|
Ở nhà cất trên
ngọn cây cao trong rừng rậm: sắc tộc
Korowai
Sống lẩn khuất trong rừng già nguyên sinh
ở trên đảo Tân Guinée (thuộc Indonésia),
sắc tộc Korowai cách nay hai mươi năm
vẫn chưa được con người văn
minh biết đến. Nhưng hôm nay, họ thuộc
vào hạng nổi tiếng nhứt trong số 250
bộ lạc hiện sống trên cái hòn đảo
rộng lớn đến 800.000km2 (gấp gần hai
lẫn rưỡi Việt Nam). Lý do là sắc tộc
kỳ dị này làm nhà ở ngọn cây cao hàng
chục mét cách mặt đất!
Địa ngục xanh
Người Korowai chỉ được “người
da trắng” biết đến mới có hai thập
niên thôi. Chính những giáo sĩ Hòa Lan đã may
mắn tiếp xúc được với họ vào tháng
10 năm 1978. Phải thành thật mà nói rằng
muốn gặp gỡ họ nào phải là chuyện
dễ dàng. Họ sanh sống trên một vùng hẻo lánh
nằm sâu trong rừng rậm. Thuộc Irian Jaya
của Cộng Hòa Indonésia (phần tây của đảo
Tân Guinea, ở nam bán cầu), giang sơn người
Korawai rộng tối đa khoảng 1.500 cây số vuông
(tọa độ địa lý của 4 điểm
ở cực đông, tây, bắc và nam là: 140 độ
10Đ, 138 độ 45Đ, 5 độ 45N và 6 độ
10N). Đây chỉ là một phần của vùng đầm
lầy Irian Barat thuộc châu thổ các sông chánh như
Baliem, Braza, và Pulau đều bắt nguồn từ dãy
núi Jayawijaya (chạy dài theo triền nam của sơn
mạch Maoke mà đỉnh Mandala cao nhứt với 4702
mét) và chảy về phía tây nam để đổ
ra biển Arafura. khí hậu ở đây rất
khắc nghiệt: nóng bức và quá ẩm ướt;
cụ thể: giữa tháng 10 và 12 dương
lịch, những trận mưa như cầm chĩnh
mà đổ, với vũ lượng là 5 mét nước
chỉ trong ba tháng (nên nhớ: ở Sàigòn suốt
cả mùa mưa kể từ tháng đầu 5 đến
cuối tháng 10 dl; vũ lượng chỉ là 2 mét nước).
Trong bối cảnh là cái nhà kiếng vùng xích đạo
này, cây cối dĩ nhiên rất um tùm sum xuê, cỏ lác
lau sậy rậm rạp. Đâu đâu cũng là
rừng rậm âm u thấy rợn người. Nhưng
người Korowai đã thành công trong việc cải
biến cái địa ngục xanh này thành cái giang sơn
bất khả xâm phạm của họ. Một lãnh
thổ họ canh giữ nghiêm ngặt bởi lẽ
đó là nguồn sống cho chính họ. Tai họa cho
kẻ nào vì vô tình mà đi lact vào cấm địa!
Nỗi lo sợ tha nhân sẽ tước đoạt
mảnh đất “cuốn nhao” có giá trị
sống còn luôn luôn canh cánh trong lòng họ khiến
họ tàn sát không chúng xót thương tất cả
kẻ lạ không được họ mời đến.
Chính vì vậy mà người Korowai mãi cho đến
ngày nay vẫn còn là một sắc tộc bí ẩn.
Một mảnh vườn – trảng
Dân số người Korowai hiện nay ước lượng
khoảng 4.000, sống rải rác trong một vùng
chủ yếu là đầm lầy, giang sơn của
muỗi mòng, đỉa vắt, rắn rít...; mật
độ dân số khoảng 8 người trên 3 cây
số vuông, họ sống theo từng thị tộc
(elan) nhỏ. Tất cả những người
của một thị tộc đều là hậu
duệ của một tổ tiên thời xa xưa lâu
đời hoặc mới 5 - 7 thế hệ. Họ
chia với nhau một vùng đất phụ ấm trên
đó họ xây cất nhà: một hoặc hai mái nhà
cheo leo trên ngọn cây cao chót vót đứng sừng
sững giữa một cái trảng rộng 2 - 3
mẫu tây, có được nhờ họ đốn
cây rừng bằng búa đẽo có lưỡi
bằng đá lửa (silex/flint)! Thế là trong hậu
bán thế kỷ XX này, bên cạnh con người văn
minh đã đặt chân lên mặt trăng, sống lâu
ngày trên trạm không gian...thì vẫn còn có con người
sống ở thời kỳ đồ đá!
Tại mảnh vườn - trảng, người
Korowai trồng khoai lang, khoai môn, chuối, cọ xa gu
(sagoutier),....để bảo đảm nguồn lương
thực; chưa thấy họ trồng khoai mì
(sắn), bắp (ngô)...hay ngũ cốc.
Những tổ sư dựng nhà
Người Korowai cất nhà hêu hêu trên ngọn cây. Vì
mục đích gì? Họ biện bạch rằng để
ngắm trông chim chóc và núi non trùng điệp ở
chân trời phương bắc (tuyết trường
cửu phủ trắng xóa những đỉnh núi như
Mandala, Wisnumurte 4595 mét, Daam 4.927m). Nhưng cũng có
thể, và đây mới là việc quan trọng, là ngăn
chặn không cho bất cứ kẻ lạ mặt nào,
nhứt là các tay phù thủy có khả năng gây tai
họa, bất chợt hoặc vô tình hay cố ý bén
mảng vùng cấm địa của họ, những
người khách không mời mà vẫn dẫn thân xác
đến thì...nhứt định Ngọc Hoàng giũ
sổ họ là cái chắc..Quí bạn thử nghĩ
cất một ngôi nhà ở trên cao mà sàn cách mặt
đất ít nhứt cũng 9 – 10 mét, thậm chí có
khi ngất nghểu ở 30 hoặc 40 mét, đâu có
phải là chuyện dễ dàng, đơn giản
đâu. Chỉ nội cái việc tìm cho được
một cây cổ thụ có thân suôn đuột, cao và
to cả ôm, không khác gì đám cây dầu hoặc sao
tại các gò có cất đình miếu ở bên nhà
trước năm 45, cành nhánh tỏa ra bốn bên
để làm nơi tựa cho sàn nhà, cũng đã là
công việc khó khăn. Chung quanh thân cây mà một
số nhánh bị tỉa bớt, đám đàn ông
lực lưỡng, làn da bánh mật, trần
truồng như nhộng hoặc có mang thứ khố
quá ư đơn giản, hè hụi dựng lên
một giàn trò (còn gọi là giàn giáo) tạm bợ
để thiết lập cái sàn nhà. Đây là cái
vỉ to tướng hình chữ nhật, thông thường
dài độ dưới 8 mét và ngang khoảng trên 5 mét.
Sàn nhà gồm hai lớp hệ thống thân cây đặt
thẳng góc nhau: lớp dưới gồm loại cây
lớn dùng làm đà đặt cách khoảng nhau
độ ba gang tay, lớp trên gồm loại cây
nhỏ hơn dùng làm vạc nên đặt cách
khoảng nhau độ hai lóng tay; tất cả đều
được cột hoặc néo thật chắc
bằng dây rừng bền bỉ. Riêng tầng
vạc, có chừa những ô vuông, mỗi cạnh
độ nửa mét: đây là chỗ sẽ đặt
bếp lửa. Trên tầng vạc có lớp phủ làm
bằng vỏ cây cọ (palmier/palm). Kế đó
họ dừng vách hông cao khoảng một mét rưõi
bằng cọng và sống lá cây cọ xagu được
chầm sẵn thành từng tấm (như thể
tấm là buôn ở bên nhà) và cột vào những
tấm liếp kết vào đố vách. Sau cùng là làm
hai mái nhà giáp mí ở trên cây đòn dông cao hơn sàn
nhà độ hai mét có dư, rồi lợp bằng lá
cây cọ xagu. Bấy giờ mới tháo gỡ cái giàn
trò. Từ rày về sau, cái cách thức duy nhứt
để lên đến căn nhà cheo leo là cái
loại thang độc đáo; đúng ra nó là một
cây sào to bằng bắp chuối, chôn gần thẳng
đứng, do thân cây được gọt đẽo
thành một loạt nấc cách nhau đều đặn
khoảng 30cm.
Mái ấm gia đình
Nếu đàn ông và đàn bà cùng sống chung dưới
một mái nhà cheo leo nhưng mỗi phái tính chiếm
một phần đất dành riêng, thậm chí, trong
những ngôi nhà khang trang sang trọng với cầu
thang và lối vào riêng biệt. Cả nam lẫn
nữ lõa thể (các bức ảnh của các giáo sĩ
chụp để làm bằng); đồ trang sức
của phái đẹp chỉ là sợi dây chuyền
do những răng thú xỏ thành xâu chuỗi đeo vòng
quanh cổ. Mái tóc đen ánh quăn xoắn khuôn
ốc; trái tai lành lặn chứng tỏ không biết
đeo khoen hay bông tai để làm đẹp.
Dưới mái nhà, ngoài con người còn có chó nhà
và heo mọi nhỏ con! Mấy chú “trư” này
được nuôi để làm quà tặng. Người
ta tặng nhau các chú “ẹc, ẹc” vào dịp cưới
hỏi hoặc để làm giảm mất nỗi xích
mích trong gia đình. Nhóm đàn ông và nhóm đàn bà
đều có một bếp lửa riêng để
nấu nướng thức ăn. Lửa cháy trong
một chiếc mâm làm bằng nhánh cây đang vào nhau
rồi được phủ lên bằng lá và đất
sét. Đặt lên trên cái lỗ ô vuông chừa
sẵn trên sàn nhà, chiếc mâm này được xem
như cái cà ràng (TNTĐVN - Lê Ngọc Trụ, tr. 497)
rất thông dụng ở miền Nam cho ghe xuồng,
chỉ được cột ràng vào sàn nhà bằng vài
sợi dây leo mà ta chỉ cần chặt đứt
đi nếu có nguy cơ xảy ra hỏa hoạn.
Thế giới người Korowai
Người Korowai không có chữ viết. Sự
hiểu biết của tổ tiên và những tín ngưỡng
của thị tộc được truyền tụng
bằng lời kể từ đời nọ sang đời
kia, từ ông đến cha, từ cha đến con,
trong những buổi tối chùm nhum quanh bếp
lửa hồng. Nhưng lại có những chuyện
thiêng liêng mà duy nhất người trưởng thành
mới được quyền hiểu biết và
kể lại cho những kẻ được phép
nghe, chẳng hạn như sự phát sanh của
thế giới. Trong điều tưởng tượng
của người Korowai, cái thế giới ta bà này
giống như ba vòng tròn lồng vào nhau. Cỏ cây
(thực vật), cầm thú (động vật) và loài
người sanh sống nội bên trong cái vòng trong cùng.
Ngoài đó là giang sơn vương quốc của
những người chết. Cả một cảnh
giới cũng chia xẻ thành nhiều thị tộc
và những lãnh thổ, tất cả đều
giống y như cõi sinh vật hiện tiền. Sau cùng,
bên trong chiếc vòng ngoài cùng là cả một đại
dương với sóng vổ ì ầm, ngày nào đó,
sẽ chôn vùi tất cả loài người và loài
vật vào buổi cáo chung của vạn vật: ngày
tận thế đấy.
Thị trường của rừng rậm
Rừng là cái tủ “gạc măn giê” (sđd.
tr.566: garde manger/meat safe) của người Korowai.
Họ tìm thấy ở đây đồ hàng bông (la
ghim: légumes/vegetable) như dưa leo (còn nói: dưa
chuột) rừng và các loại trái cây như loại
nhãn ở đảo Fidji hoặc trái xa kê hay mít
bột (fruit d l’arbre à pain/bread fruit) mà đôi khi
phải leo lên thật cao mới hái được
bằng cây sào dài. Thú rừng cũng không thiếu:
nhứt là loại heo mọi (cochon sauvage/wild pig; đừng
lầm với loài heo rừng: sanglier/wild boar) mà họ
săn bằng tên hoặc bắt sống bằng
hầm sâu được ngụy trang có đậy
nắp. Còn những loài thú rất khoái khẩu, nhưng
hiếm hơn: con đà điểu cổ trụi
(casoar: casso wary, chỉ sống ở Úc Đại
Lợi và Tân Guinea) nhỏ con mà chạy thật mau. Làm
sao người Korowai săn con casoar? Rất đơn
giản: họ giăng thật thẳng một sợi
dây nối giữa hai thân cây, rồi hò hét và đập
vào lùm bụi ra tuồng như rượt đuổi
nôn sau lưng khiến cho con vật hoảng sợ,
chạy bán mạng và vướng dây mà gãy cổ và
ngã gục tại chỗ. Chẳng có một giống
vật nào bị họ chê cả. Nào là rắn rít,
cắt ké kỳ nhông, hỏa xà, ếch nhái, dơi,
chim chóc, kỳ đà, sấu....: tất cả đều
ăn ngon miệng. Tuy nhiên, mọi thị tộc đều
có một con vật tổ tô tem (sđd. tr 781: to tem) là
tuyệt đối cấm kỵ săn giết để
ăn thịt. Ví dụ: người Giffanop không bao
giờ nhấm nháp một miếng thịt casoar vì con
vật được xem là thủy tổ của
thị tộc. Tất cả mọi người, trái
lại không chừa một ai, đều say mê ăn
ấu trùng của một loại bọ hung (scarabée/beetle)
sống lúc nhúc trong thân cây cọ xagu bị mục rã;
đây cũng là một thứ cây được người
Korowai trọng vọng vui mừng vì lẽ họ cũng
trích ra từ thân cây một thứ bột được
các bà cho thêm nước vào để nhồi thành
cục bột trước khi đem nướng chín. |
|