Nobel Y
Học 2002 - Nhìn lại quãng đường
100 năm
Xuất thân bình
dân
Dự án 523
Dựa vào y văn cổ
Người khiêm
nhường
Có thể nói rằng
trong 3 người được trao giải
Nobel y học năm nay, cụ bà Đồ U
U (Youyou Tu) là người thu hút
nhiều chú ý hơn hai người đồng
nghiệp giáo sư từ hai nước giàu
có hơn (William Campbell và
Satoshi Omura). Tôi nghĩ điều
này cũng dễ hiểu, vì bà là người
mang quốc tịch Tàu đầu tiên được
trao giải thưởng cao quí này, và
cuộc đời & sự nghiệp của bà cũng
rất khác so với các đồng nghiệp
trong giới khoa học quốc tế. Tôi
mới đọc hai bài về những công
trình của bà (1), và có cảm hứng
viết vài dòng chia xẻ cùng các
bạn.
Người xưa nay hiếm
Bà Đồ U U bây giờ
là người chiếm kỉ lục thứ 2 về
độ tuổi khi được trao giải Nobel
y sinh học. Trước đây, bà Peyton
Rous được trao giải Nobel y sinh
học năm 1966, lúc đó bà đã 87
tuổi, và giữ kỉ lục này cho đến
năm nay. Bà Đồ U U sinh ngày
30/12/1930, năm nay đã 85 tuổi.
Khi trao giải cho bà, Uỷ ban
Nobel không liên lạc được bà, vì
chẳng ai biết số điện thoại. Khi
liên lạc được và nhận được tin,
bà thản nhiên nói "Tôi đã quá
già cho cái giải này". Cần nói
thêm là trước đây 4 năm, năm
2011, bà được trao giải Lasker ~
DeBakey của Mĩ, và lúc đó bà đã
81 tuổi.
Bà Đồ U U cũng là
một trong những nữ khoa học hiếm
hoi được trao giải này. Trong y
khoa, có khoảng 40% nhà khoa học
là nữ giới, nhưng trong số 106
người được trao giải Nobel thì
chỉ có 12 người là nữ.
Xuất thân bình
dân
Cuộc đời và sự
nghiệp của bà Đồ là một câu
chuyện rất thú vị. Trong bài
viết về bà Đồ nhân dịp bà nhân
giải Lasker ~ DeBakey, tác giả
chỉ cho biết bà xuất thân từ một
gia đình lao động bình thường,
thân mẫu là nội trợ, và thân phụ
là một viên chức cấp thấp. Gia
đình có 5 người con, và bà là
con gái duy nhất.
Bà thi vào Đại
học Bắc Kinh năm 1951, và tốt
nghiệp cử nhân dược học năm
1955. Sau khi tốt nghiệp, cũng
như bao nhiêu người thời đó, bà
được "phân công" về công tác ở
Viện y học cổ truyền. Bà cho
biết thời gian đó, Viện y học cổ
truyền cố công nghiên cứu tìm ra
những thuốc để điều trị các bệnh
phổ biến như nhiễm trùng, gan,
thận, tiêu hoá. Bà quyết chí
theo đuổi sự nghiệp y học cổ
truyền, một phần là do thân phụ
bà có chút kiến thức về lĩnh vực
này, và một phần lớn khác là khi
còn nhỏ bà thấy người dân chung
quanh dùng những bài thuốc dân
gian xem ra rất có hiệu quả. Bà
muốn dùng kiến thức dược học để
tìm hiểu thêm về cơ chế của các
bài thuốc cổ truyền.
Dự án 523
Nhưng sự nghiệp
của bà rẽ sang một hướng khác
khi Dự Án 523 ra đời. Nguồn gốc
của Dự án 523 là từ cuộc chiến
chống Mĩ của miền Bắc Việt Nam,
và lúc đó Tàu là đồng minh và
cũng là người đỡ đầu cho "người
em bé nhỏ". Lúc đó, phía VN than
phiền là có quá nhiều bộ đội hi
sinh trong rừng vì bệnh sốt rét,
và hỏi Chu Ân Lai có cách gì
giúp không. Chu Ân Lai báo cho
Mao Trạch Đông, và Mao thấy đây
là một "nhiệm vụ chính trị" giúp
đàn em Bắc Việt Nam. Mao và Chu
thành lập dự án tìm thuốc điều
trị bệnh sốt rét vào ngày
25/3/1967. Do đó, theo truyền
thống cộng sản, họ lấy bí số 523
để đặt tên cho dự án bí mật này.
Bà Đồ U U được chỉ định đứng đầu
Dự Án 523.
Đến đây thì thiết
nghĩ vài dòng về bệnh sốt rét
chắc cũng cần thiết để đặt câu
chuyện trong bối cảnh. Bệnh sốt
rét là một bệnh truyền nhiễm
quan trọng, vì nó là thủ phạm
gây tử vong cho hơn 500000 nạn
nhân mỗi năm. Bệnh này dĩ nhiên
không mới, vì y văn đã ghi nhận
từ 2700 trước Công Nguyên. Trước
đó, người ta không có phương
pháp điều trị, và bệnh nhân chỉ
đơn giản chờ chết!
Tiến bộ về chinh
phục bệnh sốt rét bắt đầu vào
thập niên 1880s. Vào thời đó, Bs
người Tô Cách Lan là Ronald Ross
chứng minh rằng muỗi là thủ phạm
lan truyền bệnh sốt rét, và ông
đã hệ thống hoá toàn bộ chu
trình gây nhiễm của muỗi. Ông
được trao giải Nobel cho công
trình nghiên cứu này vào năm
1902. Sau ông là một bác sĩ
người Pháp Charles Laveran chứng
minh rằng kí sinh trong rbc từ
bệnh nhân sốt rét, và do đó
protist chính là thủ phạm của
bệnh. Năm 1907, Leveran được
trao giải Nobel y sinh học vì
công trình đó. Nay thì chúng ta
biết rằng đa số những bệnh nhân
sốt rét là do 4 loài kí sinh
Plasmodium: P. falciparum, P.
vivax, P. ovale, và P.
Malariae.
Qua hiểu biết về
cơ chế gây bệnh của các loài kí
sinh trên, các nhà khoa học đã
phát triển được thuốc điều trị.
Thuốc đầu tiên là quinine, bào
chế từ vỏ cây canh-ki-na
(cinchona), hay thấy ở Nam Mĩ.
Thuốc này được dùng cho đến năm
1940. Sau đó, tập đoàn dược
Bayer bào chế thuốc chloroquine,
thoạt đầu có hiệu quả cao hơn
quinine, và được quân đội Mĩ đưa
vào sử dụng trong Thế chiến thứ
II.
Dựa vào y văn cổ
Quay lại Dự án
523, bà Đồ U U và 3 đồng nghiệp
trong nhóm nghiên cứu bắt đầu
bằng cách đọc y văn cổ. Họ thu
thập được gần 2000 bài thuốc, và
sau cùng thì khu trú chỉ 640
loại dược thảo, và trong số này
chỉ có một số ít là có triển
vọng. Một trong những hợp chất
có triển vọng nhất là Artemisia
Annua (hay cây ngải), mà người
Tàu đã dùng để điều trị nhiều
bệnh qua hàng ngàn năm. Một
trong những y văn cổ nêu đích
danh cây ngải được dùng cho điều
trị sốt.
Sau nhiều lần
thất bại trong việc chiết xuất
và thí nghiệm, cuối cùng thì
nhóm nghiên cứu cũng đạt được
thành công bước đầu trên chuột.
Họ dùng ethanol để chiết xuất
hoạt chất từ cây ngải, và khi
thí nghiệm trên chuột thì thấy
nó có khả năng ức chế rất tốt.
Nhóm nghiên cứu nhận được điện
chúc mừng của Thủ tướng Chu Ân
Lai. Nhưng sau đó, nhóm nghiên
cứu thử thêm trên khỉ và một
nhóm chuột khác thì kết quả
không khả quan, và ai cũng ngạc
nhiên, chẳng hiểu chuyện gì xảy
ra.
Bà Đồ cho biết bà
lại tìm cổ thư để đọc. Bà phát
hiện 1 đoạn ngắn trong y văn cổ
viết rằng "Một bài thuốc khác
là: một nhóm cây ngải, ngâm
trong 2.2 lít nước, bóp chặt
lại, lấy nước ép, và uống hết
nước ép." Từ câu văn này, bà
Đồ nghĩ rằng quá trình chiết
xuất dùng nhiệt độ cao chắc có
vấn đề vì làm tan biến hết hoạt
chất, và hạ nhiệt độ có thể giúp
giữ lại hoạt chất. Bà thiết kế
lại thí nghiệm, và lại thử
nghiệm trên chuột và khỉ, và lần
này thì khả năng ức chế là 100%!
Đây là một sự đột phá đầu tiên.
Nhưng thời đó
chẳng ai nghĩ đến việc công bố
kết quả, vì đây là một dự án
quân sự và bí mật. Vả lại, cho
dù muốn công bố, bà cũng chẳng
biết công bố ở đâu trong khi
Cách mạng Văn hoá đang hoành
hành cả nước.
Vấn đề đặt ra là
thuốc có hiệu quả trên người hay
không? Để trả lời câu hỏi này,
bà và cộng sự ... tự thí nghiệm.
Họ tự gây sốt rét và uống thử
thuốc. Kết quả y như ý muốn.
Nhưng để tìm hiểu thêm, bà và
cộng sự đi Hải Nam, nơi có nhiều
bệnh nhân sốt rét, để thử
nghiệm. Họ làm thử nghiệm trên
21 bệnh nhân bị nhiễm P. vivax
và P. falciparum, và kết quả
cũng rất ư khả quan. Tất cả 21
bệnh nhân hết bệnh trong vòng
chỉ 2 tuần. Sau đó, họ còn dùng
mô hình nghiên cứu lâm sàng đối
chứng ngẫu nhiên (RCT) để thử
nghiệm thêm, và kết quả cũng rất
tốt. Bà cho biết sau chuyến công
tác ở Hải Nam về, đứa con gái
không nhận ra bà vì đen đúa quá
sau mấy tháng trời phơi nắng.
Còn chồng bà thì đi cải tạo ở
vùng quê trong cơn lốc Cách mạng
Văn hoá.
Thành quả của họ
được tập đoàn dược Roche (Thuỵ
Sĩ) chú ý. Ts Keith Arnold, lúc
đó là một chuyên gia của Trung
tâm thí nghiệm của Roche ở vùng
Viễn Đông, tiến hành một công
trình RCT qui mô lớn và có hệ
thống hơn. Năm 1982, họ công bố
kết quả nghiên cứu về hiệu quả
của Artemisinin trên tập san y
khoa lừng danh là Lancet.
Ngạc nhiên thay, bài báo trên
Lancet không có tên của Đồ U
U! Sau khi thành công với
Artemisinin, nhóm nghiên cứu của
Arnold tiếp tục thử nghiệm bằng
cách điều trị với Artemisinin +
mefloquine hoặc Fansidar, và kết
quả thậm chí còn tốt hơn so với
Artemisinin. Cho đến nay thì
phương pháp điều trị phổ biến
nhất là dùng Artemisinin cùng
với một trong hai loại thuốc
trên.
Người khiêm
nhường
Dù thành tựu quan
trọng như thế, bà Đồ U U là
người rất khiêm nhường và lúc
nào cũng nhỏ nhẹ. Trong một hội
nghị quốc tế về bệnh sốt rét ở
Thượng Hải vào năm 2005, một
chuyên gia người Mĩ nổi tiếng về
bệnh này là Louis Miller hỏi
đồng nghiệp ai là người phát
hiện Artemisinin, thì ngạc nhiên
thay, chẳng ai biết! Thế là
Miller và đồng nghiệp người Mĩ
gốc Hoa là Xinzhuan Su bắt đầu
tìm hiểu quá khứ, và họ phát
hiện chính bà Đồ U U là người có
công đầu. Nhưng họ cho biết rất
khó khai thác thông tin từ bà,
vì bà không nói về mình (dù qua
người con rể là bác sĩ ở Mĩ làm
thông dịch). Hai nhà nghiên cứu
này phát hiện rằng năm 1977 bà
Đồ và nhóm nghiên cứu mới công
bố kết quả đầu tiên trên một tập
san y học Tàu, và bài báo không
có tác giả cá nhân mà chỉ tác
giả tập thể, theo cách làm của
các nước cộng sản thời đó là tập
thể quan trọng hơn cá nhân.
Nhưng lịch sử
khoa học khá công bằng. Các nhà
khoa học Mĩ nhận ra được tầm
quan trọng của khám phá, và đã
giúp bà làm hồ sơ để được trao
giải Lasker ~ DeBakey. Năm 2011,
bà được trao giải thưởng danh
giá này, và năm nay thì Uỷ ban
giải thưởng của Viện Karolinska
quyết định trao giải thưởng
Nobel Y sinh học 2015. Như vậy,
Bà Đồ U U là người thứ 3 được
trao giải Nobel vì công trình
liên quan đến bệnh sốt rét.
Nhưng giải thưởng
Nobel cho bà Đồ U U cũng xảy ra
một sự cố. Số là Ts Keith Arnold
(người làm RCT như tôi đề cập
trên, và người dịch Dự án 523
sang tiếng Anh) viết thư phản
đối rằng việc trao giải Nobel
chỉ cho bà Đồ U U là một sự bất
công. Theo ông Arnold, bà Đồ U U
rõ ràng là xứng đáng được giải,
nhưng hai người cộng sự khác của
bà là Luo Zheyuan và
Li Guoqiao cũng đáng được
giải. Một chuyên gia nổi tiếng
khác là Gs Nicholas J White cũng
đồng ý là Luo Zheyuan và Li
Guoqiao nên được ghi công. Tuy
nhiên, Uỷ ban giải Nobel có nghe
họ hay không là chuyện khác, và
Uỷ ban này không có tiền lệ trao
giải cho hơn 3 người.
Nếu tìm trong
Pubmed về những công trình của
bà Đồ U U, bạn sẽ thất vọng vì
chẳng thấy đâu cả. Bà là người
được bệnh danh là "Giáo sư 3
Không": Không có bằng sau đại
học, không có kinh nghiệm nghiên
cứu khoa học ở nước ngoài, và
không là thành viên của bất cứ
viện hàn lâm nào. Dù là giáo sư
của "Ba Không", nhưng công trình
của bà giúp cứu sống hàng triệu
người trên thế giới, và khoa học
đã rất công bằng với đóng góp
của bà.
=====
(1) Chú thích:
Bài này lấy thông tin chủ yếu từ
"From branch to bedside:
Youyou Tu is awarded the 2011
Lasker~DeBakey Clinical Medical
Research Award for discovering
artemisinin as a treatment for
malaria" (JCI
2011;111:3768-3773); "Artemisinin:
Discovery from the Chinese
Herbal Garden" của Louis
Miller và X. Su (Cell
2011;146:855-858).