Thành phố Nha-Trang được
bao quanh bởi những dòng
nước nên khí hậu trở nên dễ
chịu, tươi mát, mặc dù cái
nắng khắc nghiệt của vùng
nhiệt đới ngự trị trên thành
phố này. Hai phái Nam và Bắc
của con sông Nha-Trang, phái
chảy vào Cửa Bé,phái chảy
xuống Cửa Lớn,
ôm choàng cuộc đất mà
phía Đông là biển lớn Thái
Bình Dương,nên gọi là Tứ
Thủy Triều Quy. Rồi mượn bốn
hòn núi ở ngay trong thành
phố tượng hình thành bốn con
thú tụ họp lại để giữ anh
khí, nên gọi là Tứ Thú Tụ.
Những hòn núi này là :
I.
Hòn Trại
Thủy:
là một hòn độc sơn,
nằm ngay ở địa đầu thành phố
Nhatrang về hướng Tây. Núi
cao hơn 30 mét, dài hơn 500
mét, chạy dọc theo Quốc Lộ
1 ở phía Bắc khi con đường
Cải Lộ Tuyến
(nơi ngã Ba
Thành chưa hoàn thành ).
Hình thù ngọn núi Trại Thủy
giống một con Dơi, nằm sè
đôi cánh,đầu hướng về
Tây-Nam.Cổ nhân gọi là "Ngọc
Bức Hàm Hòan "
(Dơi ngọc ngậm vòng
ngọc) vì trưóc núi, tại 'đầu
Dơi' có một bầu nước hình
tròn như nguyệt nhưng ngày
nay bị lấp mất, dân chúng
cất nhà trên bầu nước này và
không còn nhận ra hình dạng
của nó nữa .
Triền phía sau toàn đá hoa
cương và dốc ngược: giáp
Đình Phương Sài, chạy dài
lên tận đường rầy xe lửa
xóm Lò Vôi (Ngọc Hội).
Triền phía trước hơi lài
lài, cũng bằng đá hoa cương
nhưng có lẫn đất điệp .Phía
dưới có một khoảng đất rộng,
dân đến chiếm xây nhà lập
nghiệp, gọi là đất Bà Ngô
Đình Nhu, đối diện công
trường Trịnh Minh Thế và nhà
Ga Thành Phố, với những hàng
me xanh tươi.
Trên núi không có cây cổ
thụ, không có bàn thạch
nhưng do sự chiếm cứ của dân
nên có trồng những cây ăn
trái như mít, mận, xoài,
chùm ruột, cốc.. và từ xa
nhìn đến thấy cả một màu
xanh đang trở mình đầy sinh
động .
Trên lưng núi cũng tạo
thành một con đường mòn,chạy
dài từ đầu tới đuôi của hòn
núi. Nơi đây một Kim Thân
Phật Tổ được xây cất, rất đồ
sộ .
Núi Trại Thủy thường gọi là
Hòn Xưởng. Tên chính thức đã
được 'trước bạ' trong sách
vở là Khố Sơn, tục danh Hòn
Kho.
Đại Nam Nhất Thống Chí
chép:
"Khố Sơn ở phía Đông huyện
Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía
Đông Nam có nền cũ kho Phước
Sơn nên đặt như thế.
Phía
Bắc gần sông Ngu Trường. Năm
At Mão đầu lúc Trung Hưng
(1795) đại binh đánh phá
tướng Tây Sơn là Trần Quang
Diệu ở bảo Khố Sơn tức là
chỗ này. Trên núi có đền
Quan Công và miếu Ngũ Hành."
Ly sở Vĩnh
Xương trước kia
đóng ở Phú Vinh, nên sách
nói "Khố Sơn nằm ở phía Đông
". Và kho Phước Sơn là kho
chứa lương thực từ thời Chúa
Nguyễn .
Nhà Tây Sơn chiến thắng
chúa Nguyễn, lập xưởng đóng
thuyền bè tại Hòn Kho. Từ ấy
núi mang tên Hòn Xưởng."
Sau khi lấy lại được Diên
Khánh, Nguyễn Phúc
Ánh lập
trại nơi Hòn Xưởng,gần bến
Trường Cá
(tức Phương Sài)
để thuỷ binh đóng giữ mặt
biển. Người địa phương bèn
gọi là Hòn Trại Thủy.
Sang thời Pháp thuộc, tên
Trại Thủy được ghi trên các
bàn địa đồ và trên giấy tờ
của Chính Phủ.
Hòn Trại Thủy đứng giữa đất
bằng, nhiều người tưởng là
một hòn núi độc lập. Nhưng
theo các nhà địa lý học thì
núi thuộc hệ thống vùng núi
Cao Nguyên.
Và các nhà Phong
Thủy, tục gọi là Thầy Địa,
cho biết rằng đó là Trấn
Thủy Khẩu của dãy núi phía
Tây Diên Khánh. Long mạch
phát từ Hòn Thị (ở Bình
Khánh, Diên Khánh),chạy ngầm
dưới đất đến gần cửa sông Cù
thì đột khởi làm cột trụ giữ
anh khí cho cuộc đất Diên
Khánh,
Vĩnh Xương. Và thành
Diên Khánh lấy Hòn Thị ở
phía Tây làm hữu bậc,
lấy Hòn
Trại Thủy ở phía Đông làm tả
bậc. Vì vậy,về mặt phong
thủy, hòn Trại Thủy là hòn
núi quan trọng tỉnh Khánh
Hòa .
Và trông thấy Hòn Trại Thủy
có vẽ hiền lành, mấy ai ngờ
rằng trước kia đã xãy ra
nhiều cuộc quyết chiến ngay
dưới chân núi. Đó là những
trận đánh ác liệt giữa nhà
Nguyễn và nhà Tây Sơn năm
Quí Sửu
(1793) và năm Giáp
Dần (1795) tại bến Trường
Cá. Và năm Ất Dậu (1885)
Nghĩa Quân Cần Vương đã dùng
nơi đây làm căn cứ chống
Pháp.
Ngày nay, hòn Trại Thủy được
trở thành một danh lam thắng
cảnh nổi tiếng với năm ngôi
Chùa đồ sộ với chứng tích
lịch sử của thời kỳ hưng
thịnh Phật Giáo Việt-Nam,
như sau :
|
|
|
Chùa
Hải Đức
: Xưa kia Chùa
nằm phía trên chùa Hội
Phước. Được xây đựng
trên đỉnh núi, nhánh phía
Tây, do ngài Viên Giác Thiền
Sư, pháp danh Đạt Khương,
tục danh Tô Văn Danh, quê
quán làng Vạn Thạnh
(Nhatrang), trụ trì từ năm
Tự Đức
(1847-1883). Ban đầu
đặt tên là Duyên Sanh Tự.
Đến năm Thành Thái
thứ ba (1891), mới đổi tên
là Hải Đức Tự. Hiện nay là
một Đại Tòng Lâm,
để tăng
chúng khắp nước tụ họp về
đây tu học, tham thiền nên
chùa được xây dựng đầy đủ
tiện nghi như một Phật Học
Viện có Tăng phòng, tịnh
thất..Phía sau lưng chùa có
xây một tiểu đình để treo
một Đại Hồng Chung, cao 1,70
mét, đường kính 1,10 mét,
nặng 1009 Kg. Tiếng chuông
ngân rất xa,đã gây cảm hứng
cho nhiều nhà thơ, nhà văn
mộ đạo hay báo hiệu giờ giấc
sớm chiều cho người dân
sống quanh ngọn núi nhỏ này
mà bài thơ sau đây cũng
diễn tả một bức tranh
Thiền sinh động :
"Sương xuống hồi chuông
lặng
Dư âm tràn hư không
Lững lơ vàng gợn sóng
Trăng hồ Thu mênh mông "
Ngài Viên Giác Thiền Sư viên
tịch, các môn đệ kế tiếp
nhau trụ trì :
-Chánh Niệm Đại Sư , húy
Chơn Minh .
-Nhân Thụy giáo thọ, húy
Như Khánh .
-Phước Huệ hòa thượng,húy
Ngộ Tánh .
Phước Huệ hòa thượng, tục
danh là Nguyễn Hưng Long,
người Quảng Trị, được Viên
Giác thiền sư thọ ký lúc 16
tuổi (1890). Năm 20 tuổi,
phải bái biệt bổn sư về quê
hương lo báo hiếu cho thân
phụ. Rồi vào Huế tu hành.
Mãi đến 15 năm sau mới trở
lại Nha Trang. Vào lúc này
chùa Hải Đức bị hư dột vì
lâu đời, Hòa thượng ra công
sửa chữa và khôi phục được
quang cảnh ngày xưa.Năm
1956, Hòa thượng cùng ban Hộ
Tự chùa cúng dường chùa và
bất động sản liên hệ cho
Phật Giáo Trung Phần để
thành lập Phật Học Viện
Trung Phần và ủy quyền
Thượng Tọa Thích Trí Thủ làm
Giám Viện, thay mặt toàn ban
điều khiển mọi sinh hoạt của
Viện. Viện lại có một quả
hồng chung, chú tạo năm
1961,kích thước phỏng theo
quả hồng chung chùa Thiên Mụ
ở Huế. Cao 1,70 mét, đường
kính 1,10 mét, nặng hơn 1000
kg.
Chuông treo nơi Tiểu Đình
phía sau chùa Hải Đức, nơi
dốc lên Tịnh Thất. Rồi tuổi
già sức yếu, việc đi lại khó
khăn, năm Bảo Đại thứ 14
(1938), Hòa thượng bèn giao
nhiệm vụ trụ trì chùa cho
Bích Không Đại Sư.
Bích Không Đại Sư, pháp
danh Trừng Đàn, tục danh
Hoàng Hữu Đàng, quê quán
Quảng Trị. Xuất thân trong
một gia đình khoa bảng. Đậu
Tú Tài năm Mậu Ngọ(1918).
Đắc pháp Đại Sư năm
Ất
Hợi (1935) trong giới đàn
chùa Sắc tứ Tịnh Quang tỉnh
Quảng Trị do Hòa Thượng
Phước Huệ làm đàn đầu truyền
giới. Nguyên Đại Sư là trụ
trì chùa Giác Phong tỉnh
Quảng Trị, nên cũng gọi là
Giác Phong Đại Sư .
Rồi trải bao nhiêu khó
khăn, bao nhiêu cực nhọc, Đại
Sư mới trưng đất mới dỡ được
non, nới rộng đất trên núi
Trai Thuỷ và khởi công từ
đầu năm Quí Mùi (1943) đến
đầu năm Ất Dậu
(1945) mới cáo
thành ngôi chùa Hải Đức to
lớn nhất, đẹp đẽ nhất. Nhưng
chùa chưa kịp lạc thành thì
gặp quốc biến năm At Dậu
(1945),Đại Sư di cư về Huế,
Quảng Trị, Nghệ An. Và năm
1954, ngài thị tịch tại Nam
Đàn (Nghệ An). Ngày nay tại
chùa vẫn còn bút tích của
Đại Sư được khắc chạm trên
vách, trên cột mà mưa nắng
vẫn còn nguyên .
Có thể nói một cách mạnh
dạn rằng đó là những tuyệt
phẩm của Thiền Môn
Khánh-Hòa.
Nơi hàng cột ở chánh điện,
có ba câu đối liên.
Câu chính giữa :
Hải thuỷ trừng thanh vạn
tượng tề hiện;
Đức hương ôn nhã nhất thiết
mông huân .
Câu kế :
Hạnh thảo tác thân mao đoan
hiện sát;
Vi phong thuyết pháp ngoạn
thạch điểm đầu .
Câu hai bên :
Kim Sơn Long Sơn tại kỳ tả
hữu :
Nha Hải Phước Hải bổn bất
khứ lai .
Nơi vách mái hiên ngó ra
sân, mỗi vách khắc bốn đại
tự, mỗi bề rộng đến bốn tấc
Tây .
Bốn chữ vách tả ( vách phía
Đông ):
TRÚ BÌNH ĐẲNG HỘI
Bốn chữ nơi vách hữu ( vách
phía Tây ):
TÁC NHƯ THỊ QUÁN
Nơi lầu chuông ở phía Đông
khắc 8 chữ :
PHỔ ĐOẠN SANH TỬ , HƯỞNG
BIẾN HÀ SA .
Ý nghĩa thâm viễn.
Phải thấm
đạo lý của Đức Phật, mới
thưởng thức nổi những cái
hay cái đẹp dưới những nét
thanh lão của ngọn bút tài
ba đã đượm nhuần giáo lý Đại
Thừa .
Chùa Bửu Phong : cũng ở
trên đồi Trại Thủy, nơi đầu
nhánh phía Nam, cạnh đường
quốc lộ 1 (nay là mộ con lộ
rộng thêng thang chảy từ
Thành xuống thành phố),
đứng tai nơi ngã ba vào xóm
Xưởng nhìn lên không thấy
Chùa vì bị những lùm cây che
khuất .
Chùa này do người Trung Hoa
lập, từ đời Hậu Lê.Trong
chùa hiện còn một quả Đại
Hồng Chung, có khắc tên
chùa"Bửu Phong Tự" và năm
chú tạo "Tuế Thứ Quí Dậu
Niên Tứ Nguyệt Cát Nhật "
tức là năm Cảnh Hưng thứ 14
(1753).
Chùa thờ Quan Thánh tức
Quan Vân Trường đời Tam
Quốc.
Lâu đời không có người
phụng tự, chùa trở thành
chùa làng(làng Phước Hải).
Làng vẫn thờ ngài Quan Thánh
nhưng gian bên thờ thêm Bà
Chúa Ngọc Thiên Y-A-NA.
Người địa phương thường gọi
là Chùa Núi.
Dưới triều Bảo Đại
(1925-1945) khi phong trào
chấn hưng Phật Giáo phát
động trong nước, làng Phước
Hải hưởng ứng, cải chùa thờ
Thánh thành chùa thờ Phật.
Sau khi chùa Linh Phong trên
Xuân Phong bị cháy và dời
xuống Xuân Lạc đổi tên là
Liên Hoa, thì có người được
tấm biển "Linh Phong Cổ Tự"
đem cúng cho chùa Bửu Phong,
chùa giữ làm kỷ niệm.
Rồi chiến tranh bùng nổ,
các chùa cũng lâm vào hòan
cảnh khó khăn. Sau ngày đình
chiến 1954, một nhà sư ở Huế
vào trụ trì chùa, thấy tấm
biển "Linh Phong Cổ Tự" nơi
chùa, đinh ninh là tên chùa.
Khi tu bổ lại chùa, bèn đắp
trước hiên,khắc trước ngõ
bốn chữ "LINH PHONG CỔ TỰ"
. Từ ấy chùa Bửu Phong là
Linh Phong. Nếu không có quả
Đại Hồng Chung không ai biết
đến chùa có tên là Bửu
Phong .
Chùa cất theo kiểu trùng
thiềm. Cây gỗ tốt. Song vì
đã quá lâu đời mái đã quằn,
cột đã xiêu. Đường lên chùa
dốc thẳng đứng, các bậc đá
gập gềnh lỏng chỏng, bị vỡ
hay mất đi khá nhiều làm cho
việc di chuyển lên xuống khó
khăn, tạo cho cảnh trí thêm
hoang vắng,khiến cho khách
vãng cảnh cảm thấy e ngại .
Hòn Trại Thủy hình giống
con Dơi nằm sè đôi cánh, đầu
hướng về phía Tây Nam.Chùa
Bửu Phong đứng trên đầu con
Dơi phía hai bên tả hữu bị
thân Dơi và hai cánh che
khuất chân mây, song phía
trước nào núi nào đồng, nào
xóm làng, nào phố xá, dường
xe lửa..sống động nhưng
không ồn ào. Nếu Chùa Bửu
Phong làm mặt bằng tốt để
xây một ngọn Tháp nhiều
tầng như ở Thái Lan, Cao
Mên hay như ngọn Tháp Thiên
Mụ thì phong cảnh hòn Trai
Thủy nói riêng, phong cảnh
thành phố Nhatrang nói
chung, sẽ nổi tiếng và tăng
phần mỹ quang cho thành phố
du lịch trong thế kỷ 21
này.
*Chùa Long Sơn : Chùa nằm
dưói chân hòn Trại Thủy,mặt
hướng về Nam-Đông. Chùa Long
Sơn trước có tên là Đăng
Long Tự, còn gọi là Chùa
Tỉnh Hội Khánh Hòa, được
xây dựng trên núi vào năm
1886 do Hòa thượng Thích Ngộ
Chí (1856-1935) trụ trì, là
người huyện Vĩnh Xương, tỉnh
Khánh Hòa. Năm Canh Tý
(1900), sau một trận bão
lớn, chùa phải dời từ trên
núi xuống vị trí hiện nay.
Năm 1936 , chùa được Hội
Phật Học chọn làm trụ sở
Phật Giáo Tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1940,chùa được trùng tu
do công lao của toàn thể tín
đồ trong tỉnh. Năm 1968 ,
chùa phải sửa chữa lại. Năm
1971-1975,Thượng Tọa Thích
Thiện Bình đứng ra lo trùng
tu chùa, việc trùng tu mới
này thực hiện được 60%theo
họa đồ của Kiến Trúc Sư Võ
Đình Hiệp. Chùa kiến trúc
theo kiểu tân thời,có tánh
chất Đông Phương .Nhưng ở
vị trí tốt, được cất trên
một trảng đất cao, rộng nhìn
ra đường quốc lộ 1. Trước
chùa có nhiều cây lớn và
hàng dừa chạy dài từ Tây
sang Đông che mát cho ngôi
trường Trung Học Bồ Đề, đây
chính cũng là sự thuận lơi
cho du khách viếng thăm Chùa
trong những ngày Đại Lễ như
lễ Phật Đản,
Vu Lan hay ngày
Tết (Vía Đức Phật Di-Lặc )
để nghe thuyết pháp, cầu
nguyện. Tuy gần đường xe hơi
xuống lên từ Thành đến thành
phố,chùa vẫn giữ được vẽ
thanh tịnh, trang nghiêm.
Trong các danh lam thắng
cảnh ở Khánh Hòa, chùa được
nhiều du khách thường lui
tới thăm viếng nhiều
nhất.Muốn đi lên thăm kim
thân Phật Tổ, chúng ta cũng
có thể dùng con đường sau
lưng chùa đi lên rất là gần
nhưng con đường bằng đá hoa
cương quá hẹp nên vào những
ngày Lễ thì chỉ còn cách
chen nhau, kẻ tránh người né
làm cho cảnh trí ồn ào,náo
nhiệt khiến cho mọi người
cảm thấy bồn chồn, thích thú
mất cái mỏi gối, đau
chân-nam thanh nữ tú lòng
thấy rộn rã như những cây
xanh đang đâm chồi nẩy lộc
vào những ngày Xuân lên
viếng chùa. Ngày nay trước
sân chùa có xây thêm một
ngôi nhà bán các vật kỷ
niệm và kinh sách Phật .
Từ khi thành lập đến
nay, chùa do các nhà sư sau
đây trụ trì : Hòa Thượng
Thích Ngộ Chí (1886-1935),
Thượng Tọa Thích Chánh Hóa
(1936-1957), Thượng Tọa
Thích Chí Tín ( 1957 về sau
).
Sau lưng trên đồi Trại
Thủy, ở lưng đồi có kiến tạo
một Kim Thân Phật Tổ với
chiều cao từ mặt bằng lên 24
m, từ đế lên 21m , phần
tượng cao 14 m, đài sen 7m,
đường kính đài sen 10 m,.
Xung quanh đài là hình bảy
vị Thánh tử vì đạo. Trước
Phật đài có cặp rồng, chiều
dài 7,20 m. Việc đúc tượng
khởi công vào năm 1964,hoàn
thành năm 1965 do Hòa Thượng
Thích Đức Minh, lúc đó là
Hội Trưởng Tỉnh Hội Phật
Giáo Khánh Hòa và điêu khắc
gia Kim Điền thực hiện .
Chùa Tỉnh Đức : nằm tọa lạc
ở triền núi phía Đông, hướng
về đường Trần Quý Cáp và
công trường Trịnh Minh Thế,
đi lên chùa từ con đường
nhỏ từ bên hông ngôi nhà bán
vật liệu xây dựng đối điện
với cây xăng Mã Vòng. Ngôi
chùa này do các Sư cô thành
lập để tu tập và dân địa
phương thường gọi là Chùa
Nữ. Chùa được xây cất theo
lối tân thời không có gì đặc
sắc.
*Lôi Am Tự : Tọa lạc ở phần
cuối của hòn Trại Thủy,
hướng về phía Đông,nằm phía
trước bồn chứa nước thành
phố và kim thân Phật Tổ.
Chùa Lôi Am do Phật Hội
Pháp Hoa Việt Nam xây dựng
từng phần vào năm 1966. Hội
Pháp Hoa được một vị Giáo
Chủ đã chứng quả vị Tuyệt-
Đối, hướng dẫn cho mọi người
tu theo con đường Nhất Thừa
của đạo Phật, được giải
thoát trong kiếp hiện tại.
Vào những năm đầu, hội Pháp
Hoa xây một hội trường để
Đạo Chúng có nơi sinh hoạt
với đầy đủ tiện nghi nào là
nhà trù,bếp,nhà vệ sinh..
tiếp đến là xây dựng khu
thiền thất phía sau chùa với
hai hàng cốc dành cho thiền
sinh khắp các tỉnh trên toàn
quốc về đây tu học và tham
thiền. Sau đó xây đựng một
cốc Biệt Giáo và cốc Vô Ưu
. Bên phải Chùa phần đất
được nới rộng và tạo dựng
khu Quán Không Thiền Viện
dành riêng cho phái nữ đã
xuất gia .
Như thế, hàng đêm
đạo chúng bao gồm mọi giới
như giáo sư, sinh viên, học
sinh, công chức, dân lao
động, nông dân.. từ dưới
thành phố hay các vùng phụ
cận như Thành, Cam Ranh, Cầu
Đá hay các tỉnh trong nước
về đây để nghe thuyết pháp,
học giáo lý, tham thiền,
sinh hoạt..Từ ngày đặt viên
đá đầu tiên năm 1967, Chùa
tiến hành xây cất được phần
hậu diện Chùa và cột
cờ,riêng phần cổng Tứ Quán
được thay thế tạm bằng cổng
Tam Quan. Thiết kế Chùa
được các nhà thầu khoán
Giáo sư Nguyễn Hữu Dưỡng,
Huỳnh Ngọc Điển … thi công
với sự dạy vẽ của Giáo Chủ
Pháp Hoa .
Chùa được các vị Huynh
trông nôm như Huynh Như Trí,
Huynh Pháp Hư (G/S Hồ Viết
Đốc ) và sau cùng là Huynh
Pháp Doãn. Khi Cộng Sản tiến
chiếm miền Nam với chánh
sách tiêu diệt tôn giáo,chùa
Lôi Am bị gài vào tội chống
phá lại chế độ nên trong
một đêm cuối năm 1975, Công
An đột nhập vào chùa tịch
thu tất cả tài sản và tiến
hành đập phá chùa, nay chùa
chỉ còn lai cổng Tam Quan
nơi triền dốc. Và trong chùa
vẫn còn hai nấm mộ cuả người
Hời hay Chàm chôn từ lúc
nơi đây là quốc gia cũa
họ.Muốn lên chùa,có thể đi
bằng hai ngã đường:
Đường từ
Phương Sài, chéo góc nhà hộ
sanh Bác sĩ Tý, đi vào xóm
lao động thuộc đất bà Ngô
Đình Nhu ; ngã thứ hai là
bên đường Trần Quý Cáp, bên
hông đồn Quân Cảnh cùng với
lối đi lên chùa Tịnh Đức, đi
dọc theo triền núi.Cả hai
ngã đều qui về cổng Tam Quan
"Lôi Am Tự".
Chùa Lôi Am tọa lạc ở vị
trí của cánh phải,chân phải
của con Dơi, nên khi đào hồ
chứa nước Quán Không Thiền
Viện đã làm thương tích long
mạch .
Muốn nhìn toàn diện thành
phố Nhatrang chỉ có vị trí
Chùa Lội Am ta mới ngắm được
toàn cảnh từ Bắc (Tháp Bà,
Dòng La San, Xóm Bóng,Cồn
Dê, Hộ,Xóm Lò Vôi..) kéo dài
về biển Đông (hòn En, hòn
Tre, đường Duy Tân , Bãi
biển, Cầu Đá) băng qua
phía Nam (cửa Bé, núi Đồng
Bò , khu Phước Hải ..).Chính
vì thế vào năm Mậu Thân
1968,Cộng quân đã chiếm vị
trí này để đóng bộ chỉ huy
tiện việc điều động quân
đánh chiếm thành phố nhưng
Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa
cũng đánh gía tầm quan trọng
của vị trí này và cho phi cơ
trực thăng phóng pháo ngay
vào chổ này tiêu diệt ngay
bộ đầu não Cộng quân từ lúc
đầu cuộc tấn công vào ngày
mồng 1 Tết Mậu Thân .
Từ một khu đất hoang nay đã khang trang với các loại cây ăn trái
trồng khắp chùa , nào là
mận,ổi,mít,cốc,chùm
ruột,chuối,mãn cầu …làm cho
mảnh đất trở nên có sinh khí
nhưng bây giờ đã hoang tàn
bởi do một chế độ khắc
nghiệt , phá hoại; lại thêm
phần không có nước và
người chăm sóc vì thế chỉ là
chổ dung thân của những kẻ
không nhà và nghiện ngập sau
một ngày lang thang khắp phố
trở về đây dung thân tránh
mưa dưới mái chùa hoang này
2 . HÒN HOA-SƠN : tục gọi
là Núi Một, ở quận Nhatrang
Tây (nay đổi thành phường
Phước Tiến và Phước Tân ) .
Đi vào thành phố bằng con
đường Gia-Long (nay là Thái
Nguyên), qua Mã Vòng, đến
nhà Ga Xe Lửa và gặp ngay
Ngã Sáu-nhìn bên phải thấy
một giáo đường to lớn , đồ
sộ,uy nghi chọc thẳng lên
trời và được xay trên một
hòn núi nhỏ, đây chính là
hòn Hoa Sơn.
|
|
Nguyên thủy lúc ban
sơ, hòn núi này
không bị cắt thành
hai cụm núi nhỏ, nó
trông giống con Rùa
vì phần núi nhỏ
hướng ra biển Đông
như
"đầu Rùa",
trên có ngọn
cổ Tháp nhỏ; phần
núi lớn hướng về
phía Tây là 'thân
Rùa , nên gọi là
"Kim Qui đới Tháp ",
nghĩa là Rùa Vàng
đội tháp .
|
Vào thời vua Lê Cảnh
Hưng (1740-1786), một vị
Thiền Sư,
pháp danh
Phật An
đến cất một am tranh tu khổ
hạnh trên hòn Núi Một-Năm
Bình Ngọ 1786, vị Thiền Sư
thiết hóa trà tỳ (tự hỏa
tán),
đệ tử thâu xá lợi, xây Liên
Hoa tháp thờ phụng ở trên
đầu hòn núi Một .
Khi người Pháp chiếm cứ
tỉnh Khánh Hòa, núi Hoa Sơn
chỉ có một ngọn cổ tháp của
Thiền Sư Phật An và nơi 'cổ
Rùa' người ta khai phá một
con đường mòn đi qua vùng
Phước Hải-Đồng Bò để kiếm
củi, đốt than, bắt cá hay đi
chặt những nhánh mai vào dịp
gần Tết, vì đây là một động
mai vàng tuyệt đẹp, được
khen qua những vần thơ :
Mã Vòng đêm trắng,ma trêu
nguyệt,
Phước Hải rừng mai,cọp
thưởng Xuân .
Hay :
Biển En sóng vờn
trăng thúy liễu,
Đồng Bò hương thoảng gió
hoàng mai .
Khi đất nước chia đôi, dân
miền Bắc di cư vào Nam,
thành
phố Nhatrang cũng đã tiếp
nhận một số khá đông đồng
bào miền Bắc và họ đã định
cư tại khu Xóm Mới -Phước
Hải vì thế thành phố nới
rộng ra và phát triển mạnh
và con đường mòn qua cổ Rùa
trở thành con đường Phước
Hải (nay là Nguyễn Trãi )
với chiều rộng 8 mét, hai
bên đường nhà cửa mọc lên
như nấm và từ đấy hòn Hoa
Sơn bị cắt hẳn thành hai
phần rỏ rệt, khu rừng mai
Phước Hải cũng mất luôn với
những cây xương rồng trổ hoa
màu đỏ khi hè về, nay thì
dân chen chút nhau mà sống .
Riêng ngôi giáo đường trên
phần núi còn lại vẫn như
ngày nào . Vào năm
1930-1935, một nhà truyền
giáo người Pháp tên là
Vallet, kiến lập ngôi giáo
đường này. Nhà thờ kiến trúc
không giống như những giáo
đường trong nước và đặt tên
là Nhà Thờ Chánh Tòa
Nhatrang , dân địa phương
gọi là nhà thờ ông Cố hay
nhà thờ Núi. Nhà thờ vừa cổ
kính,trang nghiêm-vừa tân kỳ
vì vật liệu xây dựng toàn là
xi măng với những kính đủ
màu lắp trên các cửa sổ,
vách khi ánh sáng mặt trời
vừa hừng đông chiếu vào tạo
thành nhiều màu sắc rực rỡ,
đẹp lạ thường , kỳ ảo ẩn
hiện những bức tranh có
tánh cách tôn giáo và đứng
chắc trên một đầu non,
với
bộ
áo xám tro',
hình tướng trông
nửa như khiêm nhường, nửa
ngạo nghễ. Đi lên nhà thờ
chúng ta có thể dùng hai
lối đi: một con đường bằng
đá hoa cương chạy từ dưới
ngã Sáu chạy men theo triền
núi phía Nam lên tận sân
giáo đường với chiều rộng
khoảng 8 mét, có thể dùng xe
hơi lên cũng được và một con
đường khác bên hông trường
Hưng Đạo (đường Gia Long )
ta phải đi bằng chân với
những bậc cấp xi măng . Phía
bên trái nhà thờ có xây một
hang đá "Tiểu Vương Cung"
thờ Đức Mẹ Maria, được che
mát bởi cây đa lớn nhiều
lá.
Lầu chuông cao ngất!
Lên đứng nơi gác chuông
nhìn bốn mặt, thì vọng cảnh
trùm cả toàn diện thành phố
Nhatrang. Trông tới ngó
lui,nước non, nhà cửa, nơi
gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện,
khoái con mắt, hả tấm lòng,
nhiều khi tưởng mình đương
đứng nơi trung tâm điểm của
một vùng đất giàu sang trù
phú với biển xanh, núi cao,
đồng bằng với hòn non bộ
nhỏ này. Tiếng chuông làm
cho ta thức tỉnh nhưng xung
quanh tháp chuông có gắn bốn
cái đồng hồ to thường báo
hiệu giờ giấc cho mọi người
trong thành phố sớm hôm đi
làm .
3. NUÍ CẢNH LONG
:
|
|
Núi
Cảnh Long ở Chụt, là
Con Rồng
Cảnh là bờ cõi - Long là
tốt, thịnh. Không hiểu cổ
nhân thủ nghĩa ra sao, có
người hỏi cụ cử Phan Bá Vỹ
làm ký lục Tòa Sứ Nhatrang
thời tiền chiến ,
cụ đáp :
- Có lẽ ông cha chúng ta
biết trước rằng thế nào
vua
ta cùng
các auan bảo hộ cũng
đến cất dinh thự để làm nơi
thừa lương nên mới đạt tên
là nuí Cảnh Long. Hình nuí
chạy dài theo bờ biển, giống
như một con Rồng xanh.
Cổ
nhân gọi là "Thanh Long hý
thủy" tức là Rồng xanh giỡn
nước . |
Con đường Duy Tân (nay là
đường Trần Phú) chạy ngang
qua phi trường Nhatrang và
Trung Tâm Huấn Luyện Không
Quân, rồi đến Trung Tâm Huấn
Luyện Hải Quân, chạy đến tận
Chụt, con đường đổi thành
tên là Đường Tự Do và vượt
qua một dốc nhỏ, thấy ngay
Cảng Cầu Đá và Hải Học Viện
bên tay trái. Chính con dốc
này cắt ngọn nuí Cảnh Long
thành hai phần: một phần
nhìn ra biển, gọi là "đầu
Rồng " ; phần còn lại chạy
dài đến tận cửa Bé, gọi là
"mình Rồng ". Ngoài ra còn
có một con đường piste chạy
vòng theo từ sườn phía Đông
cho đến Cửa Bé (cảng cá
Vĩnh Trường ),
chạy vòng lên
sườn phía Tây, để xuống đất
bằng trở về Chụt,
đường này
có thể gọi là " đường vòng
mỹ cảnh ". Ngoạn mục nhất là
đơạn đường chạy ra biển. Nằm
trên lưng chừng núi, đường
khi lên khi xuống, uốn éo
quanh co , như con rắn bò
quanh hòn non bộ.
Trên đầu núi về phía Cầu Đá
có lầu Bảo Đại và nhiều
dinh thự của người Pháp
xây vào thời Pháp thuộc.
Hiện nay cũng là nơi nghĩ
mát của các vị lãnh đạo
Trung Ương ,đồng thời cũng
mở cửa cho du khách vào thăm
viếng coi như là nhà bảo
tàng của thành phố .
Bên dưới "đầu Rồng" sát
chân núi là viện Hải Dương
Học, do phủ Toàn Quyền
Đông-Dương xây dựng năm 1927
và bàn giao lại cho chánh
phủ Việt Nam Cọng Hòa vào
năm 1952 . Viện được xây
theo lối kiến trúc Tây
Phương ,tọa lạc trên một khu
đất rộng 20 mẫu tây,
phạm vi
bao trùm cả phần bên dưới
đầu con Rồng. Cơ sở viện
chia làm hai phần:
- Nhà của cấp Chỉ Huy gồm 5
ngôi biệt thự ,khang
trang,
cất trên đỉnh núi
cách mặt biển chừng 35 m và
ẩn hiện trong bóng xanh
của những cây Bàng lâu đời ,
lá thay đổi bốn mùa.
-Viện chính thức: một sở
nhà lầu đồ sộ, cất dưới chân
núi phía Đông,trên một
khoảng đất bằng phẳng , cách
mặt biển 4m . Bao gồm : Một
tòa nhà lầu hình khối chữ
nhật, ba tầng với hai tầng
lầu một;
tầng trệt cao 12 m,
dài 40 m; hai tầng lầu dùng
làm phòng thí nghiệm,
thư
viện và văn phòng. Tầng trệt
dùng nuôi những giống cá lạ
ở dưới biển.. để cho công
chúng thưởng lãm (
Aquarium). Một tòa lầu thứ
hai, kiểu thức giống như tòa
thứ nhất nhưng nhỏ thua,nằm
phía Nam tòa thứ nhất, sát
chân dốc,
mặt ngó ra hướng
Bắc dùng làm phòng nghiên
cứu về Sử, Lý Hóa…trong
ngành Hải học . Một nhà bảo
tàng, rộng 400 mét vuông, cao
5m ,nằm phía sau chính viện
và dùng cất giữ những giống
thủy tộc sưu tập được ( Hall
des collections ) .
4. HÒN SINH TRUNG :
là một
hòn độc sơn , đứng trên mé
đầm Xương Huân, cạnh bến Hà
Ra của con sông Cù, nơi đây
có một bến xe chạy các
vùng lân cận phía Bắc- Nam
như Ninh Hòa, Tu Bông , Đại
Lãnh, Cam ranh …(Nay bến xe
chuyển lên Mã Vòng ) .
Các thầy Địa Lý gọi là
"Bạch Tượng quyện hồ" tức
là Voi trắng cuốn hồ .
Núi Sinh Trung không cao
lắm, đi lên đỉnh núi chỉ cần
bước trên 90 bậc cấp, được
làm bằng xi măng, ngay chân
núi có xay một cổng Chùa mặc
dù trên đỉnh núi vẫn còn
cổng Miếu cũ , nay đã trùng
tu rất đẹp. Đối với thành
phố Nhatrang thì núi Sinh
Trung chẳng khác nào như một
hòn non bộ đứng trong vườn
cảnh xung quanh có sông nước
bao bọc; rừng dừa, cây cối,
dương liễu xếp thành hình
vòng cung theo dọc bờ biển.
Quanh núi toàn hững cây dẹp
mọc (loại cây, dân chúng
thường dùng để trị bệnh sán
lãi ).
Trên đỉnh núi là một vùng
đất rộng khoảng hơn 150 m
chiều dài và 100 m chiều
ngang nhưng thiết trí chùa
cũng rất gọn và trang
nghiêm. Vào năm 1802-
1852,triều Nguyễn dựng một
cái Miếu thờ 350 vị công
thần bị tử trận hay bị mệnh
vong trong khi tranh hùng
với nhà Tây Sơn ,miếu có tên
là Tinh Trung , sau đổi là
Sinh Trung. Tên núi mượn
tên Miếu mà kêu. Người địa
phương cũng thường gọi là
núi Ha Ra .
Ha Ra là tên khu
vực . Sách Đại Nam chép là
A La.
Năm Tự Đức thứ 5
(1852) trùng tu miếu và đặt
lại tên là Trung-Nghĩa miếu
. Đến năm 1945 -1950, Đức bà
Từ-Cung và một số hào lão
làng Vạn Thạnh vận động
hiến cúng Miếu cho Giáo Hội
Phật Giáo Khánh Hòa ,
vị trù
trì đầu tiên là Hoà Thượng
Thích Thiện Minh,
đặt tên
chùa là Khuôn Hội Kỳ Viên;
kế
thừa là Hòa Thượng Thích Từ
Mãn, Hòa Thượng Thích Chí
Tín, Đại đức Thích Viên Mãn.
Từ đấy thật sự Miếu Sinh
Trung đổi thành tên Kỳ Viên
Trung Nghĩa Tự . Năm 1990 ,
thầy trù trì Thích Trí Viên
cùng Phật Tử khắp nước và
địa phương phát nguyện cúng
dường trùng tu chùa : xây
dựng phần chánh điện rất
trang nghiêm, nhà Tổ và
những công trình phụ trông
rất mỹ quang như đúc tạc các
tượng Đức Di Lặc với lục tặc
đặt trước cổng chùa, tượng
Đức Quan Thế Am đứng trên
toà sen, nhìn về hướng Đông,
đặt sau lưng chùa với một
công viên trồng hoa hai bên
có những bức tường đá dùng
làm những hộc đựng hài cốt,
mặt hộc có ghi tên tuổi
người quá cố để thân nhân dễ
tìm và thăm viếng . Phía
sau chùa một khoảng đất
trống lớn xây một gác chuông
với một Đại Hồng Chung cao
hơn 1 mét bên cạnh có một hồ
nuôi cá với những hòn non bộ
và cây cảnh, cây mai chiếu
thủy nở hoa trắng suốt bốn
mùa , có cầu nhỏ bắt qua
trông rất thơ mộng ; một
tấm bia ghi tiểu sử thành
lập chùa và miếu . Bên phía
trái Chùa là một dãy nhà trù
dành cho cho việc ăn ở của
các Tu sĩ-toàn công trình
được hoàn tất vào tháng 2
năm 1992. Vào năm 1995,chùa
lại xây thêm một nhà mát tứ
giác hai tầng , dùng vào
việc tiếp khách thập phương,
đối diện với nhà trù. Ngày
nay, việc xây dựng chùa xem
như là hoàn mỹ. Một quang
cảnh tươi sáng với sân chùa
trồng toàn cây bông sứ trắng
nhụy vàng , xen lẫn những
cây hoa phượng vỹ đỏ thắm và
bức bình phong có hình con
Cọp được sơn vẽ lại làm cho
Chùa trở nên uy nghi .
Miếu Sinh Trung và đầm
Xương Huân vốn có tình "cốt
nhục" . Truyền rằng : lúc
ban sơ không có đầm cũng
không có núi . Khi nữ thần
Poh Naga giáng thế, sấm trời
nổi dậy báo cho vạn vật biết
tin, thì một con Cù sanh từ
lúc khai thiên lập địa nằm
ngủ quên trong lòng đất,
giật mình vùng dậy, những
lớp đất đá đã phủ lên mình
Cù bị hất tung lên thành Núi
và nơi Cù nằm lủng xuống
thành Đầm. Cho nên Đầm có
tên là Cù Đàm và Núi có tên
là Cù Lĩnh .
|
|
Đầm nằm ôm chân núi,
núi
đứng soi bóng vào lòng đầm.
Nước trang điểm cho non, non
trang điểm cho nước.
Tương y
tương ỷ,
ngày nắng cũng như
ngày mưa. Những đêm gió mát
trăng trong, lên núi Cù Lĩnh
xem Đầm thì cực kỳ thanh thú
như chốn bồng lai tiên cảnh.
Mặt đầm như tờ giấy
băng cơ trắng láng
và vầng trăng như
quả ấn ngàn châu
treo lơ lửng trên
bầu trời, mờ mờ dưới
chân núi là nhà cửa
với những ngọn đèn
dầu leo
lét hay ngọn
đèn điện thắp sáng
choang-cây cối chỗ
thấp, chỗ
cao ẩn hiện trong
ánh đèn khi thành
phố bắt đầu sinh
hoạt về đêm. |
Ngày nay, Cù
Đàm bị lấp đi, để xây một
ngôi chợ hình tròn, đó là
chợ Đầm Nha
Trang, Cù Lĩnh
trơ trọi một mình,
không còn
soi dưới bóng nước và chị
Hằng, con Voi trắng không có
nước để uống khi trời hạn
hán và bơ vơ giữa cảnh ồn
ào, náo nhiệt của một thành
phố đông người khi một cuộc
'di dân có qui mô' sau năm
1975.
Đặc biệt là đứng trên núi
Sinh Trung ta nhìn thấy ba
hòn núi kia tượng hình ba
con vật linh thiêng (Dơi
, Rùa , Rồng) cùng với con
Voi trắng đang hộ trì và phù
trợ cho người dân thành phố
nói riêng, người Khánh Hòa
nói chung được phát tài như
cuộc đất : Đại phú đại quí .
Theo nhà phong thủy, Huyền
Vi, viết trong cuốn sách
Thiền và Phong Thủy đã nói
về cuộc đất Nhatrang như
sau :
Hình thể thành phố Nhatrang
rất giống Con Cóc. Bãi biển
Nhatrang là bụng Cóc, hai
chân sau là vùng Cầu Đá ,
hai chân trước chạy ra đến
gần Hòn CHồng . Sóng biển
vỗ quanh năm vào bụng Cóc
Thần . Điều quan trọng là
con Cóc Nhatrang tuy ngon
lành thật nhưng chưa đủ hấp
dẫn để dụ Xà Tinh vào miền
Nam. Vậy phải làm sao thay
đổi long mạch cho con Cóc
mau chóng ngậm một hạt Minh
Châu để cho Xà Tinh tăng
thêm sự ham muốn .Sau khi
long mạch con Cóc được làm
cho vận hành mạnh mẽ , "đốt
giai đoạn " thì chợ Đầm,
ngôi
chợ chính của Nhatrang ,
bị
hỏa hoạn thiêu rụi .
Long
mạch xui khiến Kiến Trúc Sư
vẽ lại Chợ Đầm để tái thiết
lại vẽ thành một hình thể
độc đáo,
hiếm có : chợ Đầm
hình tròn! Nhìn lên bản đồ
thành phố Nhatrang ta thấy
rõ ràng hình con Cóc ngậm
hạt Minh Châu hình tròn!
Ngày
nay, nếu ta đi máy bay nhìn
xuống Nhatrang,
ta sẽ thấy
hình thể của một con Cóc
khổng lồ ngậm hạt minh châu!
So với thiết kế thì chợ Đầm
xây chưa hoàn tất,
phía bên
tay trái hai chung cư A va B
đã xong ,
còn chung cư C và
D bên phải chưa dựng nên
phần này đã hở hẳn ra,
phía
sau chợ chạy dài ra tận
nhánh sông Hà Ra một khoảng
đất trống lớn,
dân đã chiếm
cất ở lộn xộn nên không thể
xây phần nối tiếp khu chợ
trái cây và bán thịt cá với
cái cảng nhỏ cho ghe thuyền
từ các nơi vào,
tạo thành
một khối chữ T án ngữ mặt
sau. Như thế hạt Minh Châu ở
cái thế nửa kín nửa hở.
Nhưng nói về địa lý tạo
dựng mảnh
đất Nha
Trang
nhìn
từ biển Thái Bình Dương
vào,mảnh đất Nhatrang là một
bãi cát trắng rộng với bốn
hòn núi trấn bốn góc tạo cái
thế Bốn Con Thú qui tụ gồm
Long (tại Cầu Đá),Tượng
(tại Sinh Trung,
chợ Đầm),
Dơi (tai Mã Vòng) và Qui (tại Ngã Sáu).
Long Mạch
thành phố lấy hai hòn núi :
Hòn Trại Thuỷ và Hòn Thị ở
Diên Khánh làm Hữu và Tả bậc
, với bốn mặt có hai con
sông Cái và sông Đồng Bò ôm
choàng cuộc đất mà phía
Đông là biển khơi .Nhưng nếu
ta nhìn thật lâu và hình
dung bãi biển Nhatrang vừa
rộng và dài trông giống như
một lưỡi liềm bằng bạc,
cán
trở ra xóm Cồn,
mũi day xuống
Chụt, và lưỡi được sóng biển
mài dũa sáng trưng .
Chính vì
vậy thành phố Nha
Trang
mỗi
ngày càng hưng khởi lên sự
vượng khí : " Buổi sáng,
bao
nhiêu ánh ngọc ngà châu báu
nơi thủy cung đều hiện lên
mặt sóng,
trông lộng lẫy huy
hoàng.
Và những cảnh vật
chung quanh,
nhờ cái hào
quang ấy,
cũng trở nên huy
hoàng lộng lẫy tráng lệ tạo
thành một kỳ quan đẹp cho
mảnh đất Thánh này.
Buổi
trưa, biển trở thành một tấm
sa tanh xanh thêu kim tuyến
căn phơi.
Nhà cửa cây cối núi
non là những vật nhân cách
hóa thành những người đang
đứng canh giữ mảnh đất
thiên.
Buổi chiều,tất cả
biển trời cây đá đều trõ
thành gấm vóc mà bên ngoài
trùm một tấm màn bạch sa
mỏng và sưa.
Còn ban
đêm, cát hòa với nước,
không
còn phân biệt ngã với
nhân,và ánh đèn câu ngoài
khơi giăng dài trên đường
chân trới như nhừng hạt châu
kềt thành xâu đang tỏa ra
ánh sáng lúc ẩn lúc hiện.
Nếu
trời có trăng thì trước mặt
là một tấm nhung trắng kết
hoàng bảo trải dưới vòm nhà
bằng bạch cẩm nạm kim cương
, nếu trời không trăng thì
lại là một tấm nhung đen rải
hồng bảo xích ,một nửa trải
nền một nửa phất trên
trần,trong một đền thờ người
Ấn ".
Nha Trang với cảnh đẹp
tự nhiên với thiên hình vạn
trạng ,
nó đã tạo dựng một
thế phong thủy đặc biệt cho
nên khi còn là đất của
người Chiêm Thành hoặc là
đất của dân Việt ta ngày nay
và tiến dần về tương lai
thì mảnh đất này chính là
vùng đất Đại Phú và Đại Quý.
Bước vào thế kỷ 21,
thành
phố đang tiến hành xây dựng
chiếc Cầu nối liền từ bờ
xóm Cồn đến Hòn Chồng và
chạy dài ra tận bãi Tiên thì
cái thế đất chưa hoàn hảo
bởi vì cái long mạch chưa
được nối liền bởi con sông
Đồng Bò còn hở,
vậy ta chỉ
còn thêm một chiếc cầu nối
liền Cầu Đá với Đồng Bò chạy
dài đến tận Bãi Dài,
Cam
Ranh thì lúc ấy cái long
mạch ấy mới hình thành trọn
vẹn .
Nhưng muốn chiếm cái ưu thế
vững vàng nhất cho thành phố
thì phải thay đổi vị trí tòa
Thị Sảnh Nha
Trang thì mặt
hưng vượng của ngưới dân và
chính quyền càng ngày càng
cao về mọi mặt như sự xuất
hiện các tài nhân,
dân giàu
sang, chính quyền có người
tài đức ra gánh vác,
đồng
thời cũng là nơi đào tạo
nhân tài về quân sự như Hải-Lục-Không quân rất là
thuận tiện cho cả vùng Đông
Nam Á và Đông Dương (Lào và
Campuchia).
Về mặt tâm linh,
huyền bí nơi đây chính là
Thánh địa vì một vị Đại Bồ
Tát đến với cõi Ta Bà này
thuyết pháp Đại-Thừa
và Nhất Thừa trước tiên và
đây chính là cái duyên to
lớn nhất của chúng sanh và
cho người dân Nhatrang vậy .
Nhưng theo nhà Địa Lý HỨA
MINH cùng con trai là HỨA
VINH viết trong sách :'Địa
Lý Toàn Thư" do Lưu Bá Ôn và
một số tác giả ghi đã nói
như sau:
Chỉ có nơi Tứ Thú
hội họp mới được gọi là Long
Tụ Tinh.
Và để hình thành
một vùng Đại- Phú Đại-
Quý, nhân tài xuất hiện thì
khí Âm Dương cần phối hợp
tức là trước biển cả mênh
mông sau là núi rừng vây bọ.
Vậy thì Long mạch chính
nằm ở vị trí nào trong thành
phố Nhatrang? Khi ấy người
đầu Tỉnh đặt bản doanh mình
nơi ấy thì cái hào quang vi
diệu kia tỏa khắp cho mọi
người đều cùng hưởng cái
diễm phúc của vũ trụ dành
cho. Tôi không bàn rộng
vấn đề này,
xin để lại cho
những ai có Đức, có Hạnh mà
suy nghĩ,
đem cái tài mình ra
mà giúp dân, giúp nước được
cái hạnh phúc-phú quý trong
những năm kế tiếp của thế
kỷ 21