|
1/ Định nghĩa thông minh.
Trong cuộc sống hàng ngày, có vài người
hiểu rất dễ dàng các máy móc vận chuyển ra
sao. Một số người khác có thể giải các
bài toán đố một cách nhanh chóng. Lại có người
học ngoại ngữ dễ dàng, mau nhớ các từ
mới. Các khả năng kể trên được coi
là các yếu tố của trí thông minh. Tuy nhiên,
nếu một người có vài khả năng đặc
biệt nào thì lại kém về các khả năng khác.
Một người có tài nhớ tên và nhớ ngày tháng
nhưng lại không thể tính nhẩm, nhân chia
nhiều con số. Một số nhạc sĩ hay
nghệ sĩ rất có tài về âm nhạc hay nghệ
thuật nhưng lại yếu kém về các khả năng
liên quan tới loại trí tuệ khác, trong khi một
số người với trí thông minh trên trung bình
gặp khó khăn khi phải giải quyết các
vấn đề mới lạ.
Các nhà tâm lý học cho rằng óc sáng tạo (creativity)
và trí thông minh (intelligence) có liên hệ với nhau và thường
khi, trí thông minh được coi là sự phối
hợp của các đặc tính dẫn tới sự
thành công ở trường học.
Vào đầu thế kỷ 20, các nhà thẩm quyền
về giáo dục tại thành phố Paris đã yêu
cầu nhà tâm lý học Alfred Binet nghĩ ra một cách
chọn lựa các trẻ em nào không thể theo học
như bình thường. Ông Binet sau đó đã làm phát
triển một phương pháp cho phép đo lường
trí thông minh của các em học sinh rồi xếp
loại chúng thành 3 hạng: chậm hiểu (dull), trung bình
và sáng trí (bright). Ông Binet cho rằng khả năng
của một em học sinh có thể giải đáp các
bài toán chính là dấu hiệu cho biết về trí thông
minh và ông đã tìm ra các bài toán phức tạp đặc
biệt liên quan tới cách suy nghĩ trưù tượng
(abstract thinking) để phân loại các trẻ em.
Khả năng giải đáp các bài toán đã gia tăng
theo tuổi trưởng thành và vì lý do này, ông Binet
đã làm ra một thứ thước đo trí thông
minh. Ông đã chọn các bài toán nào mà phần lớn
các trẻ em ở một lứa tuổi có thể tìm
ra được đáp số trong khi đó các em
trẻ tuổi hơn lại không làm được.
Năm 1905, Alfred Binet và Théodore Simon đã phổ
biến một thang đo trí thông minh cho các em tuổi
từ 3 tới 13. Tại Hoa Kỳ, các bài trắc
nghiệmä của ông Binet đã được Henry H.
Goddard dùng tại trường huấn luyện ở
Vineland, N.J., từ năm 1908 tới 1911, rồi kể
từ đó, nhiều phiên bản trắc nghiệm
của Binet được sửa chữa, làm thích nghi
và dùng tại Hoa Kỳ cũng như tại các
quốc gia khác.
2/ Thương số thông minh I.Q.
Các điểm số được tính trong thang điểm
Binet và trong các bài trắc nghiệm tương tự
đều dùng tới tuổi trí tuệ (MA= mental age).
Em Nam có tuổi trí tuệ là 8 khi em có thể giải
đáp các bài toán mà phần lớn các em 8 tuổi khác
đều làm được. Điều này có nghĩa
đối với thầy cô giáo và cha mẹ em, là em
Nam có thể học hành theo kịp với các em khác 8
tuổi, mặc dù em Nam có thể là 7 tuổi hay 9
tuổi thực.
Năm 1914, nhà tâm lý học người Đức
William Stern cho biết rằng do so sánh tuổi trí
tuệ (MA) với tuổi thực, người ta
biết được sự phát triển của
trẻ em. Một em nhỏ 7 tuổi thực, nhưng có
tuổi trí tuệ là 9, sẽ học hành nhanh hơn các
em học sinh trung bình khác và một em 7 tuổi thực
mà tuổi trí tuệ là 5, sẽ học hỏi chậm
hơn. Ông Stern cho rằng dùng tuổi trí tuệ (MA)
chia cho tuổi thực là cách để đo lường
tốc độ học hành và để tránh các
số lẻ, kết quả được nhân với
100, và ông William Stern đã gọi đó là “thương
số tuổi trí tuệ” (mental age quotient).
Năm 1916, nhà tâm lý học người Mỹ thuộc
trường Đại Học Stanford là ông Lewis Terman
(1877-1956) đã sửa đổi các bài trắc
nghiệmï của Alfred Binet thành bài trắc nghiệm
Stanford-Binet và đưa ra ý niệm về “thương
số thông minh“ (I.Q. = Intelligence Quotient).
Để đo lường thương số thông minh
của em Nam 7 tuổi, có tuổi trí tuệ là 9, cách tính
được làm như sau:
(9 năm 0 tháng x 100) (7 năm 0 tháng) = (108 tháng x
100) (84 tháng) = 128.58 129.
Như vậy, thương số thông minh của em Nam là
129. Nếu một em khác tên Việt, lên 12 tuổi nhưng
có tuổi trí tuệ là 9 thì thương số thông
minh I.Q. của em Việt theo cách tính trên là 75.
Để xác định tuổi trí tuệ (MA), các nhà
giáo dục và tâm lý học đã dùng tới các bài
trắc nghiệm để đo lường khả năng
trí tuệ của các em học sinh. Các câu hỏi
được xếp đặt từ dễ đến
khó và liên quan tới trí nhớ (memory), cách lý luận
(reasoning), các định nghĩa (definitions), khả năng
tính các con số (numerical ability) và khả năng
nhớ lại các dữ kiện (recalling facts). Như
vậy, trong các bài trắc nghiệm, một em nhỏ
được yêu cầu định nghĩa vài từ
(words), cho biết liên lạc giữa các từ này
với các ý tưởng, giải vài bài toán đơn
giản và nhớ lại một số dữ kiện.
Khi em Nam có thể làm xong các bài trắc nghiệm
của lứa 7 tuổi nhưng không thể làm nổi
các bài của lứa 8 tuổi, sẽ được
coi có tuổi trí tuệ là 7.
Theo cách tính về thương số thông minh kể trên,
điểm trung bình là 100 và cách xếp hạng
được căn cứ theo bảng liệt kê dưới
đây:
Bảng xếp hạng về trí thông minh:
Điểm trắc nghiệm: Xếp hạng
từ 132 trở lên cực kỳ thông minh
121 - 131 rất thông minh
111 - 120 khá thông minh
89 - 110 thông minh trung bình
79 - 88 kém thông minh
68 - 78 học chậm (slow learner)
67 hay dưới trì độn (mentally retarded)
Một em học sinh có thương số thông minh cao hơn
100, sẽ trưởng thành về trí tuệ nhanh hơn
trung bình, còn em học sinh có thương số thông
minh là 75 sẽ trưởng thành với tốc độ
bằng ba phần tư nhịp độ trung bình. Như
vậy, thương số thông minh là một phương
tiện để xếp nhóm các học sinh có các
khả năng tương tự như nhau, và nhiều
nhà thẩm quyền giáo dục đã dùng thương
số thông minh để cho phép một số học
sinh theo đuổi các khóa học hay các chương trình
đặc biệt.
Khi viết ra các bài trắc nghiệm trí thông minh, các
nhà tâm lý học đã cố gắng dùng các câu
hỏi để mọi người đều
được xét đoán công bằng nhưng diều
này không thể thực hiện được một cách
hoàn toàn bởi vì cách trắc nghiệm thông minh cũng
đo lường một phần nào kinh nghiệm.
Một em học sinh đọc nhiều sách và đi du
lịch nhiều sẽ có điểm cao hơn một
em học sinh khác thiếu các kinh nghiệm này, và khi bài
thi được viết bằng tiếng Anh sẽ
khiến cho em học sinh nói tiếng Anh là tiếng
mẹ đẻ dễ đạt điểm cao hơn
em học sinh nói tiếng Việt rồi về sau
mới chuyển sang học tiếng Anh. Các bài trắc
nghiệm trí thông minh được viết ra tại
Hoa Kỳ có chủ đích dùng cho các học sinh da
trắng thuộc giới trung lưu, vì vậy các bài
đó bị coi là không công bằng và không có giá
trị với các trẻ em gốc thiểu số và có
quá trình văn hóa khác. Các học sinh sống trong các
khu nhà ổ chuột, thiếu dinh dưỡng vào
tuổi niên thiếu cũng sẽ có các thương
số thông minh thấp, vì các khả năng tự nhiên
của các trẻ em loại này đã không được
phát triển trong quá khứ, đồng thời các tài
năng trí tuệ cũng bị kìm hãm tại các
trẻ em bị kỳ thị vì chủng tộc, vì
bị hành hạ hay có các dị tật cơ thể.
Như vậy, thương số thông minh tùy thuộc vào
di truyền và môi trường sống. Điểm
số của các bài trắc nghiệm thông minh của các
em học sinh còn tùy thuộc vào tình trạng sức
khỏe khi dự thi. Một em hoc sinh được
nghỉ ngơi đầy đủ, cảm thấy
mạnh khỏe và tự tin sẽ có điểm số
cao hơn một em học sinh khác mới bị bệnh
hay mệt mỏi.
Trong việc soạn ra các bài thi trắc nghiệm thông
minh, các nhà tâm lý đã cố gắng đạt
sự công bằng về văn hóa bằng cách dùng các
hình ảnh hay biểu đồ mà mọi học sinh
thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau đều có
thể hiểu rõ, nhưng bài thi trắc nghiệm còn
thiếu phần đo lường kỹ năng cơ
khí và không nhấn mạnh vào tính độc đáo
(originality) của trí tuệ.
Sự tăng trưởng trí tuệ của trẻ em
giảm dần vào tuổi 13 rồi tới 15 hay 16
tuổi, các thiếu niên chuyển sang thu lượm
kiến thức, cải tiên các kỹ năng, trưởng
thành về cách xét đoán (judgment) và sự khôn ngoan.
Như vậy, khả năng học hỏi căn
bản đã không gia tăng và cách đo lường tâm
lý của ông Binet không thể áp dụng với các em
học sinh lớn tuổi hơn, hay với người
trưởng thành. Một vị cao niên xuất sắc
thuộc tuổi 60, nếu có tuổi trí tuệ chia cho
60, sẽ bị xếp hạng trì độn, vì
vậy ông William Terman đã dùng tuổi trí tuệ chia
cho 15 để tính ra thương số thông minh I.Q.
của mọi người từ 16 tuổi trở lên.
Các bài thi trắc nghiệm trí thông minh đã được
nhiều nhà tâm lý tìm cách sửa chữa và cải
tiến, chẳng hạn như các bài trắc nghiệm
của Terman và Maude Merrill năm 1937 và 1959.
Năm 1949, nhà tâm lý học David Wechsler cho phổ
biến “thước đo thông minh Wechsler” (the Wechsler
Intelligence Scale) dùng cho các thiếu niên từ 5 tới 15
tuổi, rồi thước đo trí thông minh dùng cho người
trưởng thành (the Wechsler Adult Intelligence Scale) trình bày
năm 1955 dùng để trắc nghiệm mọi người
từ 16 tới 64 tuổi, với phần tiêu chuẩn
đặc biệt dùng cho các vị cao niên từ 60
tới 75 tuổi. Ngày nay tại Hoa Kỳ, các bài thi
trắc nghiệm thông minh thường thuộc về
loại Stanford-Binet hay loại Wechsler.
Vào lúc đầu, việc trắc nghiệm thông minh thường
được hỏi miệng với từng cá nhân
trong khoảng thời gian từ 30 tới 90 phút. Khi Hoa
Kỳ tham gia Thế Chiến Thứ Nhất, giới
chức Lục Quân đã yêu cầu các nhà tâm lý
lập ra các bài trắc nghiệm dùng cho các nhóm đông
người và từ đó có 2 thang điểm đo lường:
thang Alpha dùng cho lính tân tuyển có khả năng đọc
và viết tiếng Anh, còn thang Beta gồm các hình
ảnh và biểu đồ, dùng cho loại lính mù
chữ hay các người nước ngoài. Mức độ
thông minh trong loại trắc nghiệm này được
xếp hạng từ A xuống D.
Sự thành công của loại trắc nghiệm nhóm
đông người kể trên đã khiến cho các nhà
tâm lý học lại nghĩ ra các bài khảo sát nhóm
về trí thông minh, dùng cho các trường học,
kỹ nghệ và cơ quan chính phủ. Ngoài ra còn có các
bộ bài trắc nghiệm dùng cho trẻ ấu thơ
và trẻ mẫu giáo.
3/ Lý thuyết về trí thông minh.
Các nhà tâm lý học thường không đồng ý
với nhau về bản chất của trí thông minh
của con người. Trí thông minh đã được
định nghĩa khác nhau. Binet và Simon tin rằng
yếu tố quan trọng nhất của một người
là khả năng suy xét chính xác (sound judgment). Nhà tâm lý
học người Mỹ Lewis Terman lại nhấn
mạnh vào khả năng suy nghĩ một cách trừu
tượng trong khi đó nhà tâm lý học người
Mỹ khác là Edward L. Thorndike đặt nặng vào viêc
học hỏi và trả lời thích đáng. Thorndike
đã chia trí thông minh ra làm 3 loại: trừu tượng,
cơ khí (mechanical) và xã hội (social). Các nhà tâm lý khác
lại cho rằng trí thông minh dùng để hiểu mau
và thích nghi (adaptation) với các môi trường.
Việc thích nghi này đòi hỏi tới sự tự
thay đổi để đối phó với các
vấn đề một cách hữu hiệu hơn, hay làm
thay đổi môi trường chung quanh. Việc thích
nghi hữu hiệu cũng cần tới các tiến trình
nhận thức (cognitive processes) như nhận biết,
học hỏi, trí nhớ, lý luận và giải
quyết vấn đề và đây là một cách
phối hợp có chọn lựa.
Trí thông minh như thế không phải là một
khả năng đơn thuần mà cần tới
nhiều khả năng khác nhau. Bản chất và các
khả năng của con người đã là đề
tài tranh luận của các nhà tâm lý học liên quan
tới trí thông minh. Năm 1904, trong một bài viết
về trí thông minh, nhà tâm lý học người Anh
Charles E. Spearman đề cập tới các lý thuyết
về đo lường tâm lý (psychometric theories) và
đã nghĩ ra một kỹ thuật phân tích theo
thống kê gọi là “phân tích thừa số” (factor
analysis). Spearman gọi khả năng trí tuệ tổng
quát là “g“, là thứ thiết yếu đối
với mọi cách hành xử hữu hiệu (effective
behavior). Rồi mỗi người còn có các khả năng
đặc biệt và thừa số “c“ liên quan
tới sự mau lẹ trong các tiến trình tư tưởng.
Khả năng “w“ theo Spearman, liên quan tới năng
lực, sự tự kiểm soát và khả năng
chịu đựng các khó khăn.
Một nhà tâm lý học người Mỹ khác là L.L.
Thurstone lại cho rằng trí thông minh gồm nhiều
yếu tố căn bản hay các khả năng trí
tuệ chính (primary mental abilities) : không gian, nhận
thức, số liệt (numerical), ngôn từ, trí nhớ,
từ vựng, lý luận, suy diễn và quy nạp.
J.P.Guilford cũng là một nhà tâm lý học người
Mỹ, cho rằng con người có 120 thứ khả năng
và các thiên tài (gifted) là những người giỏi
về các tư tưởng mới hay về sáng
tạo, giỏi về cách tìm ra các liên hệ mới
giữa các tư tưởng xuất phát từ các người
khác, hoặc giỏi vềø cách tổ chức các tin
tức. Việc áp dụng các mẫu điện toán
(computer models) vào nhận thức của con ngườiø
còn được các nhà tâm lý học khảo sát, như
Allen Newell, Herbert A. Simon, David E. Rumelhart, Jay L. McClelland…
Tóm lại, thương số thông minh I.Q. của
một học sinh tùy thuộc vào bộ bài thi trắc
nghiệm xử dụng, và các yếu tố ảnh hưởng
tới kết quả là : cảm xúc, sức khỏe, giác
quan và văn hóa của người học sinh. Các
kết quả trắc nghiệm này có thể dễ dàng
giúp người học sinh nhận ra các phạm vi
học vấn nào không thành công và nghề nghiệp nào
có thể hoàn thành. Điểm số của bài
trắc nghiệm trí thông minh cũng giúp cho việc tiên
đoán thành quả về tập đọc và lý
luận trừu tượng của người học
sinh. Các khả năng khác phải do các bộ bài
trắc nghiệm khác đo lường, chẳng
hạn về cá tính (personality) hay về thành tích
học vấn.
4/ Các loại thông minh.
Tại trường học, các nhà giáo dục thường
dùng nhiều bài trắc nghiệm để đo lường
và xác định “thương số thông minh” (IQ)
của học sinh. Không dùng cách đo lường này,
làm sao nhà trường có thể xếp các học sinh
vào những loại lớp học khác nhau, chẳng
hạn như lớp đặc biệt dành cho các em
chậm hiểu, lớp thần đồng (gifted) là nơi
các em thông minh được học hành theo độ
khó cao hơn, làm sao một học sinh được
cố vấn sau này nên theo đuổi nền đại
học tổng quát hay nên vào một trường chuyên
nghiệp.
Người học sinh như vậy được phân
loại do các bài trắc nghiệm tiêu chuẩn, rồi
được chấm điểm bằng máy móc. Cách
đo lường này, theo Giáo Sư Howard Gardner là
một nhà khảo cứu thuộc Đại Học
Harvard, chỉ có một mục đích mà thôi, đó là
tiên đoán sự thành công của em học sinh
“tại trường học”. Theo Giáo Sư Howard
Gardner và nhóm khảo cứu, các bài trắc nghiệm dùng
cho các em học sinh lớp 6 có thể cho ra một hình
ảnh về sự thành công của các em này trong vài năm
về sau mà không nói lên được các ước
vọng của các em học sinh đó trong tương
lai. Các bài trắc nghiệm về trí thông minh chỉ
giới hạn phạm vi đo lường vào các
khả năng lý luận toán học và ngôn ngữ, mà
hầu như đã bỏ quên những năng khiếu
khác mà người học sinh có thể xuất
sắc, chẳng hạn như sự khéo tay trong ngành
thủ công, cách xuất sắc về vận chuyển
cơ thể trong bộ môn thể thao, khả năng
giao tiếp với các người khác, đầu óc sáng
tạo trong âm nhạc và nghệ thuật... Các bài
trắc nghiệm thường bỏ qua những yếu
tố như sự cố gắng và thúc động
(motivation) và đây là vài động lực quan
trọng đưa người học sinh tới
chỗ thành công ngoài xã hội.
Giáo Sư Howard Gardner cũng cho rằng nhà trường
khi dùng các bài trắc nghiệm trí thông minh (IQ tests)
đã bỏ quên hay không xét tới các tài năng và
khuynh hướng thường không được
xếp vào loại “giáo khoa” (academic), đã không khám
phá và đo lường vài loại tài năng của
người học sinh, chẳng hạn như tài
thuyết phục, tài thương lượng
(negotiating) trong khi các khả năng này cũng giúp ích
nhiều cho xã hội.
Tìm hiểu bản chất của trí thông minh và làm sao
đo lường được phạm vi trí tuệ này
là một mục tiêu của nhiều nhà giáo dục. Ngày
nay tại nhiều trường học, các nhà giáo
dục đã thay thế các bài trắc nghiệm cũ
(standardized tests) bằng các cách lượng định
chính quy (authentic assessments) trong đó dùng tới cách xem
xét các bộ sưu tập công trình thực sự
(portfolios) để xác định thành quả và
tiến bộ của người học sinh. Nhà trường
đã nhận ra tầm xa của các loại thông minh (a
full range of intelligences) rồi sau đó làm thay đổi
các cách thực thi giáo dục nhờ đó người
học sinh có thể phát huy toàn diện.
Giáo Sư Howard Gardner và nhóm cộng sự đã đặt
ra lý thuyết về “đa thông minh” (the theory of
multiple intelligences) theo đó một em học sinh bình thường
(ngoại trừ trẻ em bị khuyết tật) đều
thông minh tới một mức độ nào đó
tại một hay nhiều miền sau đây: lý luận
toán học, ngôn ngữ, âm nhạc, không gian, vận
chuyển thân thể, thiên nhiên, giao tế giữa cá nhân
(interpersonal) và hiểu rõ nội tâm cá nhân (intrapersonal).
1) Lý luận Toán Học (Logical-mathematical):
thuộc về loại này là các em ưa thích làm
việc với các con số, đặt câu hỏi
rồi giải đáp, dễ nhận ra các kiểu
mẫu xếp theo trình tự (patterns), ưa phân tích và
phân loại sự vật, đặt câu hỏi rồi
giải đáp, có khả năng lý luận dài dòng và
trong cách làm việc theo trừu tượng. Các học
sinh giỏi toán và lý luận này, về sau trở nên các
nhà toán học, các nhà khoa học... Vài nhân vật
đại diện cho loại này là Albert Einstein, John
Dewey, Suzanne Langer. . .
2) Ngôn ngữ - khẩu ngữ (Verbal-linguistic):
người học sinh thuộc về loại này
giỏi về đọc, viết, kể chuyện,
nhớ rõ ngày tháng, ưa thích giải các bài ô chữ
(puzzles), nhậy cảm với các ý nghĩa của các
từ ngữ, biết rõ chức năng khác nhau của
ngôn ngữ. Các học sinh này cần được
luyện tập về nghe, nói, đọc chữ,
thảo luận và viết ra các bài văn. Điển
hình loại này Abraham Lincoln, T.S. Eliot, Virginia Woolf, Maya
Angelou. . .
3) Không gian (Spatial): loại này
gồm các học sinh giỏi vẽ, lập ra họa
đồ, có đầu óc dự kiến (visualization),
ưa thích mơ mộng và tạo ra các kiểu
mẫu, có năng khiếu về không gian và về các
biến đổi theo nhận thức đa chiều.
Loại học sinh này nên được khuyến khích
làm việc với các hình ảnh và màu sắc, dự
kiến và dùng con mắt của tâm hồn (mind’s eye).
Tương lai của họ là các nhà điêu khắc,
kiến trúc sư, nhà hàng hải (navigator). Các thí
dụ của loại người này gồm Pablo Picasso,
Frank Lloyd Wright, Georgia O’Keeffe, Bobby Fischer. . .
4) Âm Nhạc (Musical): về
sau trở thành các nhạc sĩ, nhà soạn nhạc,
loại học sinh này có khả năng nhận
thức, ghi nhớ, lượng giá và sáng tạo
nhịp điệu, âm thanh, tiết điệu, ưa
thích đánh đàn, nghe nhạc và ca hát, biết thưởng
thức cách diễn tấu... Đại diện cho
lớp người này là Wolfgang A. Mozart, Leonard Bernstein,
Ella Fitzerald. . .
5) Vận chuyển thân thể
(Bodily-kinesthetic): học sinh thuộc loại này sẽ
trở nên các nhà thể thao, các vũ công (dancer),
họ có khả năng diễn tả qua các động
tác cơ thể, ưa nhẩy múa, đóng kịch,
xử dụng các dụng cụ (using tools). Vài nhân
vật thuộc lớp người này là Charlie Chaplin,
Martina Navratilova, Magic Johnson. . .
6) Thiên nhiên (Naturalist): tương
lai của lớp học sinh này là các nhà thiên nhiên
học, sinh học, bảo trợ môi trường...
Loại học sinh này hiểu biết và yêu mến thiên
nhiên, biết phân biệt và nhận ra các chủng
loại, ưa thích tìm hiểu về cây cỏ, sinh
vật, các hiện tượng thiên nhiên... Các danh nhân
thuộc loại này gồm Charles Darwin, Luther Burbank, John
Muir. . .
7) Tương giao cá nhân (Interpersonal):
khi thành công, loại học sinh này trở nên các bác sĩ
chữa bệnh tâm lý (therapist), các người bán hàng
(salesperson). . . Lớp học sinh này hiểu rõ về
bản chất con người, có đầu óc tổ
chức, truyền thông và giải quyết các bất
đồng, họ cũng ưa thích nhiều bạn bè,
tham gia vào các nhóm, cộng tác với nhiều người
khác. Đại diện loại người này là
Mohandas Gandhi, Mẹ Theresa, Cựu Tổng Thống Ronald
Reagan. . .
8) Nội tâm cá nhân
(Intrapersonal): học sinh thuộc loại này ưa thích
suy tư, làm việc đơn độc, theo đuổi
các công trình một cách thầm lặng, hiểu rõ chính
mình, nhận ra các ưu khuyết điểm của các
hành vi cá nhân và biết đặt ra các mục tiêu thích
hợp với nguyện vọng và trí thông minh của
từng người. Vài thí dụ về lớp người
này là Sigmund Freud, Thomas Merton, bà Eleanor Roosevelt. . .
Lý thuyết về “đa thông minh” của Giáo Sư
Howard Gardner đã đặt ra nhiều chiến
thuật mới về cách giảng dạy và học
tập, người học sinh nhờ đó gặp
nhiều cơ hội khám phá ra các tầm cỡ khác
nhau về thông minh, được giúp đỡ để
phát triển không những các phạm vi mạnh mà
cả những năng khiếu còn tiềm ẩn. Theo Giáo
Sư Howard Gardner, trường học nên giúp đỡ
học sinh tham gia học hỏi, phát triển nhiều
loại thông minh, cộng tác vào nhiều loại sinh
hoạt học đường và xã hội, khiến
cho học sinh có khả năng nhiều mặt để
sau này phục vụ xã hội theo nhiều chiều hướng
xây dựng.
|