Nha Trang

Huỳnh Tấn Ðức                             ngày 14 tháng 03 năm 2004
 

Nha trang: Tứ Thú Tụ - Tứ Thủy Triều Quy

 
 
 

 

 
 

Thành phố Nha-Trang được bao quanh bởi những dòng nước nên khí hậu trở nên dễ chịu, tươi mát, mặc dù cái nắng khắc nghiệt của vùng nhiệt đới ngự trị trên thành phố này. Hai phái Nam và Bắc của con sông Nha-Trang, phái chảy vào Cửa Bé,phái chảy xuống Cửa Lớn, ôm choàng cuộc đất mà phía Đông là biển lớn Thái Bình Dương,nên gọi là Tứ Thủy Triều Quy. Rồi mượn bốn hòn núi ở ngay trong thành phố tượng hình thành bốn con thú tụ họp lại để giữ anh khí, nên gọi là Tứ Thú Tụ. Những hòn núi này là :


 I. Hòn Trại Thủy: là một hòn độc sơn, nằm ngay ở địa đầu thành phố Nhatrang về hướng Tây. Núi cao hơn 30 mét, dài hơn 500 mét, chạy dọc theo  Quốc Lộ 1 ở phía Bắc khi con đường Cải Lộ Tuyến (nơi ngã Ba Thành chưa hoàn thành ). Hình thù ngọn núi Trại Thủy giống một con Dơi, nằm sè đôi cánh,đầu hướng về Tây-Nam.Cổ nhân gọi là "Ngọc Bức Hàm  Hòan " (Dơi ngọc ngậm vòng ngọc) vì trưóc núi, tại 'đầu Dơi' có một bầu nước hình tròn như nguyệt nhưng ngày nay bị lấp mất, dân chúng cất nhà trên bầu nước này và không còn nhận ra hình dạng của nó nữa .
 Triền phía sau toàn đá hoa cương và dốc ngược: giáp Đình Phương Sài, chạy dài lên tận đường rầy xe lửa  xóm Lò Vôi (Ngọc Hội).
 Triền phía trước  hơi lài lài, cũng bằng đá hoa cương nhưng có lẫn đất điệp .Phía dưới có một khoảng đất rộng, dân đến chiếm xây nhà lập nghiệp, gọi là đất Bà Ngô Đình Nhu, đối diện công trường Trịnh Minh Thế và nhà Ga Thành Phố, với những hàng me xanh tươi.
 Trên núi không có cây cổ thụ, không có bàn thạch nhưng do sự chiếm cứ của dân nên có trồng những cây ăn trái như mít, mận, xoài, chùm ruột, cốc.. và từ xa nhìn đến thấy cả một màu xanh đang trở mình đầy sinh động .
 Trên lưng núi cũng tạo thành một con đường mòn,chạy dài từ đầu tới đuôi của hòn núi. Nơi đây một Kim Thân Phật Tổ được xây cất, rất đồ sộ .
 Núi Trại Thủy thường gọi là Hòn Xưởng. Tên chính thức đã được 'trước bạ' trong sách vở là Khố Sơn, tục danh Hòn Kho.


 Đại Nam Nhất Thống Chí chép:
 "Khố Sơn ở phía Đông huyện Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía Đông Nam có nền cũ kho Phước Sơn nên đặt như thế. Phía Bắc gần sông Ngu Trường. Năm At Mão đầu lúc Trung Hưng (1795) đại binh đánh phá tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu ở bảo Khố Sơn tức là chỗ này. Trên núi có đền Quan Công và miếu Ngũ Hành."


 Ly sở Vĩnh Xương trước kia đóng ở Phú Vinh, nên sách nói "Khố Sơn nằm ở phía Đông ". Và kho Phước Sơn là kho chứa lương thực từ thời Chúa Nguyễn .
 Nhà Tây Sơn chiến thắng chúa Nguyễn, lập xưởng đóng thuyền bè tại Hòn Kho. Từ ấy núi mang tên Hòn Xưởng."


 Sau khi lấy lại được Diên Khánh, Nguyễn Phúc Ánh lập trại nơi Hòn Xưởng,gần bến Trường Cá (tức Phương Sài) để thuỷ binh đóng giữ mặt biển. Người địa phương bèn gọi là Hòn Trại Thủy.
 Sang thời Pháp thuộc, tên Trại Thủy được ghi trên các bàn địa đồ và trên giấy tờ của Chính Phủ.
 Hòn Trại Thủy đứng giữa đất bằng, nhiều người tưởng là một hòn núi độc lập. Nhưng theo các nhà địa lý học thì núi thuộc hệ thống vùng núi Cao Nguyên. Và các nhà Phong Thủy, tục gọi là Thầy Địa, cho biết rằng đó là Trấn Thủy Khẩu của dãy núi phía Tây Diên Khánh. Long mạch phát từ Hòn Thị (ở Bình Khánh, Diên Khánh),chạy ngầm dưới đất đến gần cửa sông Cù thì đột khởi làm cột trụ giữ anh khí cho cuộc đất Diên Khánh, Vĩnh Xương. Và thành Diên Khánh lấy Hòn Thị ở phía Tây làm hữu bậc, lấy Hòn Trại Thủy ở phía Đông làm tả bậc. Vì vậy,về mặt phong thủy, hòn Trại Thủy là hòn núi quan trọng tỉnh Khánh Hòa .
 Và trông thấy Hòn Trại Thủy có vẽ hiền lành, mấy ai ngờ rằng trước kia đã xãy ra nhiều cuộc quyết chiến ngay dưới chân núi. Đó là những trận đánh ác liệt giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn năm Quí Sửu (1793) và năm Giáp Dần (1795) tại bến Trường Cá. Và năm t Dậu (1885) Nghĩa Quân Cần Vương đã dùng nơi đây làm căn cứ chống Pháp.
 Ngày nay, hòn Trại Thủy được trở thành một danh lam thng cảnh nổi tiếng với năm ngôi Chùa  đồ sộ với chứng tích lịch sử của thời kỳ hưng thịnh Phật Giáo Việt-Nam, như sau  :
 


 Chùa Hải Đức : Xưa kia Chùa nằm phía trên chùa Hội Phước. Được xây đựng  trên đỉnh núi, nhánh phía Tây, do ngài Viên Giác Thiền Sư, pháp danh Đạt Khương, tục danh Tô Văn Danh, quê quán làng Vạn Thạnh (Nhatrang), trụ trì từ năm Tự Đức (1847-1883). Ban đầu đặt tên là Duyên Sanh Tự. Đến năm Thành Thái  thứ ba (1891), mới đổi tên là Hải Đức Tự. Hiện nay là một Đại Tòng Lâm, để tăng chúng khắp nước tụ họp về đây tu học, tham thiền nên chùa được xây dựng đầy đủ tiện nghi như một Phật Học Viện có Tăng phòng, tịnh thất..Phía sau lưng chùa có xây một tiểu đình để treo một Đại Hồng Chung, cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng 1009 Kg. Tiếng chuông ngân rất xa,đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn mộ đạo hay báo hiệu giờ giấc sớm chiều cho người dân  sống quanh ngọn núi nhỏ này mà bài thơ sau đây cũng  diễn tả  một bức  tranh Thiền sinh động :


  "Sương xuống hồi chuông lặng
  Dư âm tràn hư không
  Lững lơ vàng gợn sóng
  Trăng hồ Thu mênh mông "


Ngài Viên Giác Thiền Sư viên tịch, các môn đệ kế tiếp nhau trụ trì :


 -Chánh Niệm Đại Sư , húy Chơn Minh .
 -Nhân Thụy giáo thọ, húy Như Khánh .
 -Phước Huệ hòa thượng,húy Ngộ Tánh .


 Phước Huệ hòa thượng, tục danh là Nguyễn Hưng Long, người Quảng Trị, được Viên Giác thiền sư thọ ký lúc 16 tuổi (1890). Năm 20 tuổi, phải bái biệt bổn sư về quê hương lo báo hiếu cho thân phụ. Rồi vào Huế tu hành. Mãi đến 15 năm sau mới trở lại Nha Trang. Vào lúc này chùa Hải Đức bị hư dột vì lâu đời, Hòa thượng ra công sửa chữa và khôi phục được  quang cảnh ngày xưa.Năm 1956, Hòa thượng cùng ban Hộ Tự chùa cúng dường chùa và bất động sản liên hệ cho Phật Giáo Trung Phần để thành lập Phật Học Viện Trung Phần và ủy quyền Thượng Tọa Thích Trí Thủ làm Giám Viện, thay mặt toàn ban điều khiển mọi sinh hoạt của Viện. Viện lại có một quả hồng chung, chú tạo năm 1961,kích thước phỏng theo quả hồng chung chùa Thiên Mụ ở Huế. Cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng hơn 1000 kg. Chuông treo nơi Tiểu Đình phía sau chùa Hải Đức, nơi dốc lên Tịnh Thất. Rồi tuổi g sức yếu, việc đi lại khó khăn, năm Bảo Đại thứ 14 (1938), Hòa thượng bèn giao nhiệm vụ trụ trì chùa cho Bích Không Đại Sư.
 Bích Không Đại Sư, pháp danh Trừng Đàn, tục danh Hoàng Hữu Đàng, quê quán Quảng Trị. Xuất thân  trong một gia đình khoa bảng. Đậu Tú Tài năm Mậu Ngọ(1918). Đắc pháp Đại Sư năm t Hợi (1935) trong giới đàn chùa Sắc tứ Tịnh Quang tỉnh Quảng Trị do Hòa Thượng Phước Huệ làm đàn đầu truyền giới. Nguyên Đại Sư là trụ trì chùa Giác Phong tỉnh Quảng Trị, nên cũng gọi là Giác Phong Đại Sư .
 Rồi tri bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu cực nhọc, Đại Sư mới trưng đất mới dỡ được non, nới rộng đất trên núi Trai Thuỷ và khởi công từ đầu năm Quí Mùi (1943) đến đầu năm Ất Dậu (1945) mới cáo thành ngôi chùa Hải Đức to lớn nhất, đẹp đẽ nhất. Nhưng chùa chưa kịp lạc thành thì gặp quốc biến năm At Dậu (1945),Đại Sư di cư về Huế, Quảng Trị, Nghệ An. Và năm 1954, ngài thị tịch tại Nam Đàn (Nghệ An). Ngày nay tại chùa vẫn còn bút tích của Đại Sư được  khắc chạm trên vách, trên cột mà mưa nắng vẫn còn nguyên .
 Có thể nói một cách mạnh dạn rằng đó là những tuyệt phẩm của Thiền Môn Khánh-Hòa.


 Nơi hàng cột ở chánh điện, có ba câu đối liên.
 Câu chính giữa :
 Hải thuỷ trừng thanh vạn tượng tề hiện;
 Đức hương ôn nhã nhất thiết mông huân .

 Câu kế :
 Hạnh thảo tác thân mao đoan hiện sát;
 Vi phong thuyết pháp ngoạn thạch điểm đầu
.
 Câu hai bên :
 Kim Sơn Long Sơn tại kỳ tả hữu :
 Nha Hải Phước Hải bổn bất khứ lai .

 Nơi vách mái hiên ngó ra sân, mỗi vách khắc bốn đại tự, mỗi bề rộng đến bốn tấc Tây .
 Bốn chữ vách tả ( vách phía Đông ):
 TRÚ BÌNH ĐẲNG HỘI
 Bốn chữ nơi vách hữu ( vách phía Tây ):
 TÁC NHƯ THỊ QUÁN
 Nơi lầu chuông ở phía Đông khắc 8 chữ :
 PHỔ ĐOẠN SANH TỬ , HƯỞNG BIẾN HÀ SA .
Ý nghĩa thâm viễn. Phải thấm  đạo lý của Đức Phật, mới thưởng thức nổi những cái hay cái đẹp dưới những nét thanh lão của ngọn bút tài ba đã đượm nhuần giáo lý Đại Thừa .


Chùa  Bửu Phong : cũng ở trên đồi Trại Thủy, nơi đầu nhánh phía Nam, cạnh đường quốc lộ 1 (nay là mộ con lộ rộng thêng thang chảy từ Thành xuống thành phố), đứng tai nơi ngã ba vào xóm Xưởng nhìn lên không thấy Chùa vì bị những lùm cây che khuất .
Chùa này do người Trung Hoa lập, từ đời Hậu Lê.Trong chùa hiện còn một quả Đại Hồng Chung, có khắc tên chùa"Bửu Phong Tự" và năm chú tạo "Tuế Thứ Quí Dậu Niên Tứ Nguyệt Cát Nhật " tức là năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753).
 Chùa thờ Quan Thánh tức Quan Vân Trường đời Tam Quốc.
 Lâu đời không có người phụng tự, chùa trở thành chùa làng(làng Phước Hải). Làng vẫn thờ ngài Quan Thánh nhưng gian bên thờ thêm Bà Chúa Ngọc Thiên  Y-A-NA. Người địa phương thường gọi là Chùa Núi.
 Dưới triều Bảo Đại (1925-1945) khi phong trào chấn hưng Phật Giáo phát động trong nước, làng Phước Hải hưởng ứng, cải chùa thờ Thánh thành chùa thờ Phật. Sau khi chùa Linh Phong trên Xuân Phong bị cháy và dời xuống Xuân Lạc đổi tên là Liên Hoa, thì có người được tấm biển "Linh Phong Cổ Tự" đem cúng cho chùa Bửu Phong, chùa giữ làm kỷ niệm.
 Rồi chiến tranh bùng nổ, các chùa cũng lâm vào hòan cảnh khó khăn. Sau ngày đình chiến 1954, một nhà sư ở Huế vào trụ trì chùa, thấy tấm biển "Linh Phong Cổ Tự" nơi chùa, đinh ninh là tên chùa. Khi tu bổ lại chùa, bèn đắp trước hiên,khắc trước ngõ bốn chữ "LINH PHONG  CỔ TỰ" . Từ ấy chùa Bửu Phong là Linh Phong. Nếu không có quả Đại Hồng Chung không ai biết đến chùa  có tên là Bửu Phong .
 Chùa cất theo kiểu trùng thiềm. Cây gỗ tốt. Song vì đã quá lâu đời mái đã quằn, cột đã xiêu. Đường lên chùa dốc thẳng đứng, các bậc  đá gập gềnh lỏng chỏng, bị vỡ hay mất đi khá nhiều làm cho việc di chuyển lên xuống khó khăn, tạo cho cảnh trí thêm hoang vắng,khiến cho khách vãng cảnh cảm thấy e ngại .
 Hòn Trại Thủy hình giống con Dơi nằm sè đôi cánh, đầu hướng về phía Tây Nam.Chùa Bửu Phong đứng trên đầu con Dơi phía hai bên tả hữu bị thân Dơi và hai cánh che khuất chân mây, song phía trước nào núi nào đồng, nào xóm làng, nào phố xá, dường xe lửa..sống động nhưng không ồn ào. Nếu Chùa Bửu Phong  làm mặt bằng tốt để xây một ngọn Tháp  nhiều tầng như  ở Thái Lan, Cao Mên hay như ngọn Tháp Thiên Mụ thì phong cảnh hòn Trai Thủy nói riêng, phong cảnh thành phố Nhatrang nói chung, sẽ nổi tiếng và tăng phần mỹ quang cho thành phố du lịch trong thế kỷ  21 này.
 *Chùa Long Sơn : Chùa nằm dưói chân hòn Trại Thủy,mặt hướng về Nam-Đông. Chùa Long Sơn trước có tên là Đăng Long Tự, còn gọi là Chùa  Tỉnh Hội  Khánh Hòa, được  xây dựng trên núi  vào năm 1886 do Hòa thượng Thích Ngộ Chí (1856-1935) trụ trì, là người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Năm Canh Tý (1900), sau một trận bão lớn, chùa phải dời từ trên núi xuống vị trí  hiện nay. Năm 1936 , chùa được Hội Phật Học chọn làm trụ sở Phật Giáo Tỉnh Khánh Hòa. Năm 1940,chùa được trùng tu do công lao của toàn thể tín đồ trong tỉnh. Năm 1968 , chùa phải sửa chữa lại. Năm 1971-1975,Thượng Tọa Thích Thiện Bình đứng ra lo trùng tu chùa, việc trùng tu mới này thực hiện được 60%theo họa đồ của Kiến Trúc Sư Võ Đình Hiệp. Chùa kiến trúc theo kiểu tân thời,có tánh chất Đông Phương .Nhưng  ở vị trí tốt, được cất trên một trảng đất cao, rộng nhìn ra đường quốc lộ 1. Trước chùa có nhiều cây lớn và hàng dừa chạy dài từ Tây sang Đông che mát cho ngôi trường Trung Học Bồ Đề, đây chính cũng là sự thuận lơi cho du khách viếng thăm Chùa trong những ngày Đại Lễ  như lễ Phật Đản, Vu Lan hay ngày Tết (Vía  Đức Phật Di-Lặc ) để nghe thuyết pháp, cầu nguyện. Tuy gần đường xe hơi xuống lên từ Thành đến thành phố,chùa vẫn giữ được vẽ thanh tịnh, trang nghiêm. Trong các danh lam thắng cảnh ở Khánh Hòa, chùa được nhiều du khách thường lui tới thăm viếng nhiều nhất.Muốn đi lên thăm kim thân Phật Tổ, chúng ta cũng có thể dùng con đường sau lưng chùa đi lên rất là gần  nhưng con đường bằng đá hoa cương quá hẹp nên  vào những ngày Lễ thì chỉ còn cách chen nhau, kẻ tránh người né làm cho  cảnh trí ồn ào,náo nhiệt  khiến cho mọi người cảm thấy bồn chồn, thích thú mất cái mỏi gối, đau chân-nam thanh nữ tú lòng thấy rộn rã như những  cây xanh đang  đâm chồi nẩy lộc vào những ngày Xuân lên viếng chùa. Ngày nay trước sân chùa có xây thêm một ngôi nhà bán các  vật kỷ niệm và kinh sách Phật .
 Từ khi thành lập đến nay, chùa do các nhà sư sau đây trụ trì : Hòa Thượng Thích Ngộ Chí (1886-1935), Thượng Tọa Thích Chánh Hóa (1936-1957), Thượng Tọa Thích Chí Tín ( 1957 về sau ).
 Sau lưng trên đồi Trại Thủy, ở lưng đồi có kiến tạo một Kim Thân Phật Tổ với chiều cao từ mặt bằng lên 24 m, từ đế lên 21m , phần tượng cao 14 m, đài sen 7m, đường kính đài sen 10 m,. Xung quanh đài là hình bảy vị Thánh tử vì đạo. Trước Phật đài có cặp rồng, chiều dài 7,20 m. Việc đúc tượng khởi công vào năm 1964,hoàn thành năm 1965 do Hòa Thượng Thích Đức Minh, lúc đó là Hội Trưởng Tỉnh Hội Phật Giáo Khánh Hòa và điêu khắc gia Kim Điền thực hiện .
Chùa Tỉnh Đức : nằm tọa lạc ở triền núi phía Đông, hướng về  đường Trần Quý Cáp và công trường Trịnh Minh Thế, đi lên chùa từ con  đường nhỏ từ bên hông ngôi nhà bán vật liệu xây dựng đối điện với cây xăng Mã Vòng. Ngôi chùa này do các Sư cô thành lập để tu tập và dân địa phương thường gọi là Chùa Nữ. Chùa được xây cất theo lối tân thời không có gì đặc sắc.
 *Lôi Am Tự : Tọa lạc ở phần cuối của hòn Trại Thủy, hướng về phía Đông,nằm phía trước bồn chứa nước thành phố và kim thân Phật Tổ. Chùa Lôi Am do Phật Hội  Pháp Hoa Việt Nam xây dựng từng phần vào năm 1966. Hội Pháp Hoa được một vị Giáo Chủ đã chứng quả vị Tuyệt- Đối, hướng dẫn cho mọi người tu theo con đường Nhất Thừa của đạo Phật, được giải thoát trong kiếp hiện tại.
 Vào những năm đầu, hội Pháp Hoa xây một hội trường để Đạo Chúng có nơi sinh hoạt với đầy đủ tiện nghi nào là nhà trù,bếp,nhà vệ sinh.. tiếp đến là  xây dựng khu thiền thất phía sau chùa với hai hàng cốc dành cho  thiền sinh khắp các tỉnh trên toàn quốc về đây tu học và tham thiền. Sau đó xây đựng  một cốc  Biệt Giáo và cốc Vô Ưu . Bên phải Chùa phần đất được nới rộng và tạo dựng khu Quán Không Thiền Viện dành riêng cho phái nữ  đã xuất gia . Như thế, hàng đêm đạo chúng bao gồm mọi giới như giáo sư, sinh viên, học sinh, công chức, dân lao động, nông dân.. từ dưới thành phố hay các vùng phụ cận như Thành, Cam Ranh, Cầu Đá hay các tỉnh trong nước về đây để nghe thuyết pháp, học giáo lý, tham thiền, sinh hoạt..Từ ngày đặt viên đá  đầu tiên  năm 1967, Chùa tiến hành xây cất được phần hậu diện Chùa và cột cờ,riêng phần cổng Tứ Quán được thay thế tạm bằng cổng Tam Quan. Thiết kế Chùa được  các nhà thầu khoán Giáo sư Nguyễn Hữu Dưỡng, Huỳnh Ngọc Điển … thi công với sự  dạy vẽ của Giáo Chủ Pháp Hoa .
 Chùa được các vị Huynh trông nôm như Huynh Như Trí, Huynh Pháp Hư (G/S Hồ Viết Đốc ) và sau cùng là Huynh Pháp Doãn. Khi Cộng Sản tiến chiếm miền Nam với chánh sách tiêu diệt tôn giáo,chùa Lôi Am bị gài vào tội chống phá lại  chế độ nên trong một đêm cuối năm 1975, Công An đột nhập vào chùa tịch thu tất cả tài sản  và tiến hành đập phá chùa, nay chùa chỉ còn lai cổng Tam Quan nơi triền dốc. Và trong chùa vẫn còn hai nấm mộ cuả người Hời hay Chàm chôn từ  lúc  nơi đây là quốc gia cũa họ.Muốn lên chùa,có thể đi bằng hai ngã đường: Đường từ Phương Sài, chéo góc nhà hộ sanh Bác sĩ Tý, đi vào xóm lao động thuộc đất bà Ngô Đình Nhu ; ngã thứ hai là bên đường Trần Quý Cáp, bên hông đồn Quân Cảnh cùng với lối đi lên chùa Tịnh Đức, đi dọc theo triền núi.Cả hai ngã đều qui về cổng Tam Quan "Lôi Am Tự".
 Chùa Lôi Am tọa lạc ở vị trí của cánh phải,chân phải của con Dơi, nên khi đào hồ chứa nước Quán Không Thiền Viện đã làm thương tích long mạch .
 Muốn nhìn toàn diện thành phố Nhatrang chỉ có vị trí Chùa Lội Am ta mới ngắm được toàn cảnh từ Bắc (Tháp Bà, Dòng La San, Xóm Bóng,Cồn Dê, Hộ,Xóm Lò Vôi..) kéo dài về biển Đông (hòn En, hòn Tre, đường Duy Tân , Bãi biển, Cầu Đá)  băng qua phía Nam (cửa Bé, núi Đồng Bò , khu Phước Hải ..).Chính vì thế vào năm  Mậu Thân 1968,Cộng quân đã chiếm vị trí này để đóng bộ chỉ huy tiện  việc điều động  quân đánh chiếm thành phố nhưng Quân Lực  Việt Nam Cọng Hòa cũng đánh gía tầm quan trọng của vị trí này và cho phi cơ trực thăng phóng pháo ngay vào chổ này tiêu diệt ngay bộ đầu não Cộng quân từ lúc đầu cuộc tấn công vào ngày mồng 1 Tết Mậu Thân .
  Từ một khu đất hoang nay  đã khang trang với các loại cây ăn trái trồng khắp chùa , nào là mận,ổi,mít,cốc,chùm ruột,chuối,mãn cầu …làm cho mảnh đất trở nên có sinh khí nhưng bây giờ đã hoang tàn bởi do một chế độ khắc nghiệt , phá hoại; lại thêm phần không có nước và  người chăm sóc vì thế chỉ là chổ dung thân của những kẻ không nhà và nghiện ngập sau một ngày lang thang khắp phố trở về đây dung thân tránh mưa dưới mái chùa hoang này

 


 2 . HÒN HOA-SƠN : tục gọi là Núi Một, ở quận Nhatrang Tây (nay đổi thành phường Phước Tiến và Phước Tân ) . Đi vào thành phố bằng con đường Gia-Long (nay là Thái Nguyên), qua Mã Vòng, đến nhà Ga Xe Lửa và gặp ngay Ngã Sáu-nhìn bên phải thấy một giáo đường to lớn , đồ sộ,uy nghi chọc thẳng lên trời và được xay trên một hòn núi nhỏ, đây chính là hòn Hoa Sơn.
  Nguyên thủy lúc ban sơ, hòn núi này không bị cắt thành hai cụm núi nhỏ, nó trông giống con Rùa vì phần núi nhỏ hướng ra biển Đông như "đầu Rùa", trên có ngọn cổ Tháp nhỏ; phần núi lớn hướng về phía Tây là 'thân Rùa , nên gọi là  "Kim Qui đới Tháp ", nghĩa là Rùa Vàng đội tháp .
 

Vào thời  vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786), một vị Thiền Sư, pháp danh Phật An đến cất một am tranh tu khổ hạnh trên hòn Núi Một-Năm Bình Ngọ 1786, vị Thiền Sư thiết hóa trà tỳ (tự hỏa tán), đệ tử thâu xá lợi, xây Liên Hoa tháp thờ phụng ở trên đầu hòn núi Một .
 
 Khi người Pháp chiếm cứ tỉnh Khánh Hòa, núi Hoa Sơn chỉ có một ngọn cổ tháp của Thiền Sư Phật An và  nơi 'cổ Rùa' người ta khai phá một con đường mòn đi qua vùng Phước Hải-Đồng Bò để kiếm củi, đốt than, bắt cá hay đi chặt những nhánh mai vào dịp gần Tết, vì đây là một động mai vàng tuyệt đẹp, được khen qua những vần thơ  :


  Mã Vòng đêm trắng,ma trêu nguyệt,
  Phước Hải rừng mai,cọp thưởng Xuân .

Hay : 

 Biển En sóng vờn trăng thúy liễu,
  Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai . 


 Khi đất nước chia đôi, dân miền Bắc di cư vào Nam, thành phố Nhatrang cũng đã tiếp nhận một số khá đông  đồng bào  miền Bắc và họ đã định cư tại khu Xóm Mới -Phước Hải vì thế thành phố nới rộng ra và phát triển mạnh và con đường mòn qua cổ Rùa trở thành con đường Phước Hải (nay là Nguyễn Trãi ) với chiều rộng 8 mét, hai bên đường nhà cửa mọc lên như nấm và từ đấy hòn Hoa Sơn bị cắt hẳn thành hai phần rỏ rệt, khu rừng mai Phước Hải cũng mất luôn với những cây xương rồng trổ hoa màu đỏ khi hè về, nay thì dân chen chút nhau mà sống .
 Riêng ngôi giáo đường trên phần núi còn lại vẫn  như ngày nào . Vào năm 1930-1935, một nhà truyền giáo  người Pháp tên là Vallet, kiến lập ngôi giáo đường này. Nhà thờ kiến trúc không giống như những giáo đường trong nước và đặt tên là Nhà Thờ Chánh Tòa Nhatrang , dân địa phương gọi là nhà thờ ông Cố hay nhà thờ Núi. Nhà thờ vừa cổ kính,trang nghiêm-vừa tân kỳ vì vật liệu xây dựng toàn là xi măng  với những kính đủ màu lắp trên các cửa sổ, vách khi ánh sáng mặt trời vừa  hừng đông chiếu vào tạo thành  nhiều màu sắc rực rỡ, đẹp lạ thường , kỳ  ảo ẩn hiện những  bức tranh có tánh cách tôn giáo và đứng chắc trên một đầu non, với bộ áo xám tro', hình tướng trông nửa như khiêm nhường, nửa ngạo nghễ. Đi lên nhà thờ chúng ta có  thể dùng hai lối đi: một con đường bằng đá hoa cương chạy từ dưới ngã Sáu chạy  men theo triền núi phía Nam lên tận  sân giáo đường với chiều rộng khoảng 8 mét, có thể dùng xe hơi lên cũng được và một con đường khác bên hông trường Hưng Đạo (đường Gia Long ) ta phải đi bằng  chân với những bậc cấp xi măng . Phía bên trái nhà thờ  có xây một hang đá "Tiểu Vương Cung" thờ Đức Mẹ Maria, được che mát bởi cây đa lớn  nhiều lá.
 Lầu chuông cao ngất!
 Lên đứng nơi gác chuông nhìn bốn mặt, thì vọng cảnh trùm cả toàn diện thành phố Nhatrang. Trông tới ngó lui,nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm điểm của một vùng đất giàu sang trù phú với biển xanh, núi cao, đồng bằng  với hòn non bộ nhỏ này. Tiếng chuông làm cho ta thức tỉnh nhưng  xung quanh tháp chuông có gắn bốn cái đồng hồ to thường báo hiệu giờ giấc cho mọi người trong  thành phố sớm hôm đi làm .

3. NUÍ CẢNH LONG :
 

 Núi Cảnh Long ở Chụt, là Con Rồng
 Cảnh là bờ cõi - Long là tốt, thịnh. Không hiểu cổ nhân thủ nghĩa ra sao, có người hỏi cụ cử Phan Bá Vỹ làm ký lục Tòa Sứ Nhatrang thời tiền chiến , cụ đáp :
 - Có lẽ ông cha chúng ta biết trước rằng thế nào vua ta cùng các auan bảo hộ cũng đến cất dinh thự để làm nơi  thừa lương nên mới đạt tên là nuí Cảnh Long. Hình nuí chạy dài theo bờ biển, giống như một con Rồng xanh. Cổ nhân gọi là "Thanh Long  hý thủy" tức là Rồng xanh giỡn nước .
 


 Con đường Duy Tân (nay là đường Trần Phú) chạy ngang qua  phi trường Nhatrang và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, rồi đến Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, chạy đến tận Chụt, con đường đổi thành tên là Đường Tự Do và vượt qua một dốc nhỏ, thấy ngay Cảng Cầu Đá và Hải Học Viện bên tay trái. Chính con dốc này cắt ngọn nuí Cảnh Long thành hai phần: một phần nhìn ra  biển, gọi là "đầu Rồng " ;  phần còn lại chạy dài đến tận cửa  Bé, gọi là "mình Rồng ". Ngoài ra còn có một con đường piste chạy vòng theo từ sườn phía Đông cho đến Cửa Bé (cảng cá Vĩnh Trường ), chạy vòng lên sườn phía Tây, để xuống đất bằng trở về Chụt, đường này có thể gọi là " đường vòng mỹ cảnh ". Ngoạn mục nhất là đơạn đường chạy ra biển. Nằm trên lưng chừng núi, đường khi lên khi xuống, uốn éo quanh co , như con rắn bò quanh hòn non bộ.
 Trên đầu núi về phía Cầu Đá có lầu Bảo Đại và nhiều dinh  thự  của người Pháp xây  vào thời Pháp thuộc. Hiện nay cũng là nơi nghĩ mát của các vị lãnh đạo Trung Ương ,đồng thời cũng mở cửa cho du khách vào thăm viếng coi như là nhà bảo tàng của thành phố .
 Bên dưới "đầu Rồng" sát chân núi là viện Hải Dương Học, do phủ Toàn Quyền Đông-Dương xây dựng năm 1927 và bàn giao lại cho chánh phủ Việt Nam Cọng Hòa vào năm 1952 . Viện được xây theo lối kiến trúc Tây Phương ,tọa lạc trên một khu đất rộng 20 mẫu tây, phạm vi bao trùm cả phần bên dưới đầu con Rồng. Cơ sở viện chia làm hai phần:
 - Nhà của cấp Chỉ Huy gồm 5 ngôi biệt thự ,khang trang, cất trên đỉnh  núi cách mặt biển chừng 35 m và ẩn hiện trong  bóng  xanh của những cây Bàng lâu đời , lá thay đổi bốn mùa.
 -Viện chính thức: một sở nhà lầu đồ sộ, cất dưới chân núi phía Đông,trên một khoảng đất bằng phẳng , cách mặt biển 4m . Bao gồm : Một tòa nhà lầu hình khối  chữ nhật, ba tầng với hai tầng lầu một; tầng trệt cao 12 m, dài 40 m; hai tầng lầu dùng làm phòng thí nghiệm, thư viện và văn phòng. Tầng trệt dùng nuôi những giống cá lạ ở dưới biển.. để cho công chúng thưởng lãm ( Aquarium). Một tòa lầu thứ hai, kiểu thức giống như tòa thứ nhất nhưng nhỏ thua,nằm phía Nam tòa thứ nhất, sát chân dốc, mặt ngó ra hướng Bắc dùng làm phòng nghiên cứu về Sử, Lý Hóa…trong ngành Hải học . Một nhà bảo tàng, rộng 400 mét vuông, cao 5m ,nằm phía sau chính viện và dùng cất giữ những giống thủy tộc sưu tập được ( Hall des collections ) .


 4. HÒN SINH TRUNG : là một hòn độc sơn , đứng trên mé đầm Xương Huân, cạnh bến Hà Ra của con sông Cù, nơi đây có một bến xe  chạy các  vùng lân cận phía Bắc- Nam như Ninh Hòa, Tu Bông , Đại Lãnh, Cam ranh …(Nay bến xe chuyển lên Mã Vòng ) .
 Các thầy Địa Lý gọi là "Bạch Tượng quyện hồ" tức là Voi trắng cuốn hồ .
 Núi Sinh Trung không cao lắm, đi lên đỉnh núi chỉ cần bước  trên 90 bậc cấp, được làm bằng xi măng, ngay chân núi có xay một cổng Chùa mặc dù trên đỉnh núi vẫn còn cổng Miếu  cũ , nay đã trùng tu rất đẹp. Đối với thành phố Nhatrang thì núi Sinh Trung chẳng khác nào như một hòn non bộ đứng trong vườn cảnh xung quanh có sông nước bao bọc; rừng dừa, cây cối, dương liễu xếp thành hình vòng cung theo dọc bờ biển. Quanh núi toàn hững cây dẹp mọc (loại cây, dân chúng thường dùng để trị bệnh sán lãi ).
 Trên đỉnh núi là một vùng đất rộng khoảng hơn  150 m chiều dài và 100 m chiều ngang nhưng thiết trí chùa cũng rất gọn và trang nghiêm. Vào năm 1802- 1852,triều Nguyễn dựng một cái Miếu thờ 350 vị công thần bị tử trận hay bị mệnh vong trong khi tranh hùng với nhà Tây Sơn ,miếu có tên là Tinh Trung , sau đổi là Sinh Trung. Tên núi mượn  tên Miếu mà kêu. Người địa phương cũng thường gọi là núi Ha Ra . Ha Ra là tên khu vực . Sách Đại Nam chép là A  La. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) trùng tu miếu và đặt lại tên là Trung-Nghĩa miếu . Đến năm 1945 -1950, Đức bà Từ-Cung và một số hào lão làng Vạn Thạnh  vận động hiến cúng Miếu cho Giáo Hội Phật Giáo  Khánh Hòa , vị trù trì đầu tiên là Hoà Thượng Thích Thiện Minh, đặt tên chùa là Khuôn Hội Kỳ Viên; kế thừa là Hòa Thượng Thích Từ Mãn, Hòa Thượng Thích Chí Tín, Đại đức Thích Viên Mãn. Từ đấy thật sự Miếu Sinh Trung đổi thành tên Kỳ Viên Trung Nghĩa Tự . Năm 1990 , thầy trù trì Thích Trí Viên cùng Phật Tử khắp nước và địa phương phát nguyện cúng dường trùng tu chùa : xây dựng phần chánh điện rất trang nghiêm, nhà Tổ và những công trình phụ trông rất mỹ quang như đúc tạc các tượng Đức Di Lặc với lục tặc đặt trước cổng chùa, tượng Đức Quan Thế Am đứng trên toà sen, nhìn về hướng Đông, đặt sau lưng chùa với một công viên trồng hoa  hai bên có những bức tường đá dùng làm  những hộc đựng hài cốt, mặt hộc có ghi tên tuổi người quá cố để thân nhân dễ tìm  và thăm viếng . Phía sau chùa một khoảng đất trống lớn xây một gác chuông với một Đại Hồng Chung cao hơn 1 mét bên cạnh có một hồ nuôi cá với những hòn non bộ và cây cảnh, cây mai chiếu thủy nở hoa trắng suốt bốn mùa , có cầu nhỏ bắt qua trông  rất thơ mộng ; một tấm bia ghi tiểu sử thành lập chùa và miếu . Bên phía trái Chùa là một dãy nhà trù dành cho cho việc ăn ở của các Tu sĩ-toàn công trình được hoàn tất vào tháng 2 năm 1992. Vào năm 1995,chùa lại xây thêm một nhà mát tứ giác  hai tầng , dùng vào việc tiếp khách thập phương, đối diện với nhà trù. Ngày nay, việc xây dựng chùa xem như là hoàn mỹ. Một quang cảnh tươi sáng với sân chùa trồng toàn cây bông sứ trắng nhụy vàng , xen lẫn những cây hoa phượng vỹ đỏ thắm và bức bình phong có hình con Cọp được sơn vẽ lại  làm cho Chùa trở nên uy nghi .
 Miếu Sinh Trung và đầm Xương Huân vốn có tình "cốt nhục" . Truyền rằng : lúc ban sơ không có đầm cũng không có núi . Khi nữ thần Poh Naga giáng thế, sấm trời nổi dậy báo cho vạn vật biết tin, thì một con Cù sanh từ lúc khai thiên lập địa nằm ngủ quên trong lòng đất, giật mình vùng dậy, những lớp đất đá đã phủ lên mình Cù bị hất tung lên thành Núi và nơi Cù nằm lủng xuống thành Đầm. Cho nên Đầm có tên là Cù Đàm và Núi có tên là Cù Lĩnh .
 
  Đầm nằm ôm chân núi, núi đứng soi bóng vào lòng đầm. Nước trang điểm cho non, non trang điểm cho nước. Tương y tương ỷ, ngày nắng cũng như ngày mưa. Những đêm gió mát trăng trong, lên núi Cù Lĩnh xem Đầm thì cực kỳ thanh thú như chốn bồng lai tiên cảnh. Mặt đầm như tờ giấy băng cơ trắng láng và vầng trăng như quả ấn ngàn châu treo lơ lửng trên bầu trời, mờ mờ dưới chân núi là nhà cửa với những ngọn đèn dầu leo lét hay ngọn đèn điện thắp sáng choang-cây cối ch thấp, ch cao ẩn hiện trong ánh đèn khi thành phố bắt đầu sinh hoạt về đêm.

 Ngày nay, Cù Đàm bị lấp đi, để xây một ngôi chợ hình tròn, đó là chợ Đầm Nha Trang, Cù Lĩnh trơ trọi một mình, không còn soi dưới bóng nước và chị Hằng, con Voi trắng không có nước để uống khi trời hạn hán và bơ  vơ giữa cảnh ồn ào, náo nhiệt của một thành phố đông người khi một cuộc 'di dân có qui mô' sau năm 1975.


 Đặc biệt là đứng trên núi Sinh Trung ta nhìn thấy ba hòn núi kia  tượng hình ba con vật linh thiêng (Dơi , Rùa , Rồng) cùng với  con Voi trắng đang hộ trì và phù trợ cho người dân  thành phố nói riêng, người Khánh Hòa nói chung được phát tài  như cuộc đất : Đại phú đại quí . Theo  nhà phong thủy, Huyền Vi, viết trong cuốn sách Thiền và Phong Thủy đã nói về cuộc đất  Nhatrang như sau :


 Hình thể thành phố Nhatrang rất giống Con Cóc. Bãi biển Nhatrang là bụng Cóc, hai chân sau là vùng Cầu Đá , hai chân trước chạy ra đến gần Hòn CHồng . Sóng  biển vỗ quanh năm vào bụng Cóc Thần . Điều quan trọng là con Cóc Nhatrang tuy ngon lành thật nhưng chưa đủ hấp dẫn để dụ Xà Tinh vào miền Nam. Vậy phải làm sao thay đổi long mạch cho con Cóc mau chóng ngậm một hạt Minh Châu để cho Xà Tinh tăng thêm sự ham muốn .Sau khi long mạch con Cóc được làm cho vận hành mạnh mẽ , "đốt giai đoạn " thì chợ Đầm, ngôi chợ chính  của Nhatrang , bị hỏa hoạn thiêu rụi . Long mạch xui khiến Kiến Trúc Sư vẽ lại Chợ Đầm để tái thiết lại vẽ thành một hình thể độc đáo, hiếm có : chợ Đầm hình tròn! Nhìn lên bản đồ thành phố Nhatrang ta thấy rõ ràng hình con Cóc ngậm hạt Minh Châu hình tròn! Ngày nay, nếu ta đi máy bay nhìn xuống Nhatrang, ta sẽ thấy hình thể của một con Cóc khổng lồ ngậm hạt minh châu! So với thiết kế thì chợ Đầm xây chưa hoàn tất, phía bên tay trái hai chung cư A va B đã xong , còn chung cư  C và D  bên phải chưa dựng nên phần này đã hở hẳn ra, phía sau chợ chạy dài ra tận  nhánh sông Hà Ra một khoảng đất trống lớn, dân đã chiếm cất ở lộn xộn nên không thể xây phần nối tiếp khu chợ trái cây và bán thịt cá với cái cảng  nhỏ cho ghe thuyền từ các nơi  vào, tạo thành một khối chữ T án ngữ mặt sau. Như thế hạt Minh Châu ở cái thế nửa kín nửa hở.
 Nhưng nói về địa lý  tạo dựng mnh đất  Nha Trang nhìn từ biển Thái Bình Dương vào,mnh đất Nhatrang là một bãi cát trắng rộng với bốn hòn núi trấn bốn góc tạo cái thế Bốn Con Thú qui tụ gồm Long (tại Cầu Đá),Tượng (tại Sinh Trung, chợ Đầm), Dơi (tai Mã Vòng) và Qui (tại  Ngã Sáu). Long Mạch thành phố  lấy hai hòn núi : Hòn Trại Thuỷ và Hòn Thị ở Diên Khánh làm Hữu và Tả bậc , với bốn mặt có hai con sông Cái và sông Đồng Bò ôm choàng cuộc đất  mà phía Đông là biển khơi .Nhưng nếu ta nhìn thật lâu và hình dung  bãi biển Nhatrang vừa rộng và  dài trông giống như một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra xóm Cồn, mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng . Chính vì vậy  thành phố Nha Trang mỗi ngày càng hưng khởi lên  sự vượng khí  : " Buổi sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng, trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ cái hào quang ấy, cũng trở nên huy hoàng lộng lẫy tráng lệ tạo thành một kỳ quan đẹp cho mnh đất Thánh này. Buổi trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây cối núi non là những vật nhân cách hóa thành những người đang đứng canh  giữ mnh đất thiên. Buổi chiều,tất cả biển trời cây đá đều trõ thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm màn bạch sa mỏng và sưa. Còn ban  đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân,và ánh đèn câu ngoài khơi giăng dài trên đường chân trới như nhừng hạt châu kềt thành xâu đang tỏa ra ánh sáng lúc ẩn lúc hiện. Nếu trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương , nếu trời không trăng thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích ,một nửa trải nền một nửa phất trên trần,trong một đền thờ người Ấn  ". Nha Trang với cảnh đẹp tự nhiên với thiên hình vạn trạng , nó đã tạo dựng một thế phong thủy đặc biệt cho nên  khi còn là đất của người Chiêm Thành hoặc là đất của dân Việt ta ngày nay và tiến dần về tương lai thì  mnh đất này chính là vùng đất Đại Phú và Đại Quý. Bước vào thế kỷ 21, thành phố đang tiến hành xây dựng chiếc Cầu  nối liền từ bờ xóm Cồn đến Hòn Chồng và chạy dài ra tận bãi Tiên thì cái thế đất chưa hoàn hảo bởi vì cái long mạch chưa được nối liền bởi con sông Đồng Bò còn  hở, vậy ta chỉ còn thêm một chiếc cầu nối liền Cầu Đá với Đồng Bò chạy dài đến tận Bãi Dài, Cam Ranh thì lúc ấy cái long mạch ấy mới hình thành trọn vẹn .
 Nhưng muốn chiếm cái ưu thế vững vàng nhất cho thành phố thì phải thay đổi vị trí tòa Thị Sảnh Nha Trang thì mặt hưng vượng của ngưới dân và chính quyền càng ngày càng cao về mọi mặt như sự xuất hiện các tài nhân, dân giàu sang, chính quyền  có người tài đức ra gánh vác, đồng thời cũng là nơi đào tạo nhân tài về quân sự như Hải-Lục-Không quân  rất là thuận tiện cho cả vùng Đông Nam Á và Đông Dương (Lào và Campuchia). Về mặt tâm linh, huyền bí nơi đây chính là Thánh địa vì một vị Đại Bồ Tát đến  với cõi Ta Bà này thuyết pháp Đại-Thừa
và Nhất Thừa trước tiên và đây chính là cái duyên to lớn nhất của chúng sanh và cho người dân Nhatrang vậy .


 Nhưng theo nhà Địa Lý HỨA MINH cùng con trai là  HỨA VINH viết trong sách :'Địa Lý Toàn Thư" do Lưu Bá Ôn và một số tác giả ghi đã nói như sau: Chỉ có nơi Tứ Thú  hội họp mới được gọi là Long Tụ Tinh. Và để hình  thành một vùng Đại- Phú Đại- Quý, nhân tài xuất hiện thì  khí Âm Dương cần phối hợp tức là trước biển cả mênh mông sau là núi rừng vây bọ. Vậy thì  Long mạch chính nằm ở vị trí nào trong thành phố Nhatrang? Khi ấy người đầu Tỉnh đặt bản doanh mình nơi ấy thì cái hào quang vi diệu kia tỏa khắp cho mọi người đều cùng hưởng cái dim phúc của vũ trụ dành cho. Tôi  không bàn rộng vấn đề này, xin để lại cho những ai có Đức, có  Hạnh mà suy nghĩ, đem cái tài mình ra mà giúp dân, giúp nước được cái hạnh phúc-phú quý trong những  năm kế tiếp của thế kỷ 21