Nhuận là do chủ quan của người làm lịch đặt ra nhằm cho thời gian
phù hợp với quy luật thiên nhiên. Dương lịch và âm lịch đều có
nhuận.
Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển của lịch sử loài người là
quá trình tìm kiếm để chọn lọc những đơn vị thời gian đó thành những
hệ đếm để phục vụ cho hoạt động xã hội. Lịch (âm lịch và dương lịch)
là những bảng ghi thứ tự thời gian, chia chuỗi thời gian liên tục
thành những đơn vị thời gian và sắp xếp chúng thành một hệ đếm phù
hợp với nhu cầu của con người.
Ta biết rằng trong Thế giới trời sao có 3 đơn vị thời gian thiên
nhiên quan trọng, nó gắn liền với thế giới trần gian - một thế giới
của muôn loài động vật rất phong phú và đa dạng. Ba đơn vị thời gian
đó là:
- Năm Mặt trời biểu thị chu kỳ thời tiết, tức là chu kỳ quay của
Trái đất xung quanh Mặt trời có độ dài bằng 365,242198... ngày (gần
365,25 ngày).
- Tháng Mặt trăng biểu thị chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái
đất có độ dài bằng 29,5... ngày.
- Ngày là thời gian ánh sáng Mặt trời trở lại do nguyên nhân Trái
đất tự quay quanh mình vừa tròn một vòng.
Ba đơn vị thời gian này là bộ máy chỉ thời gian trong thái dương hệ
của chúng ta không phải do con người tự đặt ra. Các nhà thiên văn
khí tượng đã nhận thấy 3 đơn vị thời gian thiên nhiên này không
thông ước với nhau, nghĩa là không tìm được một số nào chia hết cho
cả 3 đơn vị. Vì vậy, nếu lấy ngày làm đơn vị thì tháng Mặt trăng và
năm Mặt trời không phải là số ngày nguyên, mà có vô số số lẻ.
Người làm lịch thì phải tính năm, tháng có bao nhiêu ngày. Bởi vậy
những phần lẻ trên đây đã làm cho bài toán tính lịch trở thành hắc
búa. Nếu bỏ phần lẻ đi thì tháng không đúng với tuần trăng, năm
không đúng với mùa khí hậu; mà lịch thì phải lấy tròn. Do đó trong
âm lịch phải có tháng thiếu (29 ngày), tháng đủ (30 ngày); trong
dương lịch có tháng 30 ngày, tháng 31 ngày; riêng tháng hai là 28
ngày hoặc 29 ngày. Năm, phải có năm thường, năm nhuận (dài hơn).
Ðây không phải là một quy luật thiên nhiên, mà là một quy luật chủ
quan dùng thuật lấy thừa bù thiếu của người xếp lịch. Bởi vậy dương
lịch và âm lịch đều có nhuận.
a. Nhuận của dương lịch
là để khắc phục phần lẻ của năm Mặt trời (0,242198... ngày) do chưa
đưa vào để xếp lịch. Vì vậy cứ 4 năm dư ra 1 ngày, một thế kỷ dư ra
gần một tháng... Ðể tránh sai sót này, người làm lịch đã quy ước
trung bình 4 năm thêm 1 ngày vào tháng 2, tức là năm đó có 366 ngày
(năm Nhuận) và tháng hai có 29 ngày.
a. Nhuận âm lịch
là để khắc phục sự sai khác tháng Mặt trăng (tháng âm lịch) với quy
luật thời tiết - chu kỳ thời tiết (năm dương lịch). Bởi vì, tháng âm
lịch chỉ có 29-30 ngày, nên dẫn đến năm âm lịch chỉ có 354-355 ngày,
ngắn hơn năm dương lịch trung bình 11 ngày; hay nói cách khác là năm
âm lịch đi nhanh hơn năm dương lịch là 11 ngày, 3 năm nhanh hơn 1
tháng, 9 năm nhanh hơn một mùa. Vì vậy, ngày đầu năm vào mùa Xuân
thì 9 năm sau vào Hạ... Chính vì thế người đời xưa phải ăn Tết
Nguyên Ðán vào đủ các loại hình thời tiết, không còn mang tính cổ
truyền khí tiết của ngày tết đượm sắc Xuân mới.
Ðể khắc phục tình trạng trên, người làm lịch đã phải tăng số ngày
cho năm âm lịch bằng hình thức nhuận với quy ước là Thập cửu niên
thất nhuận nghĩa là cứ 19 năm có 7 năm nhuận, năm nhuận âm lịch có
13 tháng.
c. Năm nhuận theo lịch pháp
Ðể đảm bảo đúng vào tiết xuân ngày Mồng Một Tết chỉ ở trong khoảng
từ tiết Lập Xuân đến tiết Vũ Thủy, tức là từ ngày 21.01 đến 20.02
dương lịch. Nếu năm âm lịch nào (khi chưa tính thêm tháng nhuận) có
ngày Mồng Một Tết năm sau sớm hơn này 21.01 dương lịch thì năm đó
phải là năm nhuận.
- Theo quy ước trên, qua năm 2001, ngày Mồng Một Tết Tân Tỵ nhằm vào
ngày 24.01 dương lịch (hợp với quy ước). Do vậy, năm 2001 - Tân Tỵ
là năm không có nhuận âm lịch (13 tháng).
Ðể dễ nhớ, muốn biết năm nào là năm nhuận âm lịch, cứ lấy năm dương
lịch tương ứng chia cho 19, nếu số dư là một trong 7 con số: 0, 3,
6, 8, 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó là năm nhuận.
d. Tháng nhuận theo lịch pháp
- Tháng âm lịch nào trong năm nhuận không có ngày Trung khí thì
tháng ấy gọi là tháng nhuận, nghĩa là tháng gọi tên của tháng trước
kề liền.
- Nếu 1 hay 2 năm liền kề nhau có 2 tháng đều thiếu ngày Trung khí
thì tháng trước là tháng nhuận, tháng sau không phải là tháng nhuận
nữa.
2. Tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay dương lịch?
Hiện nay ở nước ta và một số nước khác trong khu vực Ðông Nam Á đang
còn xuất bản và sử dụng hai loại lịch, đó là dương lịch và âm lịch.
+ Dương lịch là loại lịch theo Mặt trời, dùng đơn vị thời gian thiên
nhiên là năm Mặt trời, tức là độ dài chu kỳ quay của Trái đất xung
quanh Mặt trời.
+ Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng, dùng đơn vị thời gian thiên
nhiên là tháng Mặt trăng, tức là độ dài chu kỳ quay của Mặt trăng
xung quanh Trái đất.
Theo Hán - Việt thì Mặt trời là Thái Dương, Mặt trăng là Thái Âm. Do
vậy, lịch theo Mặt trời gọi là dương lịch, lịch theo Mặt trăng gọi
là âm lịch.
Vì tồn tại hai loại lịch như vậy và cứ mỗi lần đón mừng xuân mới của
năm âm lịch lại là một dịp bàn tán xôn xao về tên của năm ấy.
Người ta cho rằng nếu năm nào có nhuận thì năm đó sẽ là một năm mất
mùa, thiên tai lắm, địch họa khôn lường... Vậy sự thực tên năm âm
lịch, nhuận có phải do thượng đế, thần thánh sinh linh gì tạo ra như
một số học thuyết của chủ nghĩa duy tâm đã truyền bá trong nhân dân
ta? Trong khuôn khổ của bài viết này, chỉ đề cập đến việc đặt tên
năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay theo dương lịch để cùng
tham khảo.
Từ thời xa xưa, con người vẫn tin rằng có một mối liên hệ huyền bí
nào đó giữa vũ trụ và sự sống. Vì vậy, người thượng cổ đã xây dựng
lên cả một kho tàng thần thoại lý thú về bầu trời sao ngoạn mục thể
hiện trong các chuyện cổ Hy Lạp. Tất nhiên trong những chuyện hoang
đường như vậy đã không thoát khỏi tư tưởng huyền bí mà vai trò
thiêng liêng của thượng đế đã ngự trị trong các tôn giáo suốt thời
gian dài.
Từ thế kỷ XVI, khoa học thiên văn phát triển đã đánh dấu bước ngoặt
lịch sử của con người trong nhận thức thế giới trời sao. Trong những
thế kỷ gần đây, người ta biết rằng Mặt trời là nguyên nhân tồn tại
của sự sống và phát triển của loài người. Nhờ sự hiểu biết về thuyết
chuyển động tương đối trong vật lý cơ học, con người mới khẳng định
rằng Trái đất cùng với các hành tinh khác quay xung quanh Mặt trời
tạo thành hệ Mặt trời và gọi chuyển động ấy là chuyển động biểu kiến
của Mặt trời xung quanh Trái đất hay còn gọi là đường Hoàng Ðạo.
Người phương Ðông chia đường Hoàng Ðạo ra làm 12 cung kể từ điểm
Xuân Phân, qua Hạ Chí, đến Thu Phân và đến Ðông Chí để biểu thị các
mùa khí hậu nóng, lạnh khác nhau như: xuân, hạ, thu, đông.
Người phương Tây đặt tên ấy theo tên của các chòm sao như Ðại Hùng,
Tiểu Vương, Thiên Vương, Tiên Nữ, Phi Mã...
Các nhà cổ đại Trung Quốc lại đặt 12 cung trên theo chi, tượng trưng
cho Trời là: Tý, Sửu, Dần, ...Tuất, Hợi. Họ kết hợp với 10 can,
tượng trưng cho Ðất là: Giáp, Ất, Bính... Nhâm, Quý để đặt tên năm
âm lịch theo nguyên tắc Can chi ký pháp, tức là ghép can với chi
theo một trật tự thứ tự được thể hiện rõ trong thuật số tử vi.
Thực ra tên năm âm lịch hàng năm chỉ là một quy ước của lịch pháp âm
lịch mà nền văn minh cổ đại Trung Quốc đã dùng trong việc sắp xếp
lịch trong các kỷ nguyên và được truyền sang nước ta trở thành lịch
cổ truyền. Cho đến nay vẫn còn nhiều người cho rằng tên năm âm lịch
có ảnh hưởng quyết định đến tương lai cuộc sống của mỗi con người,
có năm ảnh hưởng đến chu kỳ thời tiết trong năm như: Năm Thìn nhiều
bão, năm Mão mất mùa, năm Tý, năm Dần nhiều thiên tai, địch họa....
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay còn một số vùng quen dùng âm lịch để
tính toán chỉ đạo sản xuất nông nghiệp dẫn đến nhiều trường hợp bỏ
lỡ thời vụ, đặc biệt vào những năm âm lịch có nhuận. Chính vì vậy,
kể từ năm 1968, Chính phủ đã quyết định Nông lịch theo dương lịch và
nước ta bắt đầu sử dụng loại âm lịch mới được tính toán theo múi giờ
số 7 (Kinh độ 105 độ Ðông) đi qua Thủ đô Hà nội để thay thế cho loại
âm lịch cũ được tính toán theo múi giờ số 8 (Kinh độ 120 độ Ðông) đi
qua Thủ đô Bắc Kinh - Trung Quốc.
Dương lịch ứng dụng trong nông nghiệp dựa vào 24 ngày Tiết (12 Tiết
khí và Trung khí), mỗi Tiết khoảng 15-16 ngày, biểu thị thời vụ,
thời tiết sát với từng vùng lãnh thổ của nước ta.
|