“Mùa đông về dằng dặc trong
tiếng động nghìn trùng của mưa trên lá. Tưởng
không còn gì để trông ngóng ở khu vườn trước lúc
sang xuân, thì đến tháng mười một, măng cụt
chín, như một quả vui đột xuất cuối năm. Đây là
mùa thu hoạch chính của những khu vườn vùng Kim
Long. Quả măng cụt, người Huế còn gọi là trái
giáng châu, lúc chín màu tím sẫm, ở rốn quả nổi
lên một hình hoa nhỏ, nhìn hoa có bao nhiêu cánh
thì biết bên trong có bao nhiêu múi. Hình như nó
chẳng có tác dụng gì cả ngoài việc khiến người
ta ưa nhìn đến nó, giống như hạt cúc giả trên áo
phụ nữ, vì thế bà Lan Hữu tạm giải thích rằng đó
là cái bản năng tự trang sức của thiên nhiên ở
nơi cây măng cụt” (5).
Cây măng cụt người Tàu gọi là
sơn trúc tử tuy nó không mọc bên Trung Quốc,
người Huế gọi gọn nhẹ cây măng, mang tên khoa
học Garcinia mangostana L., thuộc họ Bứa
Guttiferae. Người Phápgọi nó
mangoustanier, Anh Mỹ mangosteen, có khi
manggis. Cách gọi nầy của người nước ngoài có
ảnh hưởng gì đến tên của ta không vì phần lớn
các cây Garcinia khác đều mang tên bứa :
bứa lửa, bứa nhà, bứa mọi, bứa núi ? (1).
Còn tên gọi đài các ở Huế là giáng châu, như
ngọc trên trời ban xuống, thì có lẽ từ cung đình
mà ra. “Thiết nghĩ cây
măng cụt sống được trên đất Kim Long phải có từ
lâu, có lẽ từ thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần
khi mở đất tới xứ Đồng Nai, nếu không cũng phải
thời Gia Long lên ngôi nhận sản vật hai miền
cung tiến ra kinh đô. Bởi tương truyền giống
măng cụt do bà Từ Dũ đem từ trong Nam ra...”
(6). Giáng cũng còn có nghĩa đỏ tía,
châu chỉ định một cây có lòng đỏ, một màu đỏ
thắm như trong châu sa, châu tử, châu thần thì
cách lấy tên nầy đặt cho măng cụt cũng dễ hiểu
thôi.
Cây măng cụt nguồn gốc Mã
Lai, Nam Dương, từ Malacca qua Moluku, ngày nay
bắt gặp khắp Đông Nam Á, ở Ấn Độ, Myanmar cũng
như ở Sri Lanka, Philippines, được các nhà
truyến giáo đạo Gia tô di thực vào miền Nam nước
ta (2), rồi trồng nhiều ở các tỉnh
Tây Ninh, Gia Định, Thủ Dầu Một. Ở đây khí hậu
cũng nóng ấm nên cây dễ mọc, nhưng nó không tiến
được xa lên miền Bắc lạnh lẽo, xa lắm là đến tận
Huế. Có người đã từng ngạc nhiên : “Cây măng cụt
chẳng hạn, từ miền Đông Nam Bộ nó nhảy qua suốt
một dải miền Trung rồi xuất hiện trở lại ở những
khu vườn Huế” rồi thắc mắc “Riêng tôi vẫn thấy
một điều lạ chưa giải đáp được về cây măng cụt ở
Huế, sao chịu về đây để chín bằng mưa dầm gió
bấc, sao chín được bằng sức đông lạnh của Huế ?
Dầu sao, nhờ có mùa măng, vườn An Hiên vẫn giữ
được phong độ qua buổi vạn vật tàn phai”
(5). Cách thức thích ứng nầy của cây măng
cụt với thời tiết đã gây ra một hiện tượng khá
lạ. “Mùa măng cụt ở Huế lại so le với mùa măng
cụt ở Nam Bộ. Vì vậy khi măng cụt miền Nam hút
trái, giống trái cây nầy được nhiều người ưa
chuộng, măng cụt Huế đang mùa trổ quả lại được
buôn ngược vào trong Nam. Riêng người Huế thì ăn
được cả hai mùa trái cây của hai miền đất nước.
Có được điều đó hẳn do phong thổ ở Huế khác
hơn. Hiện nay vườn măng cụt ở Huế sai quả nhất
Kim Long phải kể đến vườn ông Lê Tự Thái, mỗi
gốc cây có tuổi đời già hơn tuổi của mấy đời chủ
nhân... Măng cụt Nguyệt Biều trồng nhiều song
người Huế vẫn chuộng trái của vườn Kim Long ”
(6).
Măng cụt là một loại cây to, có
thể cao tới 20-25m. Lá dày, dai, màu lục sẫm,
hình thuôn dài. Hoa đực cụm 3-9 hoa có lá bắc.
Hoa lưỡng tính có cuống có đốt. Quả hình cầu, to
bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ tím dày
cứng, trong đỏ tươi như rượu vang, dày xốp, phía
dưới có lá dài, phía đỉnh có đầu nhụy. Trong quả
có từ 6 đến 18 hạt, quanh hạt có áo hạt trắng,
ăn ngọt thơm ngon (2,4). Như các loại
quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường
: sucrose, fructose, glucose và có thể cả
maltose (8). Nó thơm nhờ một số lớn
các chất dễ bốc hơi. Phổ sắc ký lỏng tinh dầu
chiết xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ,
trong số ấy hơn 30 chất đã được xác định
(19). Nhiều nhất là (%) hexenol (27,27),
tương đối ít hơn là octan (14,76) đứng trước
hexyl acetat (7,87),
a-copaen
(7,28), aceton (5,65), furfural (4,89), hexanol
(4,38), methyl butenon (4,34), toluen (2,80).
Những chất khác đều dưới 2% nhưng góp phần với
các chất trên cấu thành hương vị của măng cụt.
Ngoài hexyl acetat và hexenyl acetat đặc biệt
của măng cụt, mùi trái cây là do các chất
hexenal, hexanol,
a-bisabolen
mà ra, thêm vào mùi xoài với
a-copaen,
mùi hoa lài với furfuryl methylceton, mùi huệ dạ
hương với phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với
hexenol, hexanal, mùi cỏ héo với pyridin, mùi lá
ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd, mùi
hồ đào với
d-cadinen.
Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp tính chất dịu
ngọt trong lúc toluen,
a-terpinol
đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien
mùi dầu, valencen đặc biệt mùi mứt cam. Đáng để
ý là nếu furfurl methylceton
cống hiến hương thơm dễ chịu thì furfural lại
cho thoáng vào một mùi hôi khó ngửi. Qua ví dụ
một trái măng cụt, ta thấy hương vị thiên nhiên
quả là phức tạp.
Áo hạt măng cụt không thấy được
khảo cứu. Phần lớn các công tác đều hướng về vỏ
quả. Thành phần chính đã được xác định là một
loạt xanthon mà những chất chính là mangostin
(8,9,10),
a-mangostin
(32,33,34),
b-mangostin
(8,9,10),
g-mangostin
(9,32,35), những isomangostin
(26), normangostin (10) bên
cạnh trioxyxanthon (18,27),
pyranoxanthon (28), dihydroxy methyl
butenyl xanthon (34), trihydroxy
methyl butenyl xanthon (32), pyrano
xanthenon (15). Những garcinon A
(17,20), B (17,20,32), C
(17,20) , D (24), E
(32,34), mangostinon (34),
garcimangoson A,B,C (49), gartanin
(10,11,25) ,
egonol (32),
epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc
Việt Nam (33), benzophenon glucosid
(14) tuy số lượng ít cũng đã được tìm
ra. Cũng có một vài bản báo cáo trình bày thành
phần hóa học của lá măng cụt. Bên cạnh protein
(7,8%), tanin (11,2%), đã được xác định những
trihydroxy methoxy methyl butenyl xanthon
(25), ethyl methyl maleimid glucopyranosid
(37), cùng những triterpenoid như
cycloartenol, friedlin,
b-sitosterol,
betulin, mangiferadiol, mangiferolic acid,
cyclolanostendiol (30), hydroxy
cyclolanostenon (31). Từ ruột thân
cây, tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid
của nó cùng pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng
đã được tìm ra (12). Còn tử y thì
chứa đựng mangostin, những calaba xanthon,
dihydroxy và trihydroxy dimethyl allyl xanthon
(26).
Trái măng cụt thơm ngon cũng
còn
cống hiến nhiều môn thuốc.
Từ lâu, ở Á châu,
bên Ấn Độ, hệ thống khoa học đời sống ayurvedic
đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ truyền, đặc
biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng,
làm giản phế quản trong cuộc điều trị hen suyển
(27).
Nó cũng được xem như là những
thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ (15),
kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy
giảm miễn dịch (31). Người Thái dùng
nó để chữa vết thương ngoài da (31).
Người Mã Lai, Phi Luật Tân dùng nước sắc vỏ chữa
lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh vàng da
(2). Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị
chua chát, tính bình, đi vào hai kinh phế và đại
tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi
huyết, dùng trị tiêu chảy, ngộ độc chất ăn, khi
bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón
(3). Cách thức dùng tương đối dễ : bỏ
vỏ quả măng cụt khô (60g) vào nước (1.200 ml),
có thể thêm hạt mùi (5g), hạt thìa lìa (5g), rồi
đun sôi, sắc kỹ cho cạn chừng một nữa, uống mỗi
ngày 2 lần, mỗi lần 120 ml. Nếu là người lớn,
đau bụng, có thể thêm thuốc phiện (2).
Những công tác khảo cứu mới cho biết những tính
chất của vỏ trái : nhờ chất epicatechin, nó
chống oxi hoá (55) ; nhờ những
flavonoid, nó ức chế hoạt động sản xuất acid
của trùng Streptococcus mutans GS-5
(56) . Bên phân garcinon E thì có tính
chất độc hại cho các tế bào gan, phổi, dạ dày
(51) .
Trong số các xanthon, hoạt chất
được khảo cứu sâu rộng nhất là những mangostin.
Chúng có tác dụng mạnh lên các vi khuẩn
Staphylococcus aureus ở nồng độ 7,8µg/ml
(21,23) , lên các nấm Fusarium
oxysporum vasinfectum, Alternaria tenuis,
Dreschlera oryzae (42),
Trichophyton mentagrophytes, Microsporum gypseum
(22,23), Epidermophyton
floccosum ở nồng độ 1µg/ml (22),
Mycobacterium tuberculosis ở nồng độ 6,25
µg/mL (52) . Đem thử trên heo và
chuột, nó có khả năng ức chế hệ thống phân vệ tế
bào bám dính miễn dịch (16).
Đặc biệt
a-mangostin
ức chế Bacillus subtilis ở nồng độ
3,13µg/ml, Staphylococcus aureus NIHJ
209p chịu đựng methicillin ở nồng độ 1,57µg/ml,
tác dụng tăng cường nếu cho thêm vào vannomycin
(36).
g-mangostin
thì chống sự oxi hóa lipid (40), ức
chế sự sản xuất nitrit từ lipopolysaccharid do
các tế bào đại thực gây ra (54) .
Cả
hai
a-
và
g-mangostin
đều có tính chất chống dị ứng ; thuốc viên rất
hiệu nghiệm trên các bệnh nhân bị chứng sổ mũi
mùa (43). Cả hai ức chế sự co của
động mạch chủ trên ngực thỏ đã bị histamin và
serotonin tác động (39). Nói chung,
cả hai đều là những chất đối kháng thiên nhiên
tác dụng của histamin, tức là những tác nhân
điều trị đác lực những bệnh biến dị ứng
(44). Hai chất nấy, chiết xuất từ măng cụt
nguồn gốc Việt Nam, lại có khả năng khử gốc,
kháng oxi hóa (33). Một phần chiết
măng cụt gồm có mangostin và g-mangostin
ức chế HIV-1 protease (IC50=5,12 và 4,81µM)
(35) .
Đứng về mặt ứng dụng, măng cụt
được dùng trong thuốc tẩy, thuốc đánh răng, mỹ
phẩm có tính chất kháng vi sinh vật (53)
.
Một chất xanthon trộn lẫn với gartanin hay
ergonol ức chế
Helicobacter pyloriđã
được dùng để chữa ung thư, loét hay viêm dạ dày.
a-mangostin
có công hiệu trên Helicobacter pylori ở
nồng độ 1,56µg/ml (38).
a-
và
g-mangostin
ức chế glucosyl transferase phát xuất từ trùng
sâu răng Streptococcus sobrinus và
collagenase do vi khuẩn viêm lợi
Porphyromonas gingivalis gây chảy mũi nên
được dùng trong thuốc đánh răng
(50)
, có khả năng
ngừa chặn sâu răng và mảng răng (47).
Mangosten được trộn với nhiều hóa chất khác như
cetyl alcool, cetyl phosphat, dimethicon,
eicosen, disodium, magnesium stearat, dipropylen
glycol, triethanolamin,… để làm một loại thuốc
bảo vệ chống ánh nắng mặt trời (45).
Nhờ tính chất ức chế hoạt động
phosphodiesterase, ở nồng độ 50µg/ml trong một
dung dịch 5% dimethyl sulfoxyd, nó được dùng để
làm thuốc kích thích tiêu mỡ (48).
Sau cùng, cũng nên biết để trái măng cụt tránh
bị rám nâu khi tích trữ trong tủ lạnh, nó cần
phải được lắc lay một phút trong một dung dịch
0,25% calcim chlorid + 0,5% citric acid
(29).
Một cô gái Huế sống tha hương
bên chân trời Đức băng giá, không có cây măng
cụt trong vườn và chắc cũng không có nhiều quả
măng cụt trong tủ lạnh, một lần về thăm thành
phố quê nhà đã đặc biệt rung cảm thưởng thức
trái cây với tị triết lý : “Hãy lắng nghe tiếng
động của quả Giáng Châu đang rơi trong vườn, để
đừng hất hủi không về với Huế nghèo nàn trong
buổi cuối đông. Giáng châu trên cành dù cho chín
tới vẫn chưa phải là giáng châu, phải đợi một
thời điểm nống ấm vừa tầm – như tiếng nhắc nhở
của nắng sớm qua hương hoa mộc – giáng châu rơi
xuống, chạm đất - phải “rơi và chạm” như một
nghi lễ hành thâm, như sự cúi xuống của giọt
nắng đầu tiên – đó là bí mật vị ngọt thanh khiết
vô song của những múi giáng châu trinh nguyên,
hái trên cành không chạm đất giáng châu vẫn còn
giữ một vị chua chưa đủ xứng danh là viên ngọc
của trời riêng tặng cho đất… Nếu chín trong lòng
nắng không ấm không nồng làm sao giáng châu trở
thành một giáng tiên trong mùa đông ở Huế ?”
(7) . Trong giấc mơ nơi đất khách
nghe tiếng giáng châu “rơi và chạm” vào đất,
giật mình thức giấc, thế nào cô gái kia không
nhớ được về vườn nhà sai quả êm dịu trong ánh
nắng mùa thu !
Xô thành, mùa giáng châu vườn
Huế
Trích Nghiên cứu và Phát
triển số 4(38) 2002
(có bổ túc tài
liệu cho Vietsciences)
Tài liệu
Đại cương
1- Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ
miền nam Việt Nam, Bộ Giáo Dục, Trung tâm
Học liệu, Sài Gòn (1970) 267
2- Đỗ Tất Lợi, Những cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 442
3- Bùi Kim Tùng, Món ăn
bài thuốc II, Sở Khoa học Công nghệ Môi
trường tỉnh Bà Rịa–VũngTàu (1996) 40
4- Lê Trần Đức, Cây thuốc
Việt Nam, nxb Nông nghiệp, Hà Nôi
(1997) 718
5- Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoa trái quanh tôi trong Huế, Di
tích và con người, nxb Thuận Hóa, Huế
(1995)
7-Thái Kim Lan, Nắng Phú
Xuân, Diễn Đàn forum, Paris (2)
(2002) 43
Khảo cứu
8- G.S. Siddappa, B.S.
Bhatia, The identification of sugars in
fruits by paper chromatography, Indian J.
Hort. 11 (1954) 19-23
9- A. Jefferson, A.J. Quillinan,
F. Scheinmann, K.Y. Sim, Isolation of
g-mangostin
from Garcinia mangostana, and preparation of the
natural mangostins by selective demethylation,
Aust. J.Chem. 23(12) (1970)
2539-53
10- T.R. Govindachari, P.S.
Kalyanaraman, N. Muthukumaraswamy, B.R. Pai,
Isolation of three new xanthones from Garcinia
mangostana, Indian J.Chem. 9(5)
(1971) 505-6
11- T.R. Govindachari, P.S.
Kalyanaraman, N. Muthukumaraswamy, B.R. Pai,
Xanthones of Garcinia mangostana,
Tetrahedron 27(16) (1971) 3919-26
12- D.M. Holloway, F.
Scheinmann, Phenolic compounds from the
heartwood of Garcinia mangostana,
Phytochemistry 14(11) (1975) 2517-8
13- C.S. James, C.T. Thomas,
N. Kunjikutty, A note of the chemical
composition and tannic acid content of the
locally available tree leaves, Kerala J.
Vet. Sci. 8(2) (1977) 247-9
14- C.T. Du, F.J. Francis,
Anthocyanins of mangosteen, Garcinia
mangostana, J. Food. Sci. 42(6)
(1977) 1667-8
15- A.K..Sen, K.K. Sarkar,
P.C. Mazumder, N. Banerji, R. Uusvuori, T.A.
Hase, A xanthone from Garcinia mangostana,
Phytochemistry 19(10) (1980)
2223-5
16- C. Gopalakrishnan, D.
Shankaranarayanan, L. Kameswaran, S.K.
Nazimudeen, Effect of mangostin, a xanthone
from Garcinia mangostana Linn, in
immunopathological and inflammatory reactions,
Indian. J. Exp. Biol. 18(8) (1980)
843-6
17- A.K.. Sen, K.K. Sarkar,
P.C. Mazumder, N. Banerji, Isolation of tree
new minor xanthones from Garcinia mangostana
Linn., Indian J. Chem., Sect. B
19B (11) (1980) 1008
18- A.K.. Sen, K.K. Sarkar,
P.C. Mazumder, N. Banerji, Minor xanthones of
Garcinia mangostana, Phytochemistry
20(1) (1981) 183-5
20- A.K..Sen, K.K. Sarkar,
P.C. Mazumder, N. Banerji, R. Uusvuori, T.A.
Hase, The structure of garcinones A, B, and C
: three new xanthones from Garcinia mangostana,
Phytochemistry 21(7) (1982)
1747-50
21- W. Mahabusarakam, S.
Phongpaichit, C. Jansakul, P. Wiriyachitra,
Screening of antibacterial activity of chemicals
from Garcinia mangostana, Warasan
Songkhla Nakkharin 5(4) (1983)
337-9
22- W. Mahabusarakam, S.
Phongpaichit, P. Wiriyachitra, Screening of
antifungal activity of chemicals from Garcinia
mangostana, Warasan Songkhla Nakkharin
5(4) (1983) 341-2
23- W. Mahabusarakam, P.
Wiriyachitra, S. Phongpaichit, Antimicrobial
activities of chemical constituents from
Garcinia mangostana Linn., J. Sci. Soc.
Thailand, 12(4) (1986) 239-43
24- A.K..Sen, K.K. Sarkar,
P.C. Mazumder, N. Banerji, Garcinone D, a new
xanthone from Garcinia mangostana Linn.,
Indian J. Chem., Sect. B 25B
(11) (1986) 1157-8
25- M. Parveen, N. Ud-Din
Khan, A new isoprenylated xanthone from
Garcinia mangostana Linn., Chem. Ind.
(London) (12) (1987) 418
26- W. Mahabusarakam, P.
Wiriyachitra, W.C. Taylor, Chemical
constituents of Garcinia mangostana, J.
Nat. Prod. 50(3) (1987) 474-8
27- K. Balasubramanian, K.
Rajagopalan, Novel xanthones from Garcinia
mangostana, structures of BR-xanthone-A and
BR-xanthone-B, Phytochemistry 27(5)
(1988) 1552-4
28- M. Parveen, N. Ud-Din
Khan, Two xanthones from Garcinia mangostana,
Phytochemistry 27(11) (1988)
3694-6
29- P. Sophanodora, C.
Sripongpunkul, Prevention of browning in
frozen mangosteen, Warasan Songkhla
Nakkharin 12(3) (1990) 289-94
30- M. Parveen, N. Ud-Din
Khan, B. Achari, P.K. Dutta, Tritexpenoids
from Garcinia mangostana, Fitoterapia
61(1) (1990) 86-7
31- M. Parveen, N. Ud-Din
Khan, B. Achari, P.K. Dutta, A triterpene
from Garcinia mangostana, Phytochemistry
30(1) (1991) 361-2
32- S. Sakai, M. Katsura, H.
Takayama, N. Aimi, N. Chokethaworn, M. Suttajit,
The structure of garcinone E, Chem.
Pharm. Bull. 41(5) (1993) 958-60
33- M. Yoshikawa, E. Harada,
A. Miki, K. Tsukamoto, Antioxidant
constituents from the fruit hulls of mangosteen
(Garcinia mangostana) originating in Vietnam,
Yakugaku Zasshi 114(2) (1994)
129-33
34- F. Asai, H. Tosa, T.
Tanaka, M. Iinuma, A xanthone from pericarps
of Garcinia mangostana, Phytochemistry
39(4) (1995) 943-4
35- S.X. Chen, M. Wan, B.N.
Loh, Active constituents against HIV-1
protease from Garcinia mangostana, Planta
Med. 62(4) (1996) 381-2
36- M. Iinuma, H. Tosa, T.
Tanaka, F. Asai, Y. Kobayashi, R. Shimano, K.I.
Miyauchi, Antibacterial activity of xanthones
from guttiferaeous plants against
methicillin-resistant Staphylococcus aureus,
J. Pharm. Pharmacol. 48(8) (1996,
861-5
37- D. Krajewski, G. Toth, P.
Schreier, 2-Ethyl-3-methylmaleimide N-β
-D-glucopyranoside from the leaves of mangosteen
(Garcinia mangostana), Phytochemistry
43(1) (1996) 141-3
38- H. Hasegawa, S. Sakai, N.
Aimi, H. Takayama, T. Koyano, Helicibacter
pylori inhibitors containing xanthones from
Garcinia mangostana, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 08231396 A2 19960910 Heisei (1996)
5tr.
39- N. Chairungsrilerd, K.I.
Furukawa, T. Ohta, S.Nozoe, Y. Ohizumi,
Histaminergic and serotonergic receptor blocking
substances from the medical plant Garcinia
mangostana, Planta Med. 62(5)
(1996) 471-2
40- M. Yoshikawa, T. Yoshizumi,
Natural antioxidant
g-mangostin
isolation from mangosteen,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08225783
(1996) 6tr.
41- M. Iinuma, M. Yamada,
Antibacterial agents containing xanthones for
Gram-negative bacteria, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 09110688 A2 19970428 Heisei (1997)
5tr.
42- G. Gopalakrishnan, B.
Banumathi, G. Suresh, Evaluation of the
antifungal activity of natural xanthones from
Garcinia mangostana and their synthetic
derivatives, J. Nat. Prod. 60(5)
(1997) 519-24
43- K. Oizumi, K. Furukawa, ,
N. Chiranshilart, T. Ota, S. Nozoe,
Antiallergic agents containing extracts of
Garcinia mangostana pericap or magostin, and
antiallergic foods containing them, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 10072357 A2 19980317
Heisei (1998) 6tr.
44- Y. Ohizumi, Search for
receptor blocking substances from natural
resources and their pharmacological studies,
Int. Congr. Ser. (1998) 1157 (Towards
Natural Medecine Rexsearch in the 21st
Century) 103-112
45- J. Gedouin, R. Vallee,
Sunscreen composition containing mangostin,
Fr. Demande FR 2754447 A1 19980417
(1998) 12tr.
46- S. Wahyuono, P. Astuti, W.T.
Artama, Characterization of bioactive
substance,
a-mangosten,
isolated from the hull of Garcinia mangostana L.,
Maj. Farm. Indones 10(3) (1999)
127-34
47- K. Oshima, T. Mitsunaga,
Glucosyl transferase inhibitors from plant
extracts for dentifrice, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 11343247 A2 19991214 (1999)
9tr.
48- J. Gedouin, R. Vallee,
Use of cosmetic compositions containing a
substance with a pyrone group, Fr.
Demande FR 2 7774 905 (1999) 18tr.
49- Y.L. Huang, C.C. Chen,
Y.J. Chen, R.L. Huang, B.J. Shieh, Three
xanthones and a benzophenone from Garcinia
mangostana, J. Nat. Prod. 64(7)
(2001) 903-6
50- K. Miyazaki, K. Osawa,
Food and dentifrice containing anticaries and
anti-pyorrhea agents, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2001247469 A2 2660911 (2001) 8tr.
51- C.K. Ho, Y.L. Huang, C.C.
Chen, Garcinone E,
a xanthone derivative, has potent cytotoxic
effect against hepatocellular carcinoma cell
lines, Planta
Medica 68(11)
(2002) 975-9
52 - S. Suksamrarn et all.,
Antimycobacterial
activity of prenylated xanthones from the fruits
of Garcinia mangostana,
Chem. Pharm. Bull.(Bangkok)
51(7)
(2003) 857-9
53-Y. Kato, S. Hosoda,
Mangosteen extracts, their
preparation, and antimicrobial deodorant agents
containing them,
Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2003231607 A2 20030819 (2003) 9tr
54- C.C. Wang, L.G. Chan,
I.H. Lin, L.L. Yang,
Inducible nitric oxide
synthase inhibitors of Chinese herbs IV :
Garcinia mangostana,
Abstracts of Papers, 228th ACS
National Meeting, Philadelphia, PA, USA,
August 22-26 (2004)
55- J. Feng, T. Yamakuni, E.
Katoh, S. Hosoda, Y. Ohizumi,
Potent oxidative activity of
unripe fruits of Garcinia mangostana L.,
Nat. med. (Tokyo)
58(4)
(2004) 156-9
56- Nguyen Thi Mai Huong,
Phan Tuan Nghia, Nguyen Thi Ngoc Dao, Do Ngoc
Lien, Polyphenolic component of fruit skin of
Garcinia mangostana L. and inhibitory effect on
acid production by Streptococcus mutans GS-5,
Tap Chi Duoc Hoc 44(6) (2004)
18-21