Ngày
8 tháng 10 vừa qua, Hàn lâm viện Thủy Điển, theo thông
lệ hàng năm, vừa công bố danh sách các nhà khoa học
được trao giải Nobel về sinh lí học hay y học
(physiology or medicine), mà trong bài viết này sẽ được
đề cập ngắn gọn là “y sinh học”.
Năm nay, hai người Anh, Sydney Brenner (75
tuổi), John Sulston (60 tuổi); và một người Mỹ, H.
Robert Horvitz (55 tuổi), được tuyển chọn và bình bầu
nhận giải thưởng cao quí này.
Bác sĩ Brenner, nguyên quán Nam Phi, mang quốc tịch
Anh, nhưng làm việc với chức vụ Chủ tịch kiêm Giám
đốc Khoa học tại Viện Khoa học Phân tử (Molecular
Science Institute), Berkely, Mỹ.
Tiến sĩ Sulston là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Sanger, thuộc Trường Đại học Cambridge, Anh.
Tiến sĩ Horvitz là Giáo sư thuộc Trường Đại
học MIT, Mỹ.
Theo
thông cáo của Hàn lâm viện Thụy Điển, ba nhà khoa
học này có công nghiên cứu về các cơ chế di truyền
trong quá trình phát triển cơ phận con người và tử
bào (programmed cell death), còn có tên khoa học là apoptosis.
Để hiểu rõ hơn về giá trị và ý nghĩa của công
trình nghiên cứu tử bào, có lẽ một vài nét về tế bào
này cũng cần thiết. Cơ
thể con người được cấu tạo bằng hàng ngàn ngàn
tỷ tế bào. Tế bào
được chia làm nhiều (hàng trăm) loại tùy theo công
dụng của chúng, như tế bào xương, tế bào não, tế bào
da, v.v… Tất cả các
tế bào đều xuất phát từ một tế bào duy nhất khi
một tinh trùng thụ tinh với một trứng.
Tế bào nguyên thủy được gọi là tế bào đơn (zygote),
và có tiềm năng hình thành nên một cơ thể sống hoàn
chỉnh.
Trong
quá trình phát triển sau khi thụ tinh, tế bào này phân
chia một cách liên tục thành những tế bào toàn năng đồng
nhất như nhau. Hàng
ngày, hơn một ngàn tỷ tế bào được sản sinh trong cơ
thể chúng ta. Nhưng
trong cùng thời gian, một ngàn tỷ tế bào khác chết đi.
Quá trình chết (hay có người ví von gọi là “quá
trình tự tử”). Câu
hỏi đặt ra là tại sao có quá trình sinh tử, và yếu
tố nào chi phối quá trình này?
Để
trả lời những câu hỏi căn bản này, ông Brenner chọn
giun làm đối tượng nghiên cứu, vì (a) nghiên cứu trong
con người thường khó hơn nghiên cứu trong các vi vật,
và (b) giun là một sinh vật phức tạp hơn vi khuẩn, nhưng
lại dễ khai thác để nghiên cứu một cách chi tiết.
Vào thập niên 1960s, ông đã đi tiên phong trong
việc dùng giun làm mô hình nghiên cứu tử bào.
Đến thập niên 1970s, ông Sulston, nguyên là học trò
của Brenner, tiếp tục phát triển các công trình của
thầy mình, và chứng minh rằng một số tế bào của
giun “cố ý” hi sinh trong thời gian trưởng thành của
loài giun. Ông
Horvitz, một học trò khác của Brenner, đi xa hơn một bước,
chứng minh rằng quá trình tự tử của tế bào do một
số gien điều khiển, và những gien này có tên là ced-3,
ced-4, và ced-9. Ngày
nay, chúng ta được biết thêm là chính những gien này cũng
đóng vai trò điều khiển quá trình tự tử của tế bào
trong con người.
Như
vậy quá trình sinh và tử của tế bào rất cần thiết
cho sự phát triển con người.
Chẳng hạn như phần trung bì của bào thai (nối
liền giữa ngón tay và ngón chân) khi phát triển sẽ được
phá vở để tay và chân tách rời ra, và quá trình này
do các tử bào đóng một vai trò quyết định.
Ngoài ra, hiểu được cơ chế hoạt động của các
tử bào giúp cho các nhà khoa học hiểu cơ chế mà một
số vi khuẩn và virus xâm nhập vào cơ thể chúng ta.
Chẳng hạn như trong các bệnh như loãng xương,
tim, hay thậm chí AIDS, cơ thể bị mất tế bào vì có quá
nhiều tế bào bị chết.
Ngăn chận sự tự tử của các tế bào này là
một chìa khóa quan trọng trong việc chinh phục bệnh
tật. Và hiện nay,
có nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới tập trung nhân
lực vào nghiên cứu sự tự tử của tế bào.
Có
vài điều đáng chú ý trong giải thưởng Nobel y sinh
học kỳ này. Thứ
nhất là khuynh hướng khoa học trong việc chọn và đánh
giá công trình nghiên cứu để trao giải Nobel trong
những năm gần đây, mà đặc biệt là năm 2002, nghiêng
về các nghiên cứu tế bào học và sinh học phân tử
(molecular biology). Tưởng
cần nhắc lại là năm ngoái, giải Nobel y sinh học được
trao cho ba nhà khoa học (Anh và Mỹ) cũng cho các công trình
nghiên cứu liên quan đến tế bào học.
Trước đó, một nhà khoa học nghiên cứu về tế
bào cũng được trao giải Nobel y sinh học.
Do đó, có thể nói, giới nghiên cứu tế bào và
sinh học phân tử được “trúng mùa” trong thời gian
gần đây.
Thứ
hai là khuynh hướng trao giải Nobel cho một nhóm nhà khoa
học hơn là cho một cá nhân.
Năm nay, có ba nhà khoa học được giải.
Năm ngoái cũng có ba nhà khoa học được giải.
Thực ra, tính từ đầu thập niên 90s cho đến nay,
mỗi năm thường có ít nhất là hai nhà khoa học được
trao giải, trong khi thời gian trước đó giải thưởng thường
chỉ trao cho một nhà khoa học.
Sau
cùng, một lần nữa, sự vắng mặt của một nữ khoa
học gia trong danh sách những người được giải Nobel
chắc sẽ làm nhiều người đấu tranh cho bình đẳng
giới tính trong khoa học không hài lòng.
Quả vậy, ngày nay có khoảng 40% các nhà khoa học
hoạt động trong lĩnh vực y sinh học là phụ nữ, nhưng
số lượng nữ khoa học gia được trao giải thưởng cao
quí như giải Nobel chỉ đếm đầu ngón tay.
Những người tranh đấu cho bình đẳng giới tính
phàn nàn rằng có tình trạng kỳ thị giới tính trong các
giải thưởng, nhưng qua nhiều năm tình trạng này vẫn còn
là một vấn đề tế nhị.
Để
hiểu rõ ý nghĩa của những khía cạnh trên đây, bài
viết này sẽ sơ lược về lịch sử và các thủ tục cũng
như các tiêu chuẩn trong việc tuyển chọn, bình bầu, và
trao giải Nobel trong vòng 100 năm qua.
Ngược
dòng lịch sử
“Người
ký tên dưới đây, Alfred Bernhard Nobel, sau nhiều suy nghĩ
và cân nhắc, tuyên bố những điều sau đây như những
ý nguyện cuối cùng và như một bản di chúc sau cùng liên
quan đến gia tài tôi để lại sau khi qua đời ...,”
đó là những dòng chữ mở đầu bản di chúc cuối cùng
của Nobel, một nhà khoa học và kỹ nghệ người Thụy
Điển. Theo di chúc
này, hàng năm, lãi suất của gia sản do Nobel để lại
sẽ được chia làm năm phần để tặng cho những người
đã có cống hiến lớn cho nhân loại trong năm vừa qua.
Ông chọn ra 4 ngành khoa học để trao giải: vật lí,
hóa học, văn chương, và các hoạt động cho mục tiêu hòa
bình. Cũng theo di chúc
đó, một trong những giải thưởng ông có ý dành cho
những nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực sinh lí
học hoặc y khoa. Sau
này, giải thưởng về kinh tế học cũng được đưa vào
hệ thống giải Nobel.
Sau
khi được công bố, nhiều người phê phán khía cạnh pháp
lí của bản di chúc. Có
người cho rằng bản di chúc quá đơn giản, quá chung
chung. Ngay cả trong
gia đình của Nobel cũng có tranh cãi: một số người cháu
của Nobel kiện nhau ra tòa và phải mất một thời gian
khá lâu mới giải quyết xong cuộc tranh chấp.
Vai
trò của Viện Karolinska và Ủy ban Nobel
Như
nói rõ trong di chúc của Nobel, ông muốn Viện nghiên
cứu Karolinska đứng ra tổ chức trao giải thưởng về y
sinh học. Trong
những năm đầu thế kỷ, công việc này do một nhóm giáo
sư (gồm 19 người) thuộc Viện đảm nhiệm.
Nhưng trong thực tế, một nhóm nhỏ gồm chỉ 3 thành
viên đứng ra tuyển chọn và bình bầu các ứng viên.
Một trong ba người này là Chủ tịch của Viện
nghiên cứu Karolinska. Trong
vòng 42 năm liền, giải Nobel về y sinh học chỉ do 3 người
này tuyển chọn và trao giải.
Đến năm 1960, người ta thấy việc tuyển chọn và
bình bầu cần được cải cách, và theo đó, một ủy
ban mới, gồm 61 giáo sư, ra đời để đảm nhận nhiệm
vụ tuyển chọn, bình bầu, và trao giải.
Ngoài ra, trong ủy ban này còn có thêm các nhân viên
giảng dạy trong các trường đại học mà không nhất
thiết phải mang hàm “giáo sư” (Professor), nhưng có
thể là “Phó giáo sư” (Associate Professor), hay “Giảng
sư” (Senior Lecturer). Do
đó, ủy ban này có số nhân sự lên đến 200 thành viên.
Với một nhóm người đông đảo như thế, vấn đề
bất đồng ý kiến và tranh chấp là chuyện không thể
tránh khỏi. Sau đó,
một đạo luật ra đời bắt buộc ủy ban này phải công
bố tất cả các văn thư liên quan đến việc tuyển
chọn và bình bầu ứng cử viên cho công chúng biết,
chứ không làm việc trong vòng bí mật như trước đây.
Nhưng
sau một thời gian hoạt động, cách công bố này không
đem lại hiệu quả như người ta mong muốn, nên đến năm
1977, Hội đồng Nobel (“The Nobel Assembly”) được thành
lập và hoạt động cho đến nay.
Hội đồng Nobel gồm có 50 đại biểu, tất cả đều
mang hàm giáo sư, và không một ai hơn 65 tuổi.
Hội đồng Nobel thành lập một Ủy ban Nobel (Nobel
Committee), gồm có 5 người được tuyển chọn từ Hội
đồng Nobel. Mỗi thành
viên trong Ủy ban Nobel chỉ được quyền phục vụ trong
vòng 3 năm. Trong
thực tế, Hội đồng Nobel chỉ là một cơ quan đại
diện, vì tất cả mọi việc tuyển chọn ứng viên đều
do Ủy ban Nobel chịu trách nhiệm.
Thời
điểm và quá trình tiến cử cũng như bình bầu giải
Nobel y sinh học được duy trì trong suốt 100 năm qua.
Hàng năm cứ đến tháng Chín, Ủy ban Nobel gửi thư
đến khoảng 2500 đến 3000 nhà khoa học trên khắp thế
giới để mời họ tiến cử người nên được trao
giải Nobel. Thời
hạn chót mà các nhà khoa học tiến cử là ngày 31 Tháng
Giêng năm sau. Một
khi đã lên danh sách những người được tiến cử, Ủy
ban Nobel sẽ trao danh sách này cho một nhóm gồm 10 người
(trong Hội đồng Nobel) để họ xem xét thêm.
Sau đó, nhiều cuộc họp sẽ diễn ra giữa thành
viên của Ủy ban Nobel và nhóm 10 người này để bàn
thảo, đánh giá các công trình nghiên cứu của các ứng
viên được đề cử. Đến
tháng 10, Hội đồng Nobel (50 người) mới họp và bỏ
phiếu cho từng ứng viên.
Cố nhiên, ứng viên nào có nhiều phiếu nhất sẽ
được giải năm đó.
Tiêu
chuẩn tuyển chọn
Giải
Nobel do Viện nghiên cứu y khoa Karolinska thường được
gọi là Giải Nobel về y học, nhưng trong bản di chúc
của Nobel thì ông chỉ đề cập đến sinh lí học hay y
học (physiology or medicine).
Sở dĩ có sự khác biệt nhỏ này là vì vào thời
ông Nobel còn sống, sinh lí học được dùng để mô tả
một bộ môn học mà ngày nay chúng ta có thể gọi chung
là sinh vật học (biology).
Cách diễn dịch “sinh lí học hay y học” tạo điều
kiện dễ dàng cho ủy ban tuyển chọn và phát giải thưởng
cho các nhà khoa học làm việc trong các bộ môn như lâm
sàng, sinh vật học, công nghệ sinh học, v.v… Cho dù cách
phân biệt và định nghĩa thế nào là sinh lí học, hay
thế nào là y học sẽ còn trong vòng tranh luận trong vài
thế kỷ tới, nhưng nhìn qua lĩnh vực nghiên cứu của các
nhà khoa học từng được giải thưởng này trong vòng
100 năm qua cho thấy ủy ban tuyển chọn và trao giải
Nobel tỏ ra khá “phóng khoáng” với định nghĩa “sinh
lí học hay y học”. Chẳng
hạn như giải Nobel năm 1973 được trao cho Karl von Frisch,
Konrad Lorenz, và Nikolaas Tinbergen vì có công “phát hiện
cơ cấu tổ chức và mối tương tác giữa cá nhân và
khuynh hướng xã hội” có thể liệt vào một công trình
mang tính xã hội học hay ít ra là tâm lí học.
Giải thưởng năm 1979 cho Cormack và Hounsfield về công
trình phát triển hệ thống CAT, tức là hệ thống X-ray
dùng computer (còn gọi là computer-assisted tomography) có
thể được xem là một công trình nghiên cứu vật lí
học. Hay giải Nobel
năm 1983 cho Barbara McClintock về công trình khám phá các
yếu tố di chuyển của di truyền tố có thể được xem
là nằm trong bộ môn di truyền thực vật.
Hai
chữ quan trọng trong tiêu chuẩn này là “discovery” (khám
phá, phát hiện), và “greatest benefit on mankind” (lợi ích
lớn nhất cho nhân loại).
Thực vậy, những người thừa kế và thi hành
bản di chúc Nobel đã từng tranh luận, bàn cãi chi tiết
về hai tiêu chuẩn này sau khi Nobel qua đời.
Nhưng sau cùng họ không đi đến một tiêu chuẩn nào
cụ thể, không đồng ý với nhau một bản chỉ dẫn nào
cụ thể. Cuối cùng,
họ để quyền quyết định cho Ủy ban Nobel diễn dịch
hai cụm từ trên sao cho phù hợp nhất!
Một vấn đề phức tạp khác là cách dùng chữ khác
nhau của ông Nobel trong di chúc.
Đối với ngành vật lí ông dùng chữ “discovery
and invention” (khám phá và sáng chế), trong khi trong ngành
hóa học ông dùng chữ “discovery or improvement” (khám phá
hay cải tiến).
“Discovery”
hay khám phá thì dễ định nghĩa trong các ngành khoa học
cơ bản, nhưng trong các ngành như khoa học lâm sàng thì
định nghĩa thế nào là một “khám phá” không dễ chút
nào. Khám phá thường
được định nghĩa là những phát hiện mang tính bất
ngờ, đem lại kiến thức mới cho nhân loại.
Mặt khác, cụm từ “greatest benefit on mankind” thì
rất dễ định nghĩa trong khoa học lâm sàng, nhưng đối
với khoa học cơ bản thì lại rất khó định nghĩa.
Một khám phá về cơ cấu vận hành của một tế
bào trong khoa học cơ bản có thể không có ý nghĩa lâm
sàng nào trong vòng 20 năm, nhưng lại có thể đem đến
lợi ích cho bệnh nhân về lâu về dài.
Để dung hòa cái khó khăn này, Ủy ban Nobel thường
trao giải thưởng cho những khám phá nào có tính cơ
bản nhất, original nhất.
Charle
Nicolle được trao giải năm 1928 do công trình nghiên cứu
về bệnh sốt Rikettsia, và nhờ vào công trình này mà hàng
trăm ngàn người được cứu sống trong thời thế
chiến thứ nhất. Paul
Hermann Muller nhận giải năm 1948 do công trình nghiên cứu
và phát hiện hóa chất
dichloro-diphenyl-trichloromethylmethane (DDT), một hóa chất
diệt cỏ và sâu bọ. Trong
và sau thế chiến thứ hai, DDT không những được dùng
để chống lại các bệnh như bệnh sốt Rikettsia, mà còn
là một loại vũ khí lợi hại chống lại bệnh sốt rét.
Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
ước tính rằng trong thời gian dùng DDT, hơn 25 triệu người
đã được cứu sống. Ngày
nay, có người đề nghị tẩy chay DDT vì họ cho rằng nó
có thể làm ô nhiễm và độc hại đến môi trường.
Nhưng vào lúc mà giải thưởng được trao tặng,
lợi ích của DDT cho nhân loại là một điều quá hiển
nhiên. (Thực ra,
ngay cả ngày nay cũng chưa có bằng chứng đáng tin cậy
nào cho thấy DDT độc hại đến môi trường).
Bản
di chúc còn nhấn mạnh là giải thưởng chỉ dành cho
những công trình nghiên cứu trong năm vừa qua (preceeding
year). Nhưng trong
thực tế, cái tiêu chí này rất khó mà thực thi.
Thứ nhất, những khám phá được công bố trong các
tập san khoa học chuyên môn thường tốn hơn một năm.
Thứ hai, tất cả những khám phá khoa học đều
phải qua sự kiểm tra của giới nghiên cứu khoa học
trong ngành thì mới có thể đáng tin cậy được, và quá
trình kiểm tra này thường tốn hơn một năm, thậm chí
cả 5 năm. Để
giải quyết cái khó khăn tế nhị này, Ủy ban Nobel
quyết định diễn dịch chữ “preceeding year” là các
khám phá mà lợi ích của chúng được chứng minh rõ ràng
trong năm qua. Bà
Barbara McClintock khám phá các yếu tố di truyền trong
thực vật từ năm 1944, tức là trước khi Francis Crick và
James Watson khám phá cấu trúc DNA vào năm 1953.
Tuy nhiên, mãi đến năm 1983 giải thưởng Nobel
tới tay bà McClintock!
Như
đề cập trên, một trong những phê bình của bản di chúc
Nobel là nó quá chung chung.
Do đó, khi soạn thảo các qui định để trao giải
thưởng, người ta phải cố làm cho nó cụ thể hơn.
Một trong những qui định đó là trong bất cứ trường
hợp nào, giải thưởng chỉ được chia xẻ trong vòng 3
người trở lại. Nói
một cách khác, số người nhận giải thưởng về một
bộ môn chỉ 3 người hay ít hơn.
Qui định này cũng có nghĩa là một số người
xứng đáng được giải phải bị … loại ra.
Trong thực tế, có khi cả một nhóm nghiên cứu
bị loại bỏ trong quá trình chọn và trao giải.
Giải
Nobel về y sinh học thường được chia sẻ giữa hai người,
nhất là trong thời gian sau bán thế kỷ 20, khi mà sự
hợp tác nghiên cứu càng ngày càng trở nên phổ thông.
Tính từ năm 1901 đến 1950, có 59 nhà khoa học được
trao giải Nobel; nhưng từ 1951 đến 2000, có 113 nhà khoa
học được trao giải. Điều
này cũng dễ hiểu vì trong những công trình nghiên cứu
lớn, một cá nhân riêng lẻ không thể nào có đủ khả
năng để tiến hành nghiên cứu, mà cần phải có một
sự hợp tác - thường là xuyên quốc gia - để hoàn
tất công trình nghiên cứu.
Những
lằn ranh biên giới khó định
Giải
Nobel do Viện Karolinska trao hàng năm trên danh nghĩa là dành
cho những công trình nghiên cứu về y sinh học như di chúc
của ông Nobel viết, nhưng trong thực tế phân biệt
những khác biệt giữa các công trình vật lí học, hóa
học, sinh học, và y học không phải lúc nào cũng rõ ràng.
Ông Rontgen được trao giải Nobel vật lí, nhưng công
trình nghiên cứu của ông lại mang tính ứng dụng trong
hóa học và y khoa. Schrodinger
(giải Nobel vật lí năm 1933) và Bohr (Vật lí, 1922) là
hai nhà khoa học từng thuyết phục giới nghiên cứu sinh
học rằng quá trình của sự sống có thể phân tích
bằng nguyên tử (atoms) và phân tử (molecules), và qua đó
mà môn học sinh học phân tử ra đời và phát triển
mạnh như ngày nay. Tương
tự, Delbruck (giải Nobel y sinh học, 1969), một nhà vật lí
học, nhưng quay sang nghiên cứu về sinh học và đã có
nhiều cống hiến trong bộ môn di truyền học.
Có
thể nói rằng, một số nhà khoa học được trao giải
Nobel hóa học đáng lí ra nên được trao giải về y sinh
học. Ông Buternandt (giải Nobel hóa học, 1939) được ghi
nhận là có công khám phá kích thích tố dục (sex
hormones), một đề tài “rất sinh lí học”; ông Hevesy
(Nobel hóa học, 1943) có công giới thiệu các phương pháp
hóa học vào nghiên cứu y học; ông Sanger (được 2
giải Nobel về hóa học) cũng do các công trình nghiên
cứu liên quan đến công nghệ sinh học (biotechnology) như
chúng ta biết ngày nay. Năm
1958, ông nhận giải Nobel hóa học lần đầu về công trình
liên quan đến cấu trúc của insulin, rồi đến năm 1980,
ông lại nhận một giải Nobel hóa học thứ hai về phương
pháp phân tích nucleic acids.
Tương tự, Dorothy Hodgkin có công xác định cấu trúc
sinh hóa bằng phương pháp quang tuyến X, và được trao
giái Nobel hóa học năm 1964; Mitchell (Nobel hóa học, 1978)
nghiên cứu quá trình biến chuyển sinh năng lượng
(bioenergy) và cho ra đời thuyết chemiosmotic.
Để
kết hợp công việc của Ủy ban Nobel trong ngành y sinh
học và các Ủy ban Nobel trong các ngành vật lí và hóa
học, một hội nghị liên ủy ban được tổ chức hàng
năm để đánh giá và phân định ứng viên nên nhận
giải Nobel cho ngành nào, và quan trọng hơn là để tránh
tình trạng một ứng viên mà nhận hai giải Nobel trong cùng
năm! (Trong thực
tế, hiện tượng này chưa xảy ra.)
Khuynh
hướng
Tính
từ năm 1901 đến 2002, có 178 nhà khoa học được trao
giải thưởng Nobel về y sinh học.
Bảng thống kê sau đây [1] cho thấy lĩnh vực nghiên
cứu của các nhà khoa học này.
Truyền
nhiễm học và trừ sâu:
|
12
|
Miễn
dịch học (Immunology)
|
19
|
Hóa
học trị liệu và dược học
|
9 |
Quang
tuyến trị liệu (Phototherapy)
|
2
|
Ung
thư |
8
|
Di
truyền học (cổ điển)
|
3 |
Tế
bào sinh học (cell biology)
|
7
|
Phát
triển sinh học |
4
|
Sinh
học phân tử và di truyền học |
29
|
Nội
tiết học |
20
|
Nghiên
cứu kích thích tố
|
11
|
Nghiên
cứu sinh tố (vitamin)
|
7
|
Tiêu
hóa, tuần hoàn, hô hấp
|
7
|
Tâm
thần học
|
24
|
Giải
phẫu |
3
|
Nghiên
cứu giác quan |
8
|
Tâm
lí y học |
3
|
Nghiên
cứu về chẩn đoán
|
2
|
Nếu tính theo số lượng nhà khoa học thì giải
Nobel có khuynh hướng trao cho các công trình nghiên cứu
liên quan đến sinh học phân tử, và kế đó là tâm
thần học, nội tiết học và miễn dịch học.
Nhìn
qua các công trình khoa học được trao giải này cũng có
thể cho người ta một một khái niệm về quá trình
tiến bộ của y học. Từ
những nghiên cứu có tính lâm sàng (clinical) hay tương đối
“sơ sài” (so với trình độ kỹ thuật ngày nay), nghiên
cứu y khoa đã tiến sâu vào lĩnh vực cơ bản nhất
của con người như di truyền phân tử học (molecular
genetics) và sinh học phân tử (molecular biology).
Năm 1901, ông Emil Adolf von Behring (người Đức) đoạt
giải này vì đã các công trình nghiên cứu và chữa
trị bệnh bạch hầu (diphtheria).
Hàn lâm viện Thụy Điển đánh giá công trình này
rất cao, họ viết: “[qua nghiên cứu này], ông đã mở
ra một hướng đi mới trong lĩnh vực y khoa, và bằng cách
đó, đã cho các y sĩ một vũ khí hữu hiệu để chinh
phục bệnh tật và sự tử vong” (tạm dịch từ
"[by which] he has opened a new road in the domain of medical
science and thereby placed in the hands of the physician a
victorious weapon against illness and deaths.")
Năm 1902, giải thưởng được trao cho một nhà khoa
học người Anh, ông Ronald Ross (sau này được phong
"Sir," tức hiệp sĩ) vì những công trình nghiên
cứu liên quan tới bệnh sốt rét (malaria).
Những năm sau đó, các khoa học được tặng giải
thưởng nhờ vào nghiên cứu liên quan tới bệnh lao
(1905; Robert Koch, người Đức), sốt ban (typhus) (1928;
Charles Nicolle, người Pháp); phân loại máu (1930; Karl
Landsteiner, người Mỹ), bệnh truyền nhiễm (1945;
Alexender Fleming, Mỹ; Ernst Boris Chain, Anh; Howard Walter
Florey, Úc), sốt vàng (1951; Max Theiler, người Mỹ), chữa
trị bệnh lao bằng thuốc streptomycin (1952; Salman Abraham
Waksman, Mỹ).
Bắt
đầu từ năm 1958, nghiên cứu về di truyền học đã
được sự chú ý của Hàn lâm viện Thụy Điển qua
việc trao giải thưởng cho ba nhà khoa học người Mỹ,
George Wells Beadle, Edward Lawrie Tatum, và Joshua Lederberg, vì
đã có công khám phá ra một quy luật quan trọng trong di
truyền học (genetic recombinant) trong vi khuẩn.
Các
giải Nobel về y khoa và sinh lý học sau này thường được
trao cho các công trình nghiên cứu liên quan tới khoa học
sinh học phân tử (molecular biology).
Năm 1961, giải Nobel về y khoa và sinh lý học được
trao cho ba nhà khoa học là Francis Harry Compton Crick (Anh),
James Dewey Watson (Mỹ) và Maurice Hugh Frederick Wilkins (Anh) vì
đã có khám phá nổi tiếng về DNA, làm tiền đề cho hàng
triệu nghiên cứu và tiến bộ về sinh học y khoa sau nàỵ
Kể từ đó, giải thưởng nghiên về các công trình
mang bản chất sinh học phân tử (molecular biology) và di
truyền (genetics). Năm
1978, Hàn lâm viện Thụy Điển trao giải thưởng cho ba
nhà khoa học Werner Arber (Thụy sĩ), Daniel Nathans (Mỹ) và
Hamilton O. Smith
(Mỹ) do đã có công khám phá ra các enzymes và những
ứng dụng vào nghiên cứu di truyền học.
Sự tiến bộ trong sinh học phân tử và di truyền
học những năm gần đây phần lớn nhờ vào các kỹ
thuật PCR (polymerase chain reaction) do hai nhà khoa học Mỹ
(Kary Mullis) và Gia Nã Đại (Michael Smith) khám phá, và đã
được trao giải thưởng Nobel về hóa học vào năm 1993.
Kể từ năm
1999 cho đến nay thì giải này vẫn được trao tặng cho
một công trình mang nặng tính chất sinh học phân tử,
nhất là các công trình liên quan đến tế bào học.
Trong
di chúc của Nobel ông có viết cụ thể là các giải thưởng
Nobel sẽ được trao cho các nhà khoa học với những công
trình nghiên cứu xuất sắc, mà không phân biệt quốc
tịch của nhà khoa học. Khi
nội dung của bản di chúc được công bố, một số người
phê bình là ông Nobel không có lòng yêu nước, thiếu
tinh thần quốc gia. Câu
hỏi được đặt ra là trong vòng hơn 100 năm qua, giải
Nobel có thiên vị về các nhà khoa học người Thụy Điển
hay không? Để trả
lời câu hỏi này, chúng ta có thể xét qua bảng thống kê
[1] sau đây về số lượng nhà khoa học được trao
giải Nobel theo quốc tịch và theo vài thời gian nhất định:
|
1901-25 |
1926-50 |
1951-75 |
1976-2002
|
Mỹ |
1 |
13 |
32 |
42
|
Đức |
5 |
3 |
3 |
4
|
Anh |
2 |
7 |
10 |
8
|
Pháp |
2 |
1 |
3 |
1
|
Các
nước khác |
13 |
12 |
9 |
7
|
Tổng
cộng |
23 |
36 |
57 |
62 |
Trong
số 178 nhà khoa học được trao giải Nobel về y sinh
học, chỉ có 9 người là công dân Thụy Điển và 4 người
Đan Mạch. Thụy Sĩ,
một quốc gia có số dân chỉ bằng phân nửa Thụy Điển,
nhưng có đến 8 nhà khoa học được giải Nobel.
Riêng Úc có 3 nhà khoa học được giải Nobel.
Trong
thực tế, tất cả các nhà khoa học được giải Nobel
đều làm việc hoặc ở Mỹ, hoặc ở Âu châu.
Sau Thế chiến thứ hai, Mỹ đứng đầu danh sách
giải Nobel về y sinh học.
Vào thập niên 1930s, khi mà Đức quốc xã cầm
quyền, nhiều nhà khoa học, phần lớn là gốc Do Thái,
di cư sang Mỹ hay Âu châu, và chính họ là những người
đã có công làm cho nền khoa học của Mỹ tiến bộ
một cách vượt bực. Trong
số 32 nhà khoa học Mỹ chiếm giải Nobel về y sinh học
từ 1951 đến 1975, có đến 9 người là di dân từ nước
ngoài.
Còn
các quốc gia Á châu? Ngoại
trừ một người Nhật, ông Susumu Tonegawa (giải Nobel năm
1987) thuộc trường MIT (Mỹ) chưa có người Á châu nào
được tặng giải Nobel về y sinh học.
Điều này cũng đáng ngạc nhiên, vì nói chung, người
châu Á, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ có mặt hầu như
trong mọi bộ môn y khoa.
Nhiều người cũng rất xuất sắc, là những nhà
khoa học hàng đầu trong chuyên ngành.
Ấy thế mà sự hiện diện của người Á châu
trong giải Nobel y khoa hầu như không đáng kể.
Điều này không có nghĩa là các khoa học gia Á châu
không thông minh, hay thiếu sáng tạo, mà có thể phản ánh
quá trình chọn lựa và bình bầu người xứng đáng.
Trường
đại học hay viện nghiên cứu nào có nhiều nhà khoa
học đoạt giải Nobel? Trong
ngành y sinh học, chỉ 15 trường đại học (8 ở Mỹ)
chiếm khoảng 42% trong số 173 giải cho ngành này.
Dẫn đầu là trường đại học Harvard, với 11
giải, kế tiếp là trường đại học Luân Đôn (9
giải). Các trường
khác mỗi trường chiếm 5 giải như California Institute of
Technology (Mỹ), Max-Planck-Gesellschaft (Đức), University of
Oxford (Anh), Massachusetts Institute of Technology (Mỹ), Institut
Pasteur Paris (Pháp), Rockefeller Institute for Medical Research
(Mỹ). Những trường
khác có từ 3 giải trở lên là Rockefeller University
(Mỹ), Karolinska Institute Stockholm (Thụy Điển), University
of Cambridge (Anh), National Institutes of Health (Mỹ), University
of Texas at Dallas (Mỹ), University of Wisconsin, Madison (Mỹ) và
Washington University, St. Louis (Mỹ).
Thiếu
sót và nhầm lẫn
Cũng
như bất cứ cuộc tuyển chọn nào, nhất là trong một
thời gian hơn một thế kỷ, mà lại đúng tuyệt đối.
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều phê bình, và
những phê bình này tập trung vào ba điểm chính: thiếu
sót, nhầm, và thiên vị đàn ông.
Phê bình nào cũng có cơ sở.
Về vấn đề thiếu sót thì quả là không thể nào
tránh khỏi, vì mỗi năm Ủy ban Nobel chỉ trao giải cho
tối đa là ba nhà khoa học; do dó, những người khác, dù
có cống hiến xuất sắc, bị “lọt sổ”.
Một trường hợp tiêu biểu cho sự thiếu sót là
trường hợp của ông Oswald T. Avery.
Ông Avery là người đầu tiên khám phá và định
nghĩa DNA là một chất liệu di truyền.
Ông công bố khám phá này vào năm 1944.
Trong thời gian từ 1932 đến 1942, Avery đã được
tiến cử nhiều lần như không được trao giải.
Kể từ năm 1945, ông được tiến cử hàng năm, nhưng
thời gian đó, giới nghiên cứu khoa học chưa chịu nhìn
nhận thuyết của Avery vì họ không nghĩ là DNA chỉ đơn
giản có 4 mẫu tự mà lại có chức năng “chất liệu
di truyền”, họ nghĩ protein mới chính là chất liệu di
truyền. Đến khi
(sau này) cộng đồng khoa học chấp nhận ý tưởng của
Avery thì ông đã qua đời, và Ủy ban Nobel không có lệ
trao giải thưởng cho người đã chết!
Về
vấn đề nhầm lẫn, có thể lấy ba ví dụ điển hình:
Banting và MacLeod (1923), Fibiger (1926), và Moniz (1949).
Hai ông Banting và MacLeod được trao giải Nobel nhờ
vào công trình nghiên cứu về insulin, và giải thưởng này
đã bị chất vấn ngay từ lúc Hội đồng Nobel công
bố. MacLeod là giáo
sư và trưởng phòng thí nghiệm, nơi mà Banting và một
đồng nghiệp trẻ tuổi tên là Charles Best làm việc.
Hai người có công khám phá insulin là Banting
và Best (vì lúc đó MacLeod không có mặt trong phòng thí
nghiệm vì ông đi công tác xa).
Thế nhưng trớ trêu thay, chỉ có Banting và MacLeod,
mà không phải Banting, là người được trao giải!
(Thực ra, sau này Best cũng được tiến cử nhiều
lần, nhưng ông không có cơ duyên được trao giải.).
Năm
1926, quyết định trao giải Nobel cho Fibiger về công trình
nghiên cứu ung thư spiroptera (hay spiroptera carcinoma) cũng
bị chỉ trích gay gắt. Thời
đó, ít ai biết về cơ chế gây ra ung thư.
Mãi đến 40 năm sau, giải Nobel mới được trao cho
một công trình nghiên cứu ung thư khác, và lúc đó, người
ta mới hiểu về mã di truyền, đột biến, vi khuẩn, và
các cơ chế sinh học khác.
Năm
1949 giải Nobel được trao cho một bác sĩ giải phẫu
(Moniz) vì phẫu thuật thùy não, hay lobotomy (hay còn gọi
là leucotomy) trong việc chữa trị chứng lọan thần kinh
(psychotic). Trước
khi phẫu thuật được ứng dụng, bệnh nhân phải chịi
nhiều cực hình như “nhốt” trong một lồng sắt
(straitjackets), tắm bằng nước lạnh, rồi mới đến
giải phẫu và giật điện.
Khi thuốc được dùng để chữa trị thì phẫu
thuật này đã trở thành một phương pháp của quá
khứ. Ngày nay phẫu
thuật thùy não được xem là một phẫu thuật phi đạo
đức.
Về
giới tính, chỉ có 6 trong số 178 vị tú Nobel là phụ
nữ: Gery T. Cori (1947), Roslyn Yalow (1977), Barbara McClintock
(1983), Rita Levi-Montalcini (1986), Gertrude B. Elion (1988), và
Chritiane Nusstein-Volhard (1995).
Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên,
vì trong nghiên cứu y sinh học, nam giới đóng vai trò
“thống trị” trong vòng một thế kỷ qua.
Vài
nhận xét
Các
giải Nobel về y sinh học trong thế kỷ qua đánh dấu
nhiều tiến bộ trong ngành y sinh lí học.
Nhưng những giải thưởng Nobel không thể nào
phản ánh đầy đủ quá trình chinh phục bệnh tật và kéo
dài tuổi thọ của con người.
Như trình bày trong bài viết này, nhầm lẫn và
thiếu sót đã từng xảy ra.
Nhưng uy tín của giải Nobel không vì thế mà suy
giảm; cho đến nay, nó vẫn là một thước đo về tiến
bộ y sinh học có độ tin cậy cao nhất.
Lí do đơn giản là giải thưởng được cộng đồng
khoa học tiến cử, bình bầu, và tuyển chọn một cách
công bằng nhất.
Một
trong những nguyện vọng của Nobel là phần thưởng tài
chính của giải Nobel sẽ tạo điều kiện cho các nhà
khoa học tiếp tục nghiên cứu mà không phải canh cánh
lo lắng tình trạng tài chính cá nhân (phần lớn các nhà
khoa học rất nghèo). Nhưng
cái ước nguyện đó xem ra không thành sự thực trong
bối cảnh kinh tế ngày nay.
Tuổi trung bình của các vị tú Nobel là 55 tuổi, và
trong độ tuổi này, phần lớn họ đã có một sự
nghiệp ổn định, nếu không muốn nói là khá vững vàng,
trên trường khoa học. Ngoài
ra, nghiên cứu y học ngày nay, cũng như nghiên cứu vật
lí và hóa học, đòi hỏi một ngân sách lớn, với sự
cộng tác của nhiều nhà khoa học.
Giải Nobel tuy có giá trị tài chính tương đối
cao (khoảng 1 triệu Mỹ kim), nhưng không thấm vào đâu
cho một ngân sách nghiên cứu y học trong thế kỷ 21.
Dù
sao đi nữa, giải Nobel vẫn là một cái đích, một mục
tiêu vinh quang, một động cơ đáng kể cho các nhà khoa
học muốn vươn tới để góp phần đem lại lợi ích
cho nhân loại.
Chú
thích:
[1]
Số liệu trong bảng thống kê này được trích
từ một chương trong cuốn sách “The Nobel Prize: The
First 100 Years” (soạn giả Agneta Wallin Levinovitz và
Nils Ringertz) của tác giả Jan Lindsten và Nils Ringertz, Nhà
xuất bản Imperial
College Press và World
Scientific Publishing Co. Pte. Ltd., 2001.
Số liệu từ năm 2000 đến 2002 là do người viết
bổ sung.
Home: http://vietsciences.free.fr |