Bài liên
quan:
Phương pháp khán bản
Xe hơi Toyota là loại xe nhập
cảng bán chạy nhất tại Hoa Kỳ. Toyota Motor là công
ty kỹ nghệ lớn nhất và có doanh số cao nhất tại Nhật
Bản. Sự ra đời của Công Ty Toyota không phải là một
việc dễ dàng, nhất là vào lúc Hoa Kỳ đang dẫn đầu về
kỹ nghệ sản xuất xe hơi trên toàn thế giới và Nhật
Bản vừa chịu đựng cuộc bại trận tan hoang sau năm
1945.
Tư tưởng về sản
xuất xe hơi Nhật Bản bắt đầu từ ông Toyoda Sakichi
(1867 – 1930), là người sáng lập ra công ty và cũng
là nhà phát minh cơ khí, truyền tới con trai là ông
Toyoda Kiichiro (1894 – 1952), vị chủ tịch đầu tiên
của Công Ty Toyota Motor. Cả hai nhân vật Toyoda này
đều là những người có tinh thần rất mạnh, không nhân
nhượng. Toyoda Sakichi cởi mở, nói rõ ý kiền của
mình còn Toyoda Kiichiro lại kín đáo, dồn mọi nỗ lực
vào hành động.
Trong khoảng các
năm từ 1922 tới 1924, ông Sakichi đã nói rõ quan
niệm rằng người Nhật Bản phải thách đố Thế Giới bằng
sự thông minh của chính mình: “Ngày nay, người da
trắng thường hỏi rằng dân tộc Nhật Bản đã đóng góp
gì cho nền Văn Minh mới? Người Trung Hoa đã phát
minh ra địa bàn, nhưng người Nhật Bản đã sáng chế
được gì? Dân tộc Nhật Bản chỉ là những kẻ bắt chước.
Đây là những gì người da trắng đã nói. Vì thế dân
tộc Nhật Bản phải đối phó lại hoàn cảnh này một cách
nghiêm trang. Tôi không nói là phải đánh nhau nhưng
chúng ta phải cho các người khác thấy sự thông minh
của chúng ta và rửa sạch nỗi xấu hổ này... Không nên
khuấy động lên sự căm thù do việc cạnh tranh quốc tế
mà chúng ta phải tiến bộ để cho thấy rõ tiềm năng
của chúng ta. Chúng ta đã có thuốc Taka-Diastase và
Bác Sĩ Noguchi Hideo, nhưng các thành quả này đã
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của người da trắng,
với sự giúp đỡ của họ và dùng các phương tiện của
họ. Tôi nói rằng chúng ta phải đạt được sự cao cả
bằng các khả năng của chính dân tộc chúng ta mà
không có sự giúp đỡ của người ngoài” (ghi chú:
Taka-Diastase là tên của một hợp chất tiêu hóa chế
tạo do Tiến Sĩ Takamine Jokichi (1854 – 1922), một
nhà hóa học người Nhật làm việc tại Hoa Kỳ. Ông
Takamine cũng là người đầu tiên thành công trong
việc rút ra chất epinephrine. Bác Sĩ Noguchi Hideyo
(1876 – 1928) là bác sĩ y khoa và nhà vi trùng học
người Mỹ gốc Nhật, cũng hoạt động tại Hoa Kỳ).
 |
 |
Sakichi
|
Noguchi Hideyo
|
Vào khoảng năm 1888
khi mới 20 tuổi, ông Sakichi thường quan sát cả ngày
cách dệt vải
của các bà mẹ tại Nhật Bản. Trong làng
của ông, mỗi nhà thường có một máy dệt tay và các bà
mẹ già ngồi dệt thành các cuộn vải lớn dần. Ông
Sakichi đã quan sát kỹ lưỡng và hiểu rõ nguyên tắc
hoạt động của máy dệt. Sau đó nhiều năm, ông phát
minh ra loại máy dệt vải tự hoạt động (an
auto-activated weaving machine). Đây là loại máy dệt
tự động ngừng lại mỗi khi có một sợi chỉ dọc hay
ngang bị cong hay lệch đi rồi đứt. Việc ngừng tự
động này là nhờ một bộ phận có thể phân biệt các
tình trạng bình thường và bất bình thường và như
vậy, sự thông minh của con người đã được áp dụng vào
máy móc. Nhờ máy dệt ngưng chạy mà không làm sinh ra
các sản phẩm có khuyết điểm. Phương pháp của ông
Sakichi đã tránh làm ra các sản phẩm xấu, nhờ đó
không gây nên các phí phạn (wastes).
Như vậy ông Toyoda
Sakichi đã nghĩ tới “cách tự động có nhân tính”
(autonomation = automation with a human touch) do
chế ra một bộ phận lắp vào máy sản xuất và bộ phận
này có khả năng suy xét, tự động làm ngừng những bất
thường trong dây chuyền sản xuất cho đến khi có việc
điều tra nguyên nhân. Nhờ sáng kiến của ông Sakichi,
nếu một dàn máy hoạt động bình thường thì không cần
tới người coi máy (operator), chỉ khi nào gặp hoàn
cảnh bất thường và máy ngừng chạy, lúc này mới cần
đến sự chú ý của con người. Đây là trường hợp của
các nữ công nhân dệt vải thường trông coi từ 20 tới
30 máy dệt tự động. Kết quả của phương pháp này là
một người thợ có thể phụ trách đồng thời nhiều máy
sản xuất, nhờ vậy làm giảm đi số công nhân và làm
tăng thêm tính hữu hiệu.
Ông Toyoda Sakichi
sang Hoa Kỳ lần đầu tiên vào năm 1910, lúc mà nền kỹ
nghệ xe hơi Mỹ mới bắt đầu. Vào thời kỳ này, sự phổ
biến của xe hơi đang lan rộng, nhiều công ty mong
muốn bước vào ngành sản xuất loại phương tiện giao
thông này. Nhà kỹ nghệ Henry Ford đã bán xe hơi
“Kiểu T” được 2 năm ra thị trường. Những điều quan
sát tại Hoa Kỳ đã kích thích nhà phát minh Sakichi
rất nhiều. Trong 4 tháng tìm hiểu, ông đã biết rõ về
xe hơi và sự quan trọng của loại xe này khi trở nên
một thứ chân của đại chúng.
Lúc trở về Nhật
Bản, ông Sakichi vẫn thường nói hiện nay là thời đại
của xe hơi, ông đã bảo con trai: “Cha đã giúp ích
đất nước bằng chiếc máy dệt, cha muốn con phục vụ
bằng xe hơi”. Vì thế ông Toyoda Kiichiro đã đi
vào ngành sản xuất xe hơi. Trước khi bước vào phạm
vi kỹ thuật xe hơi, ông Kiichiro đã tiếp tay với cha
chế tạo các máy dệt tự động, bán các loại máy này
cho nhiều cơ sở dệt ngoại quốc và thương lượng các
hợp đồng mới. Trong chuyến đi qua nước Anh để tiếp
xúc với Hãng Platt Brothers và rồi thăm viếng Hoa Kỳ
vào năm 1930, ông Kiichiro đã rất kinh ngạc về số
lượng xe hơi đang lưu hành tại Anh Quốc và tại thành
phố New York. Lúc trở về Nhật, ông được cha xuất cho
một triệu đồng yen rút từ số tiền thu được của Hãng
Platt Brothers, để nghiên cứu xe hơi.
Trước Thế Chiến Thứ
Hai, kỹ nghệ xe hơi của Nhật Bản còn nằm trong giai
đoạn rất yếu kém. Nhật Bản vẫn phải nhập cảng xe hơi
Mỹ. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản thất
trận, các cơ xưởng kỹ nghệ đã bị dội bom tan tành
nhưng cũng là lúc khởi đầu cho Hãng Toyota. Bấy giờ,
ông Toyoda Kiichiro đã nói: “Hãy bắt kịp Hoa Kỳ
trong 3 năm nếu không nền kỹ nghệ xe hơi Nhật Bản sẽ
không thể sống còn”. Để có thể làm được điều
này, người Nhật phải hiểu rõ Hoa Kỳ và phải học hỏi
mọi cách thức của người Hoa Kỳ.
Bắt chước người Mỹ
không phải luôn luôn là một điều xấu. Đế quốc xe hơi
Hoa Kỳ có cả ngàn thứ khiến cho người khác phải học
hỏi. Hoa Kỳ đã tìm ra rất nhiều kỹ thuật quản trị
sản xuất và khai thác thương mại rất xuất sắc, chẳng
hạn như phương pháp kiểm phẩm (QC = quality
control), phương pháp kiểm phẩm toàn bộ, các phương
pháp kỹ thuật công nghệ (industrial engineering
methods)... Trong nền kỹ nghệ xe hơi, nguyên tắc sản
xuất hàng loạt (principle of mass production) đã cho
phép giá thành của xe hơi giảm xuống rất đáng kể nếu
số lượng được sản xuất gia tăng, điều này đặc biệt
đúng trong thời kỳ có tăng trưởng cao.
Sau Thế Chiến Thứ
Hai, kỹ nghệ xe hơi của Nhật Bản cũng phải chịu
nhiều thiếu thốn về mọi mặt. Vào năm 1949, lượng sản
xuất trong nước gồm 25,622 xe vận tải nhỏ (trucks)
và 1,008 xe du lịch. Số lượng sau này được kể như
không đáng chú ý. Nhưng lời nói của Chủ Tịch Công Ty
Toyota đã làm cho tinh thần công nhân và nhân viên
công ty phấn khởi: “Hãy bắt kịp Hoa Kỳ”.
Vào thời gian này,
một nhà quản trị có tài được gọi về Công Ty Toyota,
đó là ông Taiichi Ohno, người đã được coi là
"Henry Ford của Nhật Bản". Ông Ohno sinh năm
1912 tại Mãn Châu, vào năm 1937 đã làm việc cho công
ty se sợi và dệt Toyoda (Toyoda Spinning and
Weaving), được đổi qua công ty xe hơi Toyota vào năm
1943 để làm quản đốc xưởng ráp xe (assembly shop
manager).
Trong các năm sau
Thế Chiến Thứ Hai, ông Ohno đã phân tích kỹ lưỡng
các công việc hàng ngày của công nhân xe hơi, các
thời gian chu kỳ (cycle times) và thí nghiệm rất
nhiều về giòng công việc (process flow). Vào năm
1960, ông Ohno được cử làm Tổng Quản Đốc (general
manager) của xưởng lắp ráp Motomachi, tại đây ông đã
đề xướng ra phương pháp điều hành “Kaban” hay
“hệ thống kéo” của sản xuất (the “pull system” of
production). Ông Ohno được thăng lên chức Giám Đốc
Điều Hành (executive director) của Công Ty Toyota
vào năm 1970 và 5 năm sau trở nên Phó Chủ Tịch Điều
Hành (Executive Vice-President) của công ty này để
rồi về hưu vào năm 1978.
Ông Taiichi Ohno
xuất thân từ một người thợ giỏi, đã làm việc trong
xưởng cơ khí chế tạo số 2 tại nhà máy chính ở Toyota
City, thời bấy giờ còn gọi là nhà máy Koromo. Để có
thể bắt kịp Hoa Kỳ, ông Ohno đã nghĩ rằng làm sao có
được cách làm việc theo đó một người thợ trông coi
nhiều dàn máy thuộc nhiều loại khác nhau, chứ không
phải mỗi người thợ phụ trách một máy như tại Hoa Kỳ.
Muốn vậy, bước đầu tiên là phải thiết lập hệ thống
giòng tiến trình (flow system) trong xưởng cơ khí.
Tại Hoa Kỳ cũng như
tại Nhật Bản thời bấy giờ, người thợ tiện chỉ làm
việc với một máy tiện và tại một xưởng, có khi được
xếp đặt từ 50 tới 100 máy tiện. Khi công việc tiện
một dụng cụ được làm xong, tất cả món đồ được gom
lại và chuyển qua phần khoan (drilling process) sau
đó chuyển tới phần mài (milling process). Tại Hoa
Kỳ, có nghiệp đoàn nhỏ (union) cho mỗi công việc
(job function) rồi nhiều nghiệp đoàn nhỏ nằm trong
một công ty. Các người thợ tiện chỉ được phép làm
công việc tiện kim loại và việc khoan phải được dành
cho người thợ khoan, cũng như công việc hàn (welding
job) phải mang đến cho người thợ hàn. Như vậy các
người thợ đều là những công nhân có tay nghề đơn
(single-skilled) và kết quả là cần tới một số rất
đông công nhân cũng như máy móc. Trong hoàn cảnh như
thế, muốn làm hạ giá thành, chỉ có một cách là dùng
phương pháp sản xuất hàng loạt (mass production).
Việc sản xuất với
khối lượng lớn lại đòi hỏi tới các máy móc chế tạo
có năng xuất cao, tốc độ cao và đây là loại máy to
lớn và đắt tiền, trong khi đó các món đồ sản xuất ra
tại mỗi nơi (khâu) phải chuyển tới các nơi kế tiếp
và kết quả là đã sinh ra một số lượng rất lớn các
món đồ bị hư hỏng lúc chế tạo, hay các phí phạn
(wastes). Ông Taiichi Ohno cho rằng phải loại bỏ các
phí phạn này và nếu làm được như vậy, khả năng sản
xuất (productivity) sẽ tăng lên gấp 10. Đây là ý
tưởng khởi đầu của phương pháp sản xuất Toyota.
Việc bắt chước Hoa
Kỳ một cách không cẩn thận cũng có thể trở thành
nguy hiểm. Trong phạm vi sản xuất xe hơi, ông Ohno
phải nghĩ ra cách làm sao sản xuất được nhiều loại
xe hơi, mỗi loại với một số lượng nhỏ mà phí tổn
phải được cắt xuống càng thấp càng tốt. Tại cơ xưởng
Koromo, ông Ohno đã làm thí nghiệm bằng cách xếp các
dàn máy khác nhau theo trình tự chế tạo (sequence of
machining process). Các máy móc được xếp song song
theo hình chữ L và một người thợ phải điều khiển từ
3 tới 4 máy theo đúng con đường chế tạo (processing
route). Như vậy từ phương pháp cổ điển “một thợ, một
cái máy” phải chuyển thành “một thợ, nhiều dàn máy
với các cách chế tạo khác nhau”. Ông Ohno đã gặp
phải nhiều phản đối dữ dội bởi vì trước khi làm việc
với một dàn máy, cần tới nhiều điều chỉnh tỉ mỉ và
chính xác mà một người thợ không có tay nghề
(unskilled) sẽ thấy công việc rất khó khăn. Trước
những chống đối phương pháp mới, ông Ohno cho rằng
phải “kiên nhẫn” và không làm áp lực để có cách đổi
mới nhanh chóng.
Việc cải tiến
phương pháp làm việc của ông Ohno cuối cùng cũng đã
được thực hiện vì bản chất của người dân Nhật mong
muốn tiến bộ, điều này tùy thuộc rất nhiều vào các
yếu tố lịch sử và văn hóa. Ngoài ra Nhật Bản khác
Hoa Kỳ và châu Âu do tại Nhật Bản đã không có các
nghiệp đoàn chuyên nghiệp (function-oriented unions)
chuyên lo bảo vệ quyền lợi của từng nhóm công nhân,
nhờ vậy mới có việc chuyển dần từ người thợ một tay
nghề (single-skilled operator) sang người thợ "nhiều
tay nghề" và người công nhân Nhật Bản như vậy phải
có nhiều kỹ năng (skills) khiến cho anh ta có thể
làm việc với máy tiện, máy khoan, máy mài và cả công
việc hàn kim loại. Nếu được như vậy, hệ thống kỹ
thuật nào đáng được coi là tốt đẹp hơn? Nhờ quan
niệm này, tại Nhật Bản không còn cảnh một người thợ
đứng “ngó” một dàn máy và chờ cho đến khi nào có
trục trặc mới ra tay làm việc. Công nhân Nhật Bản
phải là người "đa năng và đa hiệu".
Ông Taiichi Ohno
lại còn quan niệm một cách rất đặc sắc như sau:
“Tất cả những gì chúng tôi đang làm đều căn cứ vào
tuyến thời gian (time line), từ lúc người khách đặt
hàng tới lúc chúng tôi lấy được tiền về, và trên
tuyến thời gian này, chúng tôi phải loại bỏ những
phí phạn không hữu ích”. Giảm phí phạn (wastes)
là cách để thành công về thương mại. Phương pháp
quản trị Toyota là loại bỏ phí phạn, đã đặt căn bản
vào hai điều là “đúng lúc” và “tự động có
nhân tính”.
Đúng lúc
(just-in-time) là cách tổ chức sao cho trong giòng
công việc, các bộ phận cần đến để lắp ráp tới được
chỗ lắp ráp "đúng vào lúc cần thiết với đúng số
lượng cần thiết". Nếu thực hiện được điều này,
công ty sẽ đạt được cách kiểm kê số không (zero
inventory). Đứng trên quan điểm quản trị sản xuất,
đây là trường hợp lý tưởng. Trong thời kỳ phát triển
chậm, duy trì một lượng to lớn hàng dự trữ sẽ là một
phí phạn về sản xuất quá lượng (overproduction) và
cũng dẫn tới việc phải làm kiểm kê các món hàng bị
hư hỏng, điều này cũng được coi là một thua lỗ
thương mại nặng nề.
Trong việc sản xuất
xe hơi, có cả ngàn bộ phận khiến cho số các công
việc lắp ráp rất phức tạp, vì thế khó có thể áp dụng
nguyên tắc đúng lúc vào mỗi công việc. Ngoài ra còn
có các trở ngại khác ảnh hưởng tới tiến trình lắp
ráp như sự tiên liệu có thể bị đảo ngược, các món đồ
bị hư hỏng, sự nhầm lẫn trên giấy tờ, sự trục trặc
của các bộ phận phụ hay sự vắng mặt của người thợ...
Nếu vậy, nhà quản trị phải tính toán kỹ làm sao cho
mọi công nhân nhận được đúng món đồ cần lắp ráp, vào
đúng lúc cần thiết với đúng số lượng... Cách quản
trị thông thường không thể đáp ứng được các đòi hỏi
này.
Vấn đề kể trên cần
được suy nghĩ kỹ. Cách theo dõi thông thường là từ
công việc đầu tiên dẫn tới công việc cuối cùng. Ông
Taiichi Ohno đã suy nghĩ về cách đi ngược lại, theo
đó công việc cuối cùng cần tới các bộ phận lắp ráp
nào, số lượng bao nhiêu, thời gian bao nhiêu...
những yếu tố cần thiết được ghi đầy đủ vào một bản
kê, gọi là “Kanban” (khán bảng = bảng nhìn thấy,
bảng ghi) và tại mỗi bước đi dật lùi về phía trước,
các số lượng cần thiết đều được ghi rõ. Theo phương
pháp này, điểm khởi hành là chỗ lắp ráp cuối cùng
rồi đi ngược lên, tại mỗi điểm trên các “kanban” hay
các “bảng ghi” có viết rõ thứ gì cần tới và số lượng
là bao nhiêu, khi nào cần đến... Như vậy kanban trở
nên một phương tiện thông tin về lắp ráp theo cả
chiều dọc và chiều ngang, được cho đi ngược chiều
với tiến trình công việc.
Nhờ phương pháp
“kanban”, tại chỗ làm việc của mọi công nhân sẽ
không có các bộ phận dư thừa, không tốn chỗ để chứa
hay đặt các món dư thừa này, nhờ vậy có thể thực
hiện được điều mong muốn là “một người thợ, nhiều
công việc” và hiệu năng sản xuất sẽ gia tăng.
Đối với các cơ phận
do các hãng xưởng bên ngoài sản xuất và cung cấp cho
Công Ty Toyota, phương pháp giữ thăng bằng sản xuất
(production leveling) cũng được đề cập tới. Chẳng
hạn như mỗi tháng, hãng cần đến 1,000 bộ phận. Như
vậy trong 25 ngày làm việc mỗi tháng, mỗi ngày cần
tới 40 bộ phận và nếu trong một ngày làm việc, người
công nhân làm 8 giờ hay 480 phút thì cứ 12 phút lại
cần tới một bộ phận. Ý tưởng này dẫn đến cách giữ
thăng bằng sản xuất.
Hệ thống sản xuất
như vậy phải được điều hành bằng cách: a) thiết lập
giòng sản xuất, b) dùng phương pháp làm sao duy trì
được nguồn cung cấp không đổi về nguyên liệu, bộ
phận... từ bên ngoài, khiến cho việc chế tạo hay lắp
ráp được điều hòa. Phương pháp này cũng tránh cho
công ty không cần tới các nhà kho quá lớn và việc
kiểm kê phức tạp. Đối với các nhà cung cấp, nhà quản
trị luôn luôn phải lắng nghe họ, yêu cầu họ cộng tác
trong phương pháp làm việc mới và thảo luận rõ ràng
với họ về vật liệu, nhân lực và tiền bạc.
Khi gặp một vấn đề
trắc trở xẩy ra, nhà quản trị luôn luôn đặt câu hỏi
“tại sao” năm lần. Thí dụ khi một dàn máy không
chạy:
1) Tại sao dàn máy
ngừng lại? – vì quá sức máy và cầu chì bị cháy.
2) Tại sao có sự việc
quá sức máy? – vì bạc đạn (bearing) được làm trơn
không đủ.
3) Tại sao không đủ
trơn? – vì bơm nhớt không bơm đầy đủ chất nhớt.
4) Tại sao không bơm
nhớt đầy đủ như cần thiết? – vì các trục của máy bơm
bị mòn và kêu.
5) Tại sao trục máy bị
mòn đi? – vì không có bộ phận lọc (lược) gắn vô nên
các mẩu thép vụn vướng vào.
Đặt
câu hỏi “tại sao” năm lần có thể giúp người thợ máy
khám phá ra căn nguyên của trục trặc rồi sau đó có
thể sửa chữa. Nếu không đi tới tận gốc rễ vấn đề,
người thợ máy đã có thể thay cầu chì hay thay trục
máy và rồi vài tháng sau, lại xẩy ra thứ trục trặc
cũ. Như vậy bằng cách đặt câu hỏi “tại sao” năm lần,
nhà quản trị có thể tìm thấy nguyên do đích thực của
vấn đề và đây là một thứ thường ẩn mình dưới các
triệu chứng hiển nhiên.
Trở
lại vấn đề điều khiển công ty, một cơ sở doanh
nghiệp chỉ có thể tồn tại nếu có “lời”. Làm giảm hay
loại bỏ được phí phạn cũng là phương cách làm tăng
thêm tiền lời. Có hai điểm cần suy nghĩ: a) mỗi cải
tiến sự hữu hiệu đều làm giá thành giảm, muốn vậy
nên dùng nhân lực ở mức tối thiểu, b) xét sự hữu
hiệu tại mỗi người thợ và tại mỗi tuyến công việc,
rồi xét từng nhóm thợ, từng phân xưởng. Phải cải
tiến công việc tại mỗi bước, mỗi khu vực.
Sau
cuộc Chiến Tranh Triều Tiên năm 1950, nền kỹ nghệ
Nhật Bản bắt đầu phát triển mạnh. Ông Taiichi Ohno
đã nghĩ cách làm sao gia tăng sản xuất mà không gia
tăng nhân lực. Ông đã tính toán khả năng của một
công nhân hay một tuyến sản xuất theo phương trình
sau: Khả năng hiện tại = công việc + phí phạn.
Nếu
phí phạn được hạ xuống "số không" thì công việc sẽ
được tăng lên 100 phần trăm. Phí phạn có thể nằm tại
các mặt sau: - phí phạn về quá sản xuất
(overproduction), - phí phạn vì chờ đợi, - phí phạn
ở di chuyển, - phí phạn vì chứa hàng (stock on
hand), - phí phạn vì động tác không cần thiết, - phí
phạn vì đã làm ra các sản phẩm hư hỏng hay có khuyết
điểm.
Ông
Taiichi Ohno đã cố gắng cải tiến sự hữu hiệu bằng
nhiều cách trong đó có việc chỉ sản xuất số lượng
cần đến, giảm đi nhân lực dư thừa... Nhiệm vụ của
nhà quản trị là nhận ra được sự dư thừa về nhân lực
để dùng nhân lực một cách hữu hiệu. Ông Taiichi Ohno
đã làm cho công việc chế tạo được hữu hiệu hơn, làm
giảm giá thành, làm tăng phẩm chất của các món hàng
sản xuất và cũng quan tâm tới công nhân làm việc
trong cơ xưởng. Ông ta đã nói rằng một nhà máy hoạt
động cho một công ty giống như một bộ phận cơ thể
con người hoạt động cho một cá nhân.
Vào thời ông Taiichi Ohno làm giám đốc điều hành,
Công Ty Toyota đã cho xuất xưởng 200,000 xe hơi một
tháng với vô số các yếu tố quan trọng đối với khách
hàng, chẳng hạn như cỡ xe và kiểu xe, loại vỏ ngoài
xe (body type), cỡ máy, phương pháp truyền lực
(transmission method), các màu sắc, các tiện nghi
bên trong. Muốn vậy, hệ thống sản xuất Toyota phải
rất uyển chuyển để có thể đáp ứng được tất cả các
nhu cầu của một xã hội luôn luôn thay đổi./
 |