các bài phê bình, khảo cứu... Võ Hồng là hình ảnh đặc
trưng của một nhà văn xuất thân từ nhà giáo. Tính cách mô phạm, chỉn chu của
nghề giáo đã hiện hữu trên mỗi trang văn. Ông kể rằng cha của ông tuy là một
nông dân quê mùa nhưng ưa đọc sách báo, nhất là báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh
Thúc Kháng. Khi có người quen đi Sài Gòn thì ông nhờ mua sách truyện Tây du,
Bao Công kỳ án, Tam quốc chí... Nhờ đó, từ nhỏ Võ Hồng đã mê đọc sách báo.
Thời gian học tú tài ở Hà
Nội, Võ Hồng làm quen với văn chương và được gặp những bậc tài danh làng văn
bấy giờ như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo... Tuy nhiên, phải tới 20 năm
sau kể từ khi truyện ngắn đầu tiên Mùa gặt được đăng, Võ Hồng mới trình làng
tập truyện đầu tay Hoài cố nhân vào năm 1959 do Nhà xuất bản Ban Mai ấn
hành.
Thời kỳ chống Pháp gian khổ
và hào hùng ở quê hương Phú Yên chính là cái vốn phong phú và sinh động cho
nhà văn dệt nên những tác phẩm khá thành công về sau. Trong công trình Văn
học yêu nước và cách mạng ở Sài Gòn và các thành thị miền Nam giai đoạn 1954
- 1975 đã nhận định về Võ Hồng: “Có thể nói ông là nhà văn của lòng nhân ái,
những tình cảm nhân bản cao quý - tình cha con, tình mẹ con, tình anh em,
tình thầy trò qua hàng loạt tác phẩm như: Vết hằn năm tháng, Áo em cài hoa
trắng, Lá vẫn xanh, Mái chùa xưa, Con suối mùa xuân... nhưng đáng chú ý và
có thể nói là dũng cảm là những truyện ngắn in trong hai tập Hoài cố nhân,
Trầm mặc cây rừng và hai cuốn tiểu thuyết liên hoàn: Hoa bươm bướm, Như cánh
chim bay - những tác phẩm viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân
ta”. Thật vậy, sống giữa chính thể “Việt Nam cộng hòa” trước năm 1975 mà
viết về kháng chiến thì đúng là dũng cảm!
Nhà văn Võ Hồng từng tâm sự
rằng: “Ước muốn của tôi là ghi lại chơn thiệt những gì đã xảy ra, không khen
chê, không định kiến, giống như người thợ bấm máy chụp hình không sắp đặt
dàn dựng. Tôi thương các thế hệ tổ tiên cơ cực, nhọc nhằn. Tôi thương đồng
bào thế hệ tôi cũng nhọc nhằn cực khổ. Tôi muốn các thế hệ con cháu biết
được cách sống của ông cha, mà cụ thể ở đây là người miền Trung”.
Ông là người viết chậm, kỹ
lưỡng từng câu văn, từng cách tạo dựng cấu trúc truyện và hình tượng nhân
vật. “Khi xây dựng một cốt truyện là phải tạo ra những nhân vật, những tình
tiết để câu chuyện diễn biến hợp lý, đồng thời còn phải tạo ra một cái gút
và nghĩ cách mở gút sao cho tự nhiên. Nhiều truyện tôi viết gần xong nhưng
bỏ đó vì chưa tìm ra một cách mở gút như ý. Tôi viết chậm vì tính ưa quan
sát, nhìn kỹ, nhìn lâu, lắng nghe và chọn cho được từ ngữ chính xác nhất để
mô tả. Nhân vật của tôi đa số đều có thật ngoài đời. Chẳng hạn trong Hoa
bươm bướm và Như cánh chim bay, tôi miêu tả cảnh kháng chiến chống Pháp của
người dân quê mình, chỉ tả những cảnh có thật chớ không hư cấu tình tiết ly
kỳ”.
Bên cạnh đề tài về đời sống
kháng chiến, những đạo lý tình nghĩa truyền thống của dân tộc ở vùng đất Phú
Yên và Nam Trung bộ thì đọc các tác phẩm của Võ Hồng, độc giả còn bắt gặp
những tình yêu lứa đôi vừa nhẹ nhàng vừa sâu lắng. Tuy nhiên cái chất mô
phạm nhà giáo góp phần “quy định” nhà văn trong ông nên truyện tình của ông
thường thiếu những chi tiết hiện sinh bay bổng…
Đặc biệt, trong các tác
phẩm của ông, hình ảnh người phụ nữ bao giờ cũng hiện lên hết sức đẹp đẽ,
hết sức trân trọng. Họ là những người bà, người mẹ, người chị... mà ngoài
đời không phải bao giờ cũng dễ gặp. Ông thường lấy nguyên mẫu cho các nhân
vật nữ ấy từ những người ông gặp gỡ, thấu hiểu, mà trước hết là người bạn
đời quá cố của mình. Ông thổ lộ: “Hình ảnh vợ tôi hóa thân nhân vật Quỳ
trong Hoa bươm bướm, Như cánh chim bay và trong nhiều truyện ngắn khác. Vợ
tôi bản chất nhân ái, dịu dàng. Cô ấy học ở Đà Lạt, giỏi ngoại ngữ, rất có
năng khiếu piano... nhưng về với tôi ở vùng quê kháng chiến Phú Yên cô sống
hòa hợp với người xung quanh như một cô gái nhà quê chính hiệu”.
Không chỉ là một nhà giáo
giàu tâm huyết, một nhà văn tài năng, Võ Hồng còn là tấm gương về một nhân
cách sống mà học trò và người yêu văn học nhiều thế hệ kính trọng. Mấy mươi
năm nay, nhà văn Võ Hồng dạy học và sáng tác ở thành phố biển Nha Trang,
cách quê hương Phú Yên hơn 100 cây số về hướng Nam. Vì vậy, mỗi khi có dịp
gặp người Phú Yên như chúng tôi, kỷ niệm trong ông lại tuôn trào. Những dịp
quý như thế bây giờ không còn nữa khi ông đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 14 giờ
chiều 31-3-2013, nhằm ngày 20 tháng 2 năm Quý Tỵ, tại Nha Trang, thọ 92
tuổi.
http://www.sggp.org.vn/vanhoavannghe/2013/4/315030/
***
áo điện tử XỨ NẪU xunau.org
và http://newvietart.com
Ngày 3/4/2013
Sau Khi Nhà Văn Võ Hồng Mất
TRẦN VẤN LỆ
Qua Ngoạn Mục, tới Trạm Hành (*)
Chiếc xe dừng lại. Rừng xanh bạt ngàn
Cây không một chiếc lá vàng
Gió se se lạnh mơ màng khói sương…
.
Coi như xe đỗ giữa đường
Năm mười phút đủ mình thương nhớ người
Xưa người từng ở đây thôi
Nay người đâu nữa, chỉ trời đất xanh!
.
Sương chiều nắng rọi long lanh
Xe dừng rồi bỏ Trạm Hành, xe đi
Với người xưa không biệt ly
Mà ai trăm tuổi không về hư vô?
.
Đồi xưa nắng chiếu mơ hồ
Rừng thông lá biếc sương mờ mờ sa…
Bác Võ Hồng ơi Bác Võ Hồng à
Ai mà không nhỉ tuổi già, Thiên Thu!
.
Qua Trạm Hành tới Dốc Đu
Qua luôn Cầu Đất, qua cầu Xuân Hương…
Xe qua không biết bao đường
Lạ thay hình bóng ai dường đứng kia…
.
Tay đưa không có tay lìa
Đà Lạt lạnh buốt, tôi về cô đơn…
.
(*)
Nhà văn Võ Hồng, quê Phú Yên, có một thời, đời công chức, ở Trạm Hành, cao
nguyên Lâm Viên, giữa đường Phan Rang – Đà Lạt. Nhiều năm cuối đời ông về Nha
Trang, dạy học, viết văn, ông mất tại Nha Trang ngày 31 – 3 – 2013, 93
tuổi. Khi còn sống, gặp người quen, nói chuyện đất nước, ông hay nhắc Trạm
Hành, nơi trùng điệp rừng thông, đêm đêm chỉ đốt đèn dầu mà ấm lòng ấm dạ…
***
Báo SÀIGÒN GIẢI PHÓNG ONLINE
Ngày 3/4/2013
Nhân cách văn học Võ Hồng
PHAN HOÀNG
Giống như Sơn Nam hay Bình Nguyên
Lộc của Sài Gòn và Nam bộ, Võ Hồng (ảnh) là cây bút tiêu biểu của Phú Yên và Nam
Trung bộ nửa sau thế kỷ XX.
Võ Hồng sinh ngày 5-5-1921 tại làng Ngân Sơn, xã An Thạch,
huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông còn có các bút danh Ngân Sơn, Võ An Thạch, Võ
Tri Thủy... Sự nghiệp sáng tác của ông gồm 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70
truyện ngắn, đó là chưa kể những tập bút ký, tùy bút và các bài phê bình, khảo
cứu... Võ Hồng là hình ảnh đặc trưng của một nhà văn xuất thân từ nhà giáo. Tính
cách mô phạm, chỉn chu của nghề giáo đã hiện hữu trên mỗi trang văn. Ông kể rằng
cha của ông tuy là một nông dân quê mùa nhưng ưa đọc sách báo, nhất là báo
Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi có người quen đi Sài Gòn thì ông nhờ
mua sách truyện Tây du, Bao Công kỳ án, Tam quốc chí... Nhờ đó, từ nhỏ Võ Hồng
đã mê đọc sách báo.
Thời gian học tú tài ở Hà Nội, Võ Hồng làm quen với văn
chương và được gặp những bậc tài danh làng văn bấy giờ như Khái Hưng, Nhất Linh,
Hoàng Đạo... Tuy nhiên, phải tới 20 năm sau kể từ khi truyện ngắn đầu tiên Mùa
gặt được đăng, Võ Hồng mới trình làng tập truyện đầu tay Hoài cố nhân vào năm
1959 do Nhà xuất bản Ban Mai ấn hành.
Thời kỳ chống Pháp gian khổ và hào hùng ở quê hương Phú Yên
chính là cái vốn phong phú và sinh động cho nhà văn dệt nên những tác phẩm khá
thành công về sau. Trong công trình Văn học yêu nước và cách mạng ở Sài Gòn và
các thành thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 đã nhận định về Võ Hồng: “Có thể
nói ông là nhà văn của lòng nhân ái, những tình cảm nhân bản cao quý - tình cha
con, tình mẹ con, tình anh em, tình thầy trò qua hàng loạt tác phẩm như: Vết
hằn năm tháng, Áo em cài hoa trắng, Lá vẫn xanh, Mái chùa xưa, Con suối mùa xuân...
nhưng đáng chú ý và có thể nói là dũng cảm là những truyện ngắn in trong hai tập
Hoài cố nhân, Trầm mặc cây rừng và hai cuốn tiểu thuyết liên hoàn: Hoa
bươm bướm, Như cánh chim bay - những tác phẩm viết về cuộc kháng chiến chống
Pháp của nhân dân ta”. Thật vậy, sống giữa chính thể “Việt Nam cộng hòa” trước
năm 1975 mà viết về kháng chiến thì đúng là dũng cảm!
Nhà văn Võ Hồng từng tâm sự rằng: “Ước muốn của tôi là ghi
lại chơn thiệt những gì đã xảy ra, không khen chê, không định kiến, giống như
người thợ bấm máy chụp hình không sắp đặt dàn dựng. Tôi thương các thế hệ tổ
tiên cơ cực, nhọc nhằn. Tôi thương đồng bào thế hệ tôi cũng nhọc nhằn cực khổ.
Tôi muốn các thế hệ con cháu biết được cách sống của ông cha, mà cụ thể ở đây là
người miền Trung”.
Ông là người viết chậm, kỹ lưỡng từng câu văn, từng cách tạo
dựng cấu trúc truyện và hình tượng nhân vật. “Khi xây dựng một cốt truyện là
phải tạo ra những nhân vật, những tình tiết để câu chuyện diễn biến hợp lý, đồng
thời còn phải tạo ra một cái gút và nghĩ cách mở gút sao cho tự nhiên. Nhiều
truyện tôi viết gần xong nhưng bỏ đó vì chưa tìm ra một cách mở gút như ý. Tôi
viết chậm vì tính ưa quan sát, nhìn kỹ, nhìn lâu, lắng nghe và chọn cho được từ
ngữ chính xác nhất để mô tả. Nhân vật của tôi đa số đều có thật ngoài đời. Chẳng
hạn trong Hoa bươm bướm và Như cánh chim bay, tôi miêu tả cảnh
kháng chiến chống Pháp của người dân quê mình, chỉ tả những cảnh có thật chớ
không hư cấu tình tiết ly kỳ”.
Bên cạnh đề tài về đời sống kháng chiến, những đạo lý tình
nghĩa truyền thống của dân tộc ở vùng đất Phú Yên và Nam Trung bộ thì đọc các
tác phẩm của Võ Hồng, độc giả còn bắt gặp những tình yêu lứa đôi vừa nhẹ nhàng
vừa sâu lắng. Tuy nhiên cái chất mô phạm nhà giáo góp phần “quy định” nhà văn
trong ông nên truyện tình của ông thường thiếu những chi tiết hiện sinh bay
bổng…
Đặc biệt, trong các tác phẩm của ông, hình ảnh người phụ nữ
bao giờ cũng hiện lên hết sức đẹp đẽ, hết sức trân trọng. Họ là những người bà,
người mẹ, người chị... mà ngoài đời không phải bao giờ cũng dễ gặp. Ông thường
lấy nguyên mẫu cho các nhân vật nữ ấy từ những người ông gặp gỡ, thấu hiểu, mà
trước hết là người bạn đời quá cố của mình. Ông thổ lộ: “Hình ảnh vợ tôi hóa
thân nhân vật Quỳ trong Hoa bươm bướm, Như cánh chim bay và trong
nhiều truyện ngắn khác. Vợ tôi bản chất nhân ái, dịu dàng. Cô ấy học ở Đà Lạt,
giỏi ngoại ngữ, rất có năng khiếu piano... nhưng về với tôi ở vùng quê kháng
chiến Phú Yên cô sống hòa hợp với người xung quanh như một cô gái nhà quê chính
hiệu”.
Không chỉ là một nhà giáo giàu tâm huyết, một nhà văn tài
năng, Võ Hồng còn là tấm gương về một nhân cách sống mà học trò và người yêu văn
học nhiều thế hệ kính trọng. Mấy mươi năm nay, nhà văn Võ Hồng dạy học và sáng
tác ở thành phố biển Nha Trang, cách quê hương Phú Yên hơn 100 cây số về hướng
Nam. Vì vậy, mỗi khi có dịp gặp người Phú Yên như chúng tôi, kỷ niệm trong ông
lại tuôn trào. Những dịp quý như thế bây giờ không còn nữa khi ông đã vĩnh viễn
ra đi vào lúc 14 giờ chiều 31-3-2013, nhằm ngày 20 tháng 2 năm Quý Tỵ, tại Nha
Trang, thọ 92 tuổi.
***
http://chuyenbangquo.wordpress.com
- Blog Chuyện Bâng Quơ
Ngày 3/4/2013
BÀ
TÁM
Tôi nhận
được e-mail của nhà văn NLU báo tin nhà văn Võ Hồng qua đời rất sớm. Có thể nói
nhà văn Võ Hồng là một trong số rất hiếm nhà văn được yêu chuộng bởi nhiều độc
giả trước và sau năm 1975. Tôi biết là sẽ được đọc tin này trên hầu hết các báo
mạng và blog Việt ngữ nên không nghĩ đến chuyện viết vài lời tưởng niệm. Tôi
không có cơ duyên quen biết ông hay gia đình ông, tuy nhiên một bạn văn khác lại
bảo, bà đã đọc Võ Hồng, nên viết theo cảm nhận của người đọc. Để tưởng niệm ông.
Thú thật tôi không phải là
người đọc có đẳng cấp. Tôi yêu văn học nhưng không là nhà văn, tôi không kiếm
sống bằng nghề văn, vì thế cái đọc của tôi cũng chỉ lõm bõm bạ đâu đọc đấy, cái
gì vớ được thì đọc. Hôm trước chị Gió O rủ viết về chủ đề Võ Phiến nên tôi được
dịp đọc nhiều tác phẩm của Võ Phiến. Tuy nhiên trước khi tôi được biết về nhà
văn Võ Phiến tôi đã biết tiếng nhà văn Võ Hồng. Ở đây tôi xin thanh minh là tôi
không dám so sánh về sự nổi tiếng của hai nhà văn lớn, tôi biết tiếng nhà văn Võ
Hồng có lẽ là nhờ sự đa dạng của chủ đề ông chọn để khai thác trong đó có tình
gia đình. Tôi cũng không có cơ hội đọc nhiều tác phẩm của ông. Hầu hết những tác
phẩm nổi tiếng của nhà văn của Võ Hồng được đăng tải trên trang mạng
http://www.vohong.de/.
Tôi tự bảo là sẽ vào trang này, đọc cho bằng hết những tác phẩm này để học viết
văn, nhưng tôi vì cuộc sống đòi hỏi, và cũng vì mới bước vào làng văn chương
nhìn đâu cũng thấy toàn hoa thơm cỏ lạ nên la cà mãi vẫn chưa đọc được mấy tác
phẩm của ông. Truyện đầu tiên của Võ Hồng tôi đọc và nhớ mãi đến giờ là Trận Đòn
Hòa Giải. Quyển này tôi nhớ được in theo lối khổ nhỏ khoảng một phần hai trang
giấy 8×11, giấy mỏng, trông giống như một tập thơ.
Lần đầu
tiên tôi đọc Trận Đòn Hòa Giải, tôi khóc. Mấy mươi năm sau, đầu hai thứ
tóc đọc lại tôi vẫn khóc. Tôi không nhớ tôi đọc quyển này mấy lần, có thể nói ít
nhất là ba lần. Lần nào cũng cảm động, mỗi lần đọc lại nhận ra một cái gì đó
trong lòng mình.
Nhân vật
kể chuyện (narrator) trong Trận Đòn Hòa Giải là một thiếu nữ tên Hằng. Cô
có hai đứa em. Em trai kế tên Hào. Em gái út tên Thủy. Cả ba đều còn đang tuổi
đi học. Cô chị là học sinh Trung học. Cô em út là học sinh Tiểu học. Mẹ mất sớm,
bố gà trống nuôi con.
Những lần
đọc đầu tiên tôi cám cảnh những đứa trẻ mồ côi. Tôi hình dung cô bé út nhõng
nhẽo đáng yêu. Rồi tôi thấy xót xa cho ông thầy giáo mồ côi vợ. Sau đó tôi tưởng
tượng đến nỗi bơ vơ của cô gái lớn đến tuổi trưởng thành không có mẹ để tâm sự
hay trao đổi những thắc mắc trong sự thay đổi của thể xác. Bây giờ đọc lại tôi
thấy truyện bắt người đọc nhìn lại lòng mình, nhìn lại cách cư xử của mình với
người chung quanh. Có những suy nghĩ hành động của mình lúc ấy mình thấy là mình
đúng mình phải nhưng về sau càng nghĩ thì càng thấy vướng víu. Không hẳn là sai
nhưng mà có cái gì đó không hay, không đúng, không rộng lượng hay cao thượng.
Thấy cái ghen tị, thấy cái nghĩ xấu của mình dành cho người thân, thấy cái mình
bắt trẻ con phải hiểu và hành động như người lớn. Và trời ạ, cái đánh đòn, cứ
nghĩ mình đánh con là mình dạy con là muốn cho con nên người. Thật ra, có phải
mình dùng đòn để đạt kết quả mình muốn cho nhanh chóng, trong giây phút, để con
không quấy rầy mình, để cuộc sống của mình được dễ dàng trong tạm bợ.
Tôi không
được cái diễm phúc làm học trò của nhà văn. Nhưng truyện của ông, chỉ một truyện
tôi đọc trong rất nhiều truyện ông viết, là một bài học cho tôi. Mấy mươi năm
sau đọc lại tôi vẫn chảy nước mắt, có khi vì hối lỗi với con mình.
Văn của
ông bao giờ cũng có vẻ nhân hậu. Đọc ông tôi luôn nhìn thấy sự phải trái của
cuộc đời. Cám ơn ông. Ông yên nghĩ nhé.
***
http://pgvn.vn
Trang Web của PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Ngày 3/4/2013
Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN
Viếng tang cố nhà văn Võ Hồng
(LQ) Chiều
ngày 2-4 tạt thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa phái đoàn chư tôn đức Ban Văn
hóa Trung ương GHPGVN đã đến phúng điếu viếng tang cố nhà văn Võ Hồng.
Hòa thượng Thích Trung Hậu, Trưởng Ban Văn hóa TƯ
GHPGVN làm trưởng đoàn cùng Hòa thượng Thích Hải Ấn, Phó Ban Thường trực Ban Văn
hóa TƯ GHPGVN; HT. Thích Quang Nhuận, Phó Ban Văn hóa TƯ GHPGVN; TT. Thích Phước
Đạt, Chánh Thư ký Ban Văn hóa TƯ GHPGVN cùng chư Tăng, Ni, quý vị cư sĩ thành
viên Ban Văn hóa đã đến phúng viếng, niêm hương cầu nguyện hương linh nhà văn
siêu thoát.
Sau 7 năm lâm
bịnh, nhà văn, nhà giáo, cư sĩ Phật tử Võ Hồng đã qua đời vào lúc 14 giờ ngày
31-03-2013 (nhằm ngày 20-02-Quý Tỵ) tại nhà riêng, hưởng thọ 93 tuổi.
Cư sĩ Võ Hồng sinh ngày 05-5- 1921 tại làng Ngân Sơn,
xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Cả cuộc đời làm nghề giáo và viết văn,
đã cho ra đời 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70 truyện ngắn, nhiều tập tùy
bút, bút ký, các tập truyện viết cho thiếu nhi, hơn 40 bài viết, bài khảo cứu,
phê bình…
Tại buổi phúng viếng, chư tôn Hòa thượng cũng đã có
lời chia buồn và động viên người thân cố nhà văn Võ Hồng thực hành đúng chánh
pháp, tinh tấn tụng niệm và chay tịnh để góp phần cầu nguyện hương linh nhà văn
siêu sanh Tịnh Độ.
N.V.T
***
|