Những bài cùng tác giả
Kỷ yếu Max Planck
(…) ý
nghĩa và giá trị của vật lý ở chỗ nó giúp chúng ta khám
phá ra những sai lầm của triết học bằng cách cho chúng
ta thấy rằng "một số khẳng định có tham vọng có giá trị
triết thực ra chẳng có giá trị gì cả".
(…) Vật
lý phá tan một số thành kiến trong tư duy triết và trong
tư duy thông thường, nhưng không tự khẳng định như một
triết lý. Nó chỉ sáng tạo ra những cách nói chéo để tạm
thời điều trị sự thiếu hụt và bất lực của những khái
niệm truyền thống, nhưng nó không đặt ra những khái niệm
đương nhiên2.
Nó khiêu khích triết học, buộc triết học phải nghĩ ra
những khái niệm có giá trị trong bối cảnh của chính nó.3
Merleau-Ponty
Vì, đúng
thế, trong nghĩa nào đó, "khoa học không suy nghĩ" –
chính điều ấy là bí quyết giải thích sự hữu hiệu của nó.
Khoa học cố gắng rất lớn để khỏi phải suy nghĩ, bằng
cách tạo ra những máy biểu tượng hình thức lỗi lạc để
chúng gánh vác những khó khăn và mệt nhọc của tư duy, y
như máy móc trong nhà và trong công nghiệp thay thế và
kéo dài khả năng giới hạn của thân xác chúng ta.4
J-M
Lévy-Leblond
Chúng ta
phải biết, chúng ta sẽ biết.
(Wir müssen wissen, wir werden wissen.)
David
Hilbert
Tuyên ngôn bất hủ này của Hilbert đã
được khắc trên bia mộ ông ở Göttingen.
Thú thực, do căn bệnh cố hữu của
người dịch văn chương, bệnh suy diễn, tôi có khuynh
hướng dịch thành : "Chúng ta phải hiểu, chúng ta sẽ
hiểu." Tôi không dám. Nhất là trong kỷ yếu kỷ niệm ngày
sinh nhật của Max Planck.
Với nhà toán học cỡ David Hilbert,
biết chung chung qua ngôn từ thường ngày, qua những ý
chung, chẳng thể coi là kiến thức khoa học. Với nhiều
nhà khoa học, ta chỉ thực sự "biết" những gì ta đã
"hiểu". Nghĩa là : chứng minh được rằng điều ấy
đúng hay sai, thế thôi5.
Chí ít cũng phải khẳng định một cách không phủ nhận
được, ở mức độ chính xác nào đó, rằng nó đúng trong một
hoàn cảnh cụ thể, rõ ràng, kiểm soát được. Những thứ còn
lại, ta biết vậy vậy, thế thôi, chẳng thể nhắm mắt tin
càn được.
Trong tiếng Pháp, động từ
"biết" có hai nghĩa : biết chung chung, đại khái rằng6…
và hiểu biết khoa học. Người Pháp còn danh từ hoá
quan hệ hiểu biết, biến nó thành khái niệm hình
thức : le Savoir, "Kiến Thức" hay
"Tri Thức". Đương nhiên, "Kiến Thức" hay "Tri Thức" vẫn
mang trong mình hai bộ mặt trên của quan hệ hiểu biết.
Nhưng dưới dạng danh từ, khái niệm, nó có vẻ nói đến một
cái gì tự nó có thực. Viết chữ hoa khiến
nó long trọng, trang nghiêm, đáng tin cậy như một Sự
Thật… có tầm cỡ, "có giá trị triết".
Niềm tin nhập nhằng ấy đã từng và vẫn
đang lan tràn vào triết học, văn học, thậm chí thơ văn.
Nó đã khiến nhiều triết gia, nhà tư tưởng, nhà lý luận
văn học đam mê đeo đuổi Sự Thật và thường nghĩ rằng tư
tưởng, ý tưởng, kiến thức của chính mình biểu hiện Sự
Thật. Đã từng có không ít nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận
văn học, triết gia, tự khoác cho mình nhiệm vụ tìm kiếm
và nói lên Sự Thật, nhất là Sự Thật Khách Quan, Sự Thật
Khoa Học, Sự Thật Lịch Sử, Sự Thật Của Con Người, v.v.
Khi họ có trong tay ít nhiều quyền lực, có người không
chỉ nói thôi, còn thẳng thừng dạy dỗ, giáo dục, cải tạo,
hướng dẫn, kể cả bằng cưỡng ép đủ kiểu, người đời đi
theo Chân Lý. Điều ấy đã gây những tai hoạ kinh hoàng
nào trong thế kỷ 20, ai cũng biết. Điều ấy đang gây
những tai hoạ kinh hoàng nào hôm nay, cứ nhìn tình hình
điên loạn đẫm máu của thế giới thì thấy.
Thí dụ niềm tin xưa vào Sự Thật
của Lịch Sử dựa trên kiến thức Khoa Học về
những Quy Luật Khách Quan của Lịch Sử.
Hay niềm tin "Hiện Đại" vào những Quy
Luật của Kinh Tế Thị Trường Toàn Cầu Hoá,
được chứng minh bằng vô vàn phương trình toán rất siêu7,
nhưng chưa bao giờ tiên đoán được những khủng hoảng vừa
qua và sắp tới của kinh tế thị trường, chẳng bao giờ đếm
xỉa tới thân phận của hàng chục hay trăm triệu người đời
cả… Và, quan trọng hơn, chưa bao giờ vạch
được cho người đời một hướng đi hữu hiệu tới một thế
giới nhân bản hơn ngay trong đời họ.8
Trong lãnh vực thơ văn, có thể tiếu
lâm hơn, nhờ thế cũng ít tốn xương máu hơn, nghệ thuật
thôi mà, ghê gớm đến mấy vẫn thua xa hai quả bom nguyên
tử giội xuống Hiroshima và Nagasaki.
Cách đây không lâu đến nỗi, tôi đưa
một nhà thơ Việt Nam tới Grenoble nói chuyện. Chàng nổi
tiếng đã từng đổi mới thơ Việt Nam và đã phải trả giá
nặng hàng chục năm. Chàng nổi tiếng có kiến thức sâu
rộng về văn học, triết học Tây Âu. Chàng sử dụng sành
tiếng Pháp tới mức đã tự dịch thơ của mình qua tiếng
Pháp, nói chuyện với độc giả bằng tiếng Pháp, thao thao
bất tuyệt về Nguyên lý bất định9
của Heisenberg trong thơ, quan điểm về thơ và triết lý
của chàng. Tôi sững sờ. Có thể vì tôi dốt, không hiểu gì
cả về nguyên lý rắc rối này. Lúc giải lao, tôi kéo chàng
ra ban công, bỏ nhỏ : ông ơi, nói vừa vừa thôi, đây là
thành phố đại học, nôi khoa học hạng nhì của Tây đó ;
đám làm vật lý ở đây trình bày nguyên lý này bằng phương
trình cho phép chúng nó tính toán và tiên đoán rất chính
xác kết quả hành động của chúng nó vào vật chất, thế thì
còn bất định gì nữa ! Nếu tự do của con người dựa vào sự
bất định vật lý kiểu ông thì chúng nó chẳng có đứa nào
tự do cả, nói chuyện với chúng nó làm gì : dù chưa được
giải Nobel vật lý, điều gì chúng nó chưa tính toán được,
chúng nó chưa tin là đúng, chưa tin là có thực. Chúng nó
đã tính toán được, chẳng còn gì bất định cả. Tự do của
chúng nó khác tự do của người đời ở đó. Chàng mỉm cười,
nhìn tôi tội nghiệp. Và chàng tiếp tục thao thao bất
tuyệt về tính bất định của đủ thứ linh tinh, nhất là của
chữ nghĩa, nhất là chữ nghĩa của chàng, nhất là trong
thơ và tư tưởng của chàng. Tôi vốn dị ứng với thơ. Hôm
ấy, tôi càng dị ứng với thơ hơn bao giờ hết. Thế mà tôi
vẫn, khi tội nghiệp chính mình, yêu… thơ, trong mọi hình
thái. Khổ thật…
Điều tôi thích nhất khi tôi cặm cụi,
âm u đọc các nhà khoa học bàn ngang tầm người về kiến
thức và niềm tin của họ trong lãnh vực sở trường của họ,
là họ cũng có lúc khắc khoải như ai. Tôi dốt khoa học.
Tôi chia sẻ nỗi khắc khoải làm người có ý thức
khoa học của nhà khoa học cũng như tôi chia sẻ –
hão tới mức nào, tôi không biết, người đời sẽ dạy tôi
thêm, đều đều, than ôi – khắc khoải làm người của nhà
văn. Bất cứ ai biết khắc khoải làm người kiểu này kiểu
nọ, tôi đều yêu mến, dù chưa đồng ý tôi vẫn có thể đồng
tình. Xin bạn đừng hỏi tôi : anh làm người như thế nào ?
Tôi không trả lời được. Hiện nay, tôi chỉ biết hành văn
thôi. Nếu đó cũng là một cách làm người mà người đời
chấp nhận được, tôi mãn nguyện.
Trong Wikipedia, tất nhiên không thể
coi như nguồn tham khảo có giá trị khoa học, tôi thấy
một điều về Max Planck, không biết đúng sai thế nào,
nhưng là đề tài đáng suy ngẫm.
Ban đầu, Planck khước từ mô hình
nguyên tử về khí của Maxwell và Boltzmann. Đối với ông,
thuyết nguyên tử sẽ có ngày sụp đổ trước giả thuyết cho
rằng vật chất liên tục (continu). Ông thuận theo
thuyết nguyên tử từ những năm 1890 khi nó đã trở thành
hiển nhiên.
Năm 1899, ông tạo ra những hằng lượng
của Planck (h) và của Boltzmann (k), đồng thời với khái
niệm quanta [...] Planck khó chịu khi phải công
nhận sự đúng đắn của giả thuyết của chính mình vì nó
khiến cho vật chất trở thành "gián đoạn" (discontinu).10
Ra thế. Nhà bác học được giải Nobel
vật lý nhờ một khái niệm mình phát minh ra, khái niệm
cho phép giải đáp một vấn đề nan giải trong thời đại của
mình, mở đường cho cả một thời đại mới của vật lý, lại
không hài lòng với kiến thức mình khẳng định được vì nó
"phủ nhận" niềm tin cố hữu của mình, cũng là niềm tin
phổ biến từ lâu của nhiều người đời. Và, rất lâu, chính
ông chỉ tin nó là một « cái mẹo toán » thôi.
"Gián đoạn" – "Liên tục", cặp phạm
trù tương phản kinh điển trong tư duy triết, như bao cặp
phạm trù tương phản khác đã từng ám ảnh tôi biết bao năm
trời ! Phải viết xong quyển Penser librement
tôi mới tạm yên, cảm tưởng rằng mình đã tìm được một
cách tiếp cận và suy luận tạm chấp nhận được về những
"mâu thuẫn" kiểu ấy. Riêng về vấn đề này, "vật chất gián
đoạn hay liên tục ?", tôi đại khái an ủi mình như sau.
Điều ta gọi là "vật chất", "thế giới vật
chất", "vũ trụ", "là" một tổng thể động,
một hệ thống quan hệ năng
động giữa tất cả những gì ta có thể tiếp cận được bằng
giác quan của ta hay máy móc ta sáng tạo để quan sát
và biểu hiện chúng dưới dạng giác quan của ta
tiếp cận được, dù chỉ là một chuỗi… số ! Trong tổng thể
động ấy, có chính chúng ta. Nhưng chính ta
lại là một tổng thể hơi khác những vật thể khác trong vũ
trụ ở điểm này : ta là thể thống nhất năng động của vật
giới, sinh giới và văn hoá. Ở phẩm chất cuối cùng này,
ta vừa là chính ta vừa là toàn bộ những người đã sáng
tạo những ngôn ngữ ta dùng để tư duy, kể cả ngôn ngữ
toán và… tiếng Việt, thậm chí tiếng Ziao Chỉ, vì lý do
đơn giản này : ít nhất 99,99% ngôn từ và, qua đó, những
ý tưởng, trong đầu ta đều do tha nhân mang lại cho ta.
Phải thế ta mới có thể "hiểu" được vật chất11.
Phải thế ta mới có thể suy diễn ra khả năng có thực của
nhiều vật thể hay sự kiện ta chưa hề "thấy" bao giờ.
Phải thế mới có thể có một điều gì gọi là
sự thật khoa học vì ngoài quan hệ tổng hợp của chúng ta
với thế-giới12,
thế giới vật chất tự nó không có
Sự thật, không có Khoa học13.
Điều có thực, liên tục, "vĩnh cửu" là những quan hệ –
trong đó có ta – mà ta biết hay chưa biết : trong vũ trụ
không có gì biệt lập, không có gì tự hiện thực từ hư vô
– kể cả ta. Tất cả đều là hậu quả của một quá trình vận
động. Trong vật giới chỉ có một loại quan hệ thôi : quan
hệ về lượng, và quan hệ ấy có không-thời gian tính14. Tất
cả những hình thái "cụ thể" của vật chất đều có thể quy
về vài hình thái cơ bản chung. Chính vì thế ta có thể
nêu chúng trong một phương trình toán15 !
Trong vận động liên miên bất tận của những quan hệ ấy,
có lúc có trạng thái tương đối "cân bằng" cho phép những
vật thể "cụ thể" hình thành và tồn tại một cách tương
đối "ổn định" đối với nhãn quan trực tiếp
hay gián tiếp của ta. Có lúc những quan hệ ấy đột ngột
tạo sự trao đổi năng lượng giữa hai vật thể khiến cả hai
có thể biến dạng đối với nhãn quan trực
tiếp hay gián tiếp của ta. Theo kiến thức của chúng ta
hôm nay, nhờ Planck, lượng năng lượng có
thể trao đổi được giữa những vật thể không thể nhỏ hơn
h. Thế thôi. "Vật chất liên tục", "vật
chất gián đoạn" chỉ là cách phát ngôn hàm hồ, thiếu
chính xác của triết gia, người đời thường và, dường như,
của nhiều nhà vật lý không phải loại xoàng ! "Sự liên
tục", "Sự gián đoạn" còn hão hơn nữa.
Thế mà ta cứ cần đến chúng khi ta tư
duy. Đâu phải vô cớ. Đôi khi ta nghiệm sinh một cách
hiển nhiên, chắc chắn, không gì phủ nhận được16,
kể cả vật lý hiện đại, rằng đời ta y như một chuỗi gián
đoạn vô lý, vô tình, đau điếng.
Nhờ thế mà có… Thơ :
"Tình chỉ đẹp những khi còn [ô hô ai
tai !!!] dang dở"…
Nó mà hết liên tục dang
dở, nó biến quách đi cho ta đỡ khổ, chứ nó lại đột ngột
gián đoạn, chỉ vì một "quantum" ngộ
nhận, đau đứt người đó, người ơi. Ừ mà đứt
được, còn đỡ đỡ, chứ nó cứ dai dẳng liên tục hành hạ
mình thì chết người ta… Thật
vậy. Vì sao ? Vì ta tồn tại, sống,
suy nghĩ, hành-động, thậm chí yêu
yêu, trong thế giới trung mô. Thế giới ấy mà không gián
đoạn, không thể có thân xác của chính ta. Thế giới ấy mà
không liên tục, không có gì có thể hiểu được, kể cả em
yêu, kể cả chính ta. Nhưng bảo nó "là" cả
hai, ta… điên đầu : zậy mà hổng phải zậy ! Ở đó,
vật giới có sự liên tục – gián đoạn đặc thù
(của) nó. Sinh giới và thế giới tinh thần cũng vậy, và
cũng chẳng dễ hiểu tí nào. Trong khi chờ đợi có người
tạo ra những khái niệm, phương pháp suy luận và ngôn ngữ
thích ứng, giúp ta hiểu cả ba món liên tục – gián
đoạn này và quan hệ giữa chúng ở ngay ta, đành
sống sao để đừng gây đau khổ cho người khác và nếu không
tránh được thì nên ít ít thôi. Vì thế, đời nay, tôn giáo
(hiền từ), triết lý (tỉnh táo), thơ văn (đậm nhân tình)
vẫn cần thiết cho cuộc nhân sinh.
Trong cõi nhân gian bé tí này, tu
Tiên tu Phật mãi, hình như cũng có ngày đắc đạo. Nhưng
dường như chưa ai đắc đạo nhờ tu Toán. Chẳng ai sống mãi
với phương trình được. Còn phải ăn, phải yêu nữa chứ !
Không thì sống sao được, nói chi là suy nghĩ ? Lúc đó,
bắt buộc phải trở lại đời thường, sống với ngôn ngữ
thường ngày của người đời. Những nhà vật lý cũng thế
thôi. Nhưng họ sử dụng ngôn ngữ thường ngày thận trọng
biết bao !
Bohr đã từng nói với Heisenberg17 :
thực ra tôi nghĩ rằng mấy bức hình nguyên tử [như một
hạt nhân với một vài électrons dao động chung
quanh] chỉ là một cách mô tả kinh điển
thuận tiện nhất, thế thôi.
Ôi, những gì ta tận mắt thấy
trong kính hiển vi điện tử có thể không có thực hay
sao ? Ừ, vậy đó ! Chính Bohr đã nói vậy mà.
Einstein lại nói với Heisenberg :
« Về nguyên tắc thì thật là sai lầm nếu xây dựng một lý
thuyết chỉ dựa trên những đại lượng quan sát được. Chính
lý thuyết quyết định về cái mà người ta có thể quan sát
được.18 »
"Chủ quan", "duy tâm" đến thế là cùng ! Và Einstein định
nghĩa hành động quan sát như sau :
« Quan sát nghĩa là thiết lập một quan hệ giữa
một hiện tượng và sự thực hiện hiện tượng đó [qua hành
động] của ta.19 »
Heisenberg lại cho rằng tên "principe
d'incertitude" không phù hợp với phát minh của
ông.
J-M Lévy-Leblond thẳng thừng :
Dựa vào một phát biểu đúng trong
khung cảnh đặc thù và giới hạn của một lý thuyết vật lý
– lượng tử, trong trường hợp này – để ngoại suy trong
những hoàn cảnh hoàn toàn khác về bản chất, là chuyện
nguy hiểm và thường thường có tính chất lạm dụng. Sự lạm
dụng ấy gần như sự gian lận khi, như trong trường hợp
này, bản thân sự phát biểu ban đầu20
đã quá đỗi nhập nhằng. Đúng vậy, chúng ta dứt khoát phải
dẹp cách gọi thông thường "bất định" đối với những gì mà
cho tới đây chúng tôi gọi là, bằng một từ cố ý mập mờ,
sự "lờ mờ" của những đại lượng vật lý như vị trí và tốc
độ.21
Chính Einstein đã công nhận rằng từ
"tương đối", do chính ông phổ biến, không chính xác tí
nào22.
Có thể còn ngược lại : nếu23
những lượng ta đo đếm được đều "tương đối"
đối với một hệ quy chiếu, có những hệ quy chiếu tương
đương (classes d'équivalence) trong đó người ta
vẫn có thể, từ lượng được đó đếm trong hệ quy chiếu này
mà suy tính ra lượng sẽ đo đếm được trong hệ quy chiếu
khác. Điều đó khả thi vì trong vũ trụ có một hằng lượng…
tuyệt đối và bất biến trong mọi hệ quy
chiếu ! Đó là tốc độ của ánh sáng. Nền tảng của lý
thuyết "tương đối" là một niềm tin… tuyệt đối ! Dường
như gần đây, niềm tin tuyệt đối ấy đã bắt đầu… tương
đối !
Thế mà chúng ta cứ bừa bãi "tương
đối" với nhau. Trong tranh luận thường ngày, chắc bạn đã
từng nghiệm sinh điều này : khi người đối thoại với bạn
tuyến bố "mọi chuyện cũng tương đối thôi" thì chẳng còn
gì đáng nói với nhau nữa. Điều đó thể hiện niềm tin
tuyệt đối này : con người không thể hiểu nhau bằng ngôn
ngữ, kể cả tiếng Việt. Thế thì nó có thể hiểu nhau bằng
cái quái gì ? Cái tát, giọng ngọt, ve vuốt, hôn ? Thế
thì nói chuyện với nhau, triết lý, hành văn, làm gì cho
mệt xác ? Chán thật…
Hiện nay, chỉ trong
khoa học người ta mới biết tranh luận với
nhau cho tới lúc (tạm thời) ngã ngũ : có hai hằng lượng
"đúng" là hằng lượng của Planck và tốc độ của ánh sáng.
Chấm… chưa hết ! Nhưng tạm thời dùng được cho vô số việc
bổ ích trong khoa học và đời thường. Ngã ngũ rồi, người
"thắng" người "thua" đều hả dạ, quý trọng nhau : họ đã
được cho không nhau những
điều đáng cho, đáng nhận.
Than ôi, ở đời dường như chẳng có
hằng lượng nào giúp người ta được cho không
nhau chút tình, giúp người ta biết yêu
nhau. Thôi thì tạm dùng một "hằng lượng" đặc thù, cũ kỹ,
mơ hồ, kì dị, làm điểm tựa chung cho tất cả các nền văn
minh, bất kể chúng khác nhau thế nào trong không gian và
qua thời gian : tình người. Không có nó, chẳng thể có
bất cứ nền văn minh nào. "Hằng lượng" đó tự nó bất biến,
tuyệt đối không thua gì hằng lượng của Planck hay tốc độ
của ánh sáng : nó không thuộc loại quan hệ
về lượng, không đo đếm được với bất cứ đơn vị đo lường
nào của vật lý kinh điển cũng như vật lý lượng tử và
tương đối. Bạn mà lỡ được em yêu "tương đối" yêu, dĩ
nhiên nhiều hơn một quantum, bạn hiểu liền, chẳng
cần đến phương trình toán cao siêu nào cả. Bạn mà đột
ngột bị em yêu "tuyệt đối" yêu, vì một quantum gì
đó mà chính bạn cũng không ngờ tới, bạn cũng hiểu liền,
sướng mê tơi, chẳng thèm biết tới gì khác.
Những nhà khoa học vật lý24
cẩn trọng như thế đối với ngôn ngữ thường ngày của chính
họ. Vậy, chúng ta, những người sống nhờ
chữ nghĩa25
hay/và vì chữ nghĩa26,
chúng ta nên ứng xử thế nào với chữ nghĩa của chính
chúng ta ? Nhất là khi chúng ta thò bút viết những cụm
từ như "Sự thật", "Khoa học", "Sự thật khoa học", "Sự
thật khách quan", "Quy luật", "Tương đối", "Tuyệt đối",
"Liên tục", "Gián đoạn", "Bất định", et tutti quanti,
và, tiếu lâm hơn : "phải" !27
Có lẽ, chí ít, ta nên học hai thái độ
này của các nhà khoa học.
1/ Trong quan hệ của ta với vật
giới, ta nên tin kiến thức khoa học của họ hơn
tin ý chí của chính mình. Đào non và lấp biển (thứ
thiệt) mà chỉ có quyết chí thôi, chẳng bao giờ làm nên
cả. Nhưng có chút khoa học và có đủ phương tiện kỹ thuật
thì làm được. Có thêm tí tiền nữa, càng đỡ mệt – nếu
biết tiêu cho đáng, nhưng điều ấy đòi hỏi kiến thức khoa
học ! Tuy vậy, trước khi làm, nên tham khảo ý kiến của
những nhà khoa học trong lãnh vực môi trường. Vật chất
là một và liên tục qua sự gián đoạn mà !
2/ Trong tất cả quan hệ khác
của ta với người đời, nên biết sợ, biết
khắc khoải trước khi khẳng định bất cứ điều gì, quyền
gì. Cơn hả hê đắc chí kéo dài hôm nay (liên tục) có thể
đột ngột (gián đoạn) biến thành cơn giãy giụa nhục nhằn
của ngày mai. Triết lý duy vật biện chứng kinh điển gọi
món này là : lượng biến thành chất. Lượng đó đã lớn hơn
h của Planck thì điều ấy khả thi. Than ôi,
trong thế giới trung mô, mọi hành động của ta, kể cả đọc
diễn văn hay viết bài này thôi, đều huy động một lượng
năng lượng lớn hơn h.
Dù sao, sợ đến mấy, cũng phải hành
động. Không làm gì cũng là hành động rồi mà, người đời
đâu tha cho ta điều ấy ! "Trong khi con tôi giãy
chết, van lơn cầu cứu, anh chị nỡ lòng ngoảnh mặt đi
à ?" Vậy, cứ hành động một cách có ý thức, nhất là ý
thức khoa học khi nó cần thiết, nhưng nên hành động một
cách thận trọng, nhất là khi… viết văn, trong bất cứ
lãnh vực nào, dưới bất cứ thể loại nào.
Đã hành động vào thế giới chung của
loài người, ắt phải quan hệ với người khác.
Đối với nhà khoa học chân chính,
ta nên quý trọng kiến thức và yêu mến sự trung
thực của họ đối với ta và người đời.
Họ sẽ không lừa ai, nói dóc
với ai về quan hệ giữa vật thể với vật thể, giữa người
với vật giới. Sự thật khoa học nghĩa là thế…
thôi. Nó vô cùng quý báu vì đã có biết bao
nhà khoa học đích thực, thậm chí đã được giải Nobel, đã
từng lừa người đời, nói dóc với người đời vì đủ thứ lý
do. Chưa kể những người rất thật thà khẳng định đủ thứ
chuyện không tuỳ thuộc kiến thức khoa học hiện có của họ
ngay trong lĩnh vực kiến thức của họ. Trong trường hợp
ấy, đừng vội bốc đồng. Tinh thần khoa học cũng là vậy.
Đối với nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận
văn học, triết gia, et tutti quanti, thì… ngược
lại ! Yêu thơ văn, suy luận của họ vì nó đáp ứng nhu cầu
làm người hiện nay của ta, cứ thoải mái… yêu. Và nên
yêu… hết mình ! Khi tự mình thấy… đáng yêu. Chẳng chết
đâu và, bình thường, chẳng hại ai cả. Có khi còn thích
thú nữa. Nhưng đừng chờ đợi ở họ bất cứ sự thật khoa học
nào cả. Do đó, yêu thì cứ yêu, nhưng đừng vội tin, nhất
là khi phải hành động.
Đối với đa số chính khách đời nay,
chẳng nên tin, yêu điều gì cả ngoài điều này : chính
sách anh đang chủ trương và hành động
thiết thực của anh để thực hiện nó phù hợp với nhân cách
của tôi, đồng bào tôi, người đời lương thiện hay không ?
Thế thôi. Nếu phù hợp, tôi sẽ cùng anh hết mình đấu
tranh cho nó. Nếu không, you profit, I don't work
for28.
Xin chấm dứt bài này bằng câu chuyện
dịu dàng êm ả zui zui. Hiện tượng này hình như phổ
biến : vợ chồng thích cãi nhau kịch liệt trong lúc… lái
xe. Một người lái, một người "chỉ đạo". Sao lái nhanh
thế, chậm thế ? Sao lại rẽ mà không đi thẳng ? Không
thấy bảng chỉ đường ấy à ? Rẽ vào đây, đây này, đây này…
Dĩ nhiên, người lái xe liền rẽ vào đường… khác. Nó mà
nhìn ngón tay chỉ đường của người chỉ đạo, nó có thể gây
tai nạn giao thông ngay, bỏ mạng hay giết người liền !
Hai người không chỉ có hệ quy chiếu "tương đương". Ngồi
cạnh nhau và di chuyển trong không gian với cùng tốc độ
mà người ta cảm nhận không gian và thời gian khác nhau
đến thế ! Vì sao ? Vì hành động trong nhân giới, tuy
phải có kích thước vật chất mới có thực, rất khác quan
hệ giữa sự vật với sự vật trong khoa học vật lý. Vậy,
trong khi chưa có kiến thức hoặc thời giờ để quy tất cả
về một hệ quy chiếu tuyệt đối, ta nên chấp nhận rằng,
khi hành động, mỗi người là một hệ quy chiếu cá biệt,
không thể phủ nhận được và, bình thường, cũng đáng tin,
có lúc còn đáng yêu yêu nữa, cứ để nó lái xe như nó thấy
phải lái, miễn sao đừng đâm chết ai hay/và giết chính
mình là được được rồi.
Trong hành động thường ngày, ta nên
tập nhìn đời theo hệ quy chiếu của người khác. Sự gián
đoạn ấy với chính mình cần thiết cho sự liên tục sống ôn
hoà với nhau trong kiếp nhân sinh. Biết đâu ta sẽ nói
chuyện được với nhau "tới cùng" và "hiểu nhau"… hơn, một
tí ? Biết tạm quên mình một tí (nhưng đừng bao giờ quên
luôn nhe, kinh hoàng lắm đấy), biết nhìn đời một khắc
trong hoàn cảnh và theo thế nhìn của tha nhân, là một
nền tảng cơ bản của tình người, của văn hoá. Đó là niềm
tin tuyệt đối ngớ ngẩn, dại dột của tôi.
Trong kiếp nhân sinh, mỗi người là
một hệ quy chiếu đặc thù, "biệt lập". Ngoài… ngôn ngữ
vốn là chất người chung nhưng vẫn có âm hưởng thậm chí ý
nghĩa dị biệt trong từng người ! Vì dù chúng ta nên
người trong "cùng hoàn cảnh", chẳng ai nên người y hệt
ai cả, nhất là ở thời loạn ly, chinh chiến, di cư, di
tản, di dân, ở thời khủng hoảng xã hội, niềm tin, văn
hoá. Thế mà ta vẫn có thể "hiểu nhau", tin nhau. Chí ít,
lâu lâu, cũng có thể yêu nhau tí ti. Giải thích điều này
thế nào đây ? Có thể sẽ không bao giờ giải thích được
một cách khoa học. Nhưng vẫn có thể nói cho nhau… nghe
được được. Tôi tin vậy nhưng không chứng minh được. Dù
sao tôi đã biết : đam mê quá đà, dễ bị lợi dụng ;
quá ham "có lý", có thể đánh mất tình người ở
mình như chơi ; hiểu nhau, dù chỉ một tí, dù chỉ một
khắc, dù tương đối thôi, mãi mãi là khát vọng của
con của người.
Thôi thì đành triết lý và… hành-văn !
2008-08-31 Phan Huy Đường
1 Cảnh báo: tôi không có kiến thức khoa học về
vật lý, nói chi đến vật lý lượng tử. Tôi chỉ lỡ mê
một số tác phẩm do các nhà khoa học viết để trình
bày kiến thức của họ cho kẻ ngoại đạo, đặc biệt khi
họ bàn về kiến thức liên quan tới những khái niệm
phổ biến trong triết học. Quan điểm riêng
của tôi về những khái niệm như "sự thật", "khoa
học", "sự thật khoa học", "sự thật khách quan" và
một số khái niệm kinh điển trong triết học như không
gian, thời gian, vật chất, vật thể, thực thể, sự vận
động, hành động, v.v. cũng như phương pháp suy luận
biện chứng, đã được trình bày trong hai quyển
Penser librement (Chronique sociale, Lyon,
2000) và Tư Duy Tự Do, (nxb Đà Nẵng,
2006). Xin lỗi độc giả, tuy dùng tới, tôi không thể
trình bày lại trong bài này.
2 "concepts de droit" có nghĩa : tự nó có
quyền được coi như là khái niệm. Ôi, từ khi có ai đó
(Kant ? Rồi Deleuze) tuyên bố rằng : triết lý là lao
động sáng tạo khái niệm, triết gia cứ
tưởng "khái niệm" là cái gì ghê gớm lắm tuy xét cho
cùng nó cũng chỉ là một ngôn từ thôi, và mọi
ngôn từ đều là khái niệm : "cái bàn", chẳng khác gì
"hạt nguyên tử", đương nhiên là một khái niệm, nó có
thể là gì khác ? Khái niệm, xét cho cùng, là quan hệ
giữa người với người được vật thể hoá bằng một âm
thanh hay một ký hiệu. Ngoài quan hệ ấy, trong vũ
trụ làm gì có gì gọi là khái niệm ?
Theo tôi : triết lý là suy luận
để cải tạo những khái niệm sai, mơ hồ hoặc quá thô
sơ, giảm bớt thành kiến cổ lỗ sĩ trong quan hệ giữa
người với người, mở đường cho một nhân giới cởi mở,
đúng đắn và, nếu có thể, trìu mến hơn. Thế thôi.
Trong triết có những vấn đề mà hiện nay khoa học
chưa thể với tới được, chưa kể tới những vấn đề mà
khoa học không thể với tới được, nhưng vẫn là môi
trường sống có nhân cách, môi trường làm người của
ta hôm nay.
3 PHĐ dịch nghĩa, không dịch văn, những câu :
«( ...) le sens de la physique
est de nous faire faire des "découvertes
philosophiques négatives[*]" en montrant que
"certaines affirmations qui prétendent à une
validité philosophique n'en ont pas en vérité".
(...) La physique détruit
certains préjugés de la pensée philosophique et de
la pensée non philosophique, sans pour autant être
une philosophie. Elle se borne à inventer des biais
pour pallier la carence des concepts traditionnels,
mais elle ne pose pas de concepts de droit. Elle
provoque la philosophie, la pousse à penser des
concepts valables dans la situation qui est la
sienne. » [MP]
[*] Merleau-Ponty emprunte cette
expression (et la citation qui suit) aux physiciens
London et Bauer [Ln&B].
Aux contraires,
Jean-Marc Lévy-Leblond, NRF essais, Éditions
Gallimard, 1996, trang 15-16.
Nói toạc móng heo thì thế này :
triết gia truyền thống thường suy luận với nhiều
khái niệm tưởng chừng là những sự thật vĩnh cửu rất
siêu nhưng thực tế thì chẳng có giá trị gì cả. Thí
dụ như khái niệm không gian và thời gian của Kant
hay quan hệ giữa hai khái niệm ấy của Hegel. Bọn vật
lý chúng em xin thưa với các đại gia : trong lãnh
vực hành động cụ thể của chúng em ngày nay, các khái
niệm ấy sai bét ! Vậy các đại gia ráng tìm ra khái
niệm mới phù hợp với hoàn cảnh hành động này vì nó
có thực, chứng minh và thể nghiệm được, và nó thực
sự đã tác động vào đời sống hàng ngày của người đời.
Điều này "đúng / sai" như thế
nào, trong bối cảnh nào, với giới hạn nào, ta không
bàn ở đây. Chỉ cần biết nó có thực và chính đáng,
không thể làm ngơ được.
4 Car, il est vrai, en un certain sens, que "la
science ne pense pas" – c'est même le secret de son
efficacité. La science fait un effort considérable
pour ne pas penser, en mettant au point de
remarquables machines symboliques et formelles qui
prennent en charge les difficultés et les fatigues
de la pensée, tout comme nos machines domestiques et
industrielles viennent relayer et prolonger nos
capacités physiques limitées.
Aux contraires, J-C
Lévy-Leblond, Gallimard, 1996, trang 16.
Lévy-Leblond là giáo sư vật lý
và… triết lý khoa học (épistémologie). Đụng
tới khoa học, tôi thích đọc tác phẩm của các nhà
khoa học đích thực : họ không chỉ có kiến thức vững
vàng và chính xác về khoa học, có người còn có văn
hoá đầy mình, đặc biệt trong lãnh vực triết lý khoa
học từ cổ tới kim. Ý của Lévy-Leblond thế này. Những
kiến thức khoa học đã được khẳng định rồi thì ta có
thể thoải mái dùng – trong bối cảnh mà chúng có giá
trị –, những phương trình toán biểu hiện chúng,
không cần kiểm soát lại, càng không cần tính toán
lại từng bước từ đầu, mất công tốn sức một cách vô
bổ, cứ việc đưa cho máy tính gánh vác hộ. Còn phát
huy kiến thức khoa học lại là chuyện khác, chẳng dễ
tí nào, có khi suy nghĩ nát óc vẫn không nhích lên
được nửa bước.
Dường như đối với kiến thức triết
học thì… ngược lại. Trong triết học, không có khái
niệm nào có thể nhắm mắt tin được, luôn luôn phải
đặt lại vấn đề ngay từ ban đầu. Phải chăng vì thế có
những ý tưởng cổ lỗ sĩ hàng nghìn năm mà hôm nay vẫn
chưa chịu chết ? Phải chăng vì thế, ở đời, triết gia
thì hằng hà sa số, nhưng triết lý mở ra một thời đại
tư duy mới thì cực hiếm.
5 Chứng minh rằng một điều gì đó… sai, quan
trọng không thua gì chứng minh được rằng nó… đúng.
Chứng minh rằng một điều gì đó nằm ngoài khả năng
chứng minh đúng/sai của hệ lý luận mình đang vận
dụng thì càng tuyệt !
6 Mon père ne savait pas tout, mais il savait
un peu de tout. Cha tôi không biết mọi chuyện
nhưng cũng biết một tí về mọi chuyện. Một giá
trị văn hoá phổ thông, culture générale, của
Pháp hồi đầu thế kỷ 20, trước hai cuộc tàn sát khổng
lồ mỹ mãn mà nền văn hoá ấy cho tới nay vẫn không
hiểu nổi. Theo trí nhớ tồi tệ của tôi. Của nhà văn
nào, tôi không nhớ nữa.
7 đối với kinh tế gia và người đời thường, nhưng
đối với toán gia thực thụ thì…
8 Không hoàn toàn "đúng" – nếu ta
chỉ muốn thấy kết quả cuối cùng của
từng giai đoạn phát triển kinh tế ở một số nước như
Trung Quốc hôm nay chẳng hạn. Nhưng nhìn toàn bộ quá
trình phát triển ấy thì kinh hoàng : tàn nhẫn không
thua gì thời tích lũy vốn tư bản ban đầu tại các
nước tư bản ở Tây Âu và thuộc địa cũ và mới của họ.
Cần gì toán học hiện đại để bắt chước tư bản Tây Âu
ở thế kỷ 19 và thành công như họ đã từng thành
công ? Ai không tin, cứ đi hỏi 350 triệu "lao công"
Tàu hiện nay thì biết. Chẳng khác phu đồn điền cao
su ở Việt Nam thời thực dân bao nhiêu.
9 Principe d'incertitude hay Principe
d'indétermination.
10 "Planck rejette, dans un premier temps, le
modèle atomiste des gaz de Maxwell et Boltzmann.
Pour lui, la théorie atomique s’effondrera à terme
en faveur de l’hypothèse de la matière continue. Il
se rallie devant l'évidence à l'atomisme à partir
des années 1890."
En 1899, il introduit les
constantes de Planck (h) et de Boltzmann (k) en même
temps que la notion des quanta [...] Planck a du mal
à accepter sa propre hypothèse, rendant la matière
« discontinue ».
11 Tất nhiên, "hiểu" là một quá trình
bất tận. Marx và Engels đã vạch rõ từ lâu.
Xin "trích" theo trí nhớ tồi tệ
của tôi, ý bất hủ này : La contradiction entre le
caractère limité de nos connaissances et notre
capacité infinie à connaître se résout dans le
développement infini du Savoir. Mâu thuẫn giữa tính
giới hạn của kiến thức của chúng ta và khả năng hiểu
vô tận của chúng ta tự giải quyết qua sự phát triển
vô tận của Kiến Thức. Với ngôn ngữ triết của thế
kỷ 19 tại Châu Âu, hành văn biện chứng đến thế là
cùng !
Dĩ nhiên, "bất tận" trong nhân
giới. Bản thân nhân giới bất tận hay không, phải
điên điên mới dám khẳng định (PHĐ).
12 Quan hệ chung của chúng ta với vật giới và
với nhau trong tư cách người.
13 Xem lập luận chi tiết trong Penser
librement hay Tư duy tự do.
14 Đây là nguyên lý nền tảng của triết lý duy
vật biện chứng của Marx và Engels :
Thoạt tiên có vật chất năng động (matière
en mouvement). Vật chất đã tự nó năng động
thì tự nó cũng là không-thời gian. Khi ta đọc hai
triết gia này xuyên qua những khái niệm "không
gian", "thời gian", "hiện tượng" và "vận động" của
Kant, ta hiểu ai khác, không hiểu họ vì họ không chỉ
phủ định Kant thôi mà còn phủ định luôn cả Hegel
nữa. Trên cơ sở ấy, họ cho rằng điều duy nhất đáng
tìm hiểu là : những quy luật chung nhất của sự vận
động, từ hình thái thô sơ nhất, hình thái vật thể,
tới hình thái phức tạp nhất : tư duy. Và vay mượn,
một cách khá gượng gạo, ba quy luật của phép biện
chứng của Hegel. Tôi đã phân tích vài thí dụ cụ thể
trong Tư Duy Tự Do.
15 Một phương trình vật lý là một quan hệ về
lượng giữa những vật thể, một sự bằng nhau, hơn kém
nhau, một sự đồng nhất về bản chất mặc dù những hình
thái cụ thể khác biệt qua đó ta cảm nhận chúng. E=Mc2
có nghĩa : không có sự khác biệt về bản chất giữa
những cái ta gọi là khối lượng hay năng lượng "của"
một "vật thể".
16 évidence kiểu Descartes.
17 « A vrai dire, je pense que ces dessins
d'atomes sont ce qu'il y a de mieux comme images
classiques, mais rien de plus. »
Werner Heisenberg, La
grande Unification, Seuil, 1991, tr. 85
18 Einstein, Nguyễn Xuân Xanh, NXB
Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh – 2007, trang 260.
Tôi đã "giải thích" ý "quái gở"
này trong hai quyển sách đã nêu.
19 Il raisonnait ainsi : "Observer signifie
établir une relation entre un phénomène et notre
réalisation du phénomène."
Werner Heisenberg, La
grande Unification, Seuil, 1991, tr. 89.
20 tên do chính những nhà khoa học đã dùng để
nêu danh lý thuyết ấy cho người đời thường. PHĐ.
21 Il est toujours risqué, et le plus souvent
abusif, d'extrapoler un énoncé valide dans le cadre
spécifique et restreint d'une théorie physique –
quantique en l'occurence – à des situations d'une
nature toute différente. L'abus confine à
l'escroquerie quand, comme ici, l'énoncé initial est
lui-même plus que douteux. C'est qu'en effet on doit
absolument révoquer l'appellation commune d'
"incertitude" appliquée à ce que nous avons
jusqu'ici dénommé, d'un mot volontairement vague, le
"flou" des grandeurs physiques de position et de
vitesse.
Aux contraires, J-M
Lévy Leblond, Gallimard, trang 190.
Cà khịa chữ nghĩa với ông này thì
mệt lắm đấy. Ít ai sử dụng tiếng Pháp một cách rõ
ràng, mạch lạc, chính xác và chặt chẽ như ông trong
tác phẩm này. Nhưng đọc sách của ông thì mê tơi.
Trong quyển sách này, những trang 184-188 duyệt sơ
qua những lạm dụng "nguyên lý bất định" của các
triết gia, lý thuyết gia trong khoa học nhân văn,
nhà lý luận văn học, nghệ sĩ và… chính khách (Valéry
Giscard d'Estaing, cựu tổng thống Pháp, cựu học sinh
trường Polytechnique).
22 Aux contraires, J-M Lévy
Leblond, Gallimard, trang 130.
Những nhà vật lý đời nay thích
gọi nó bằng "nguyên lý bất biến
(không-thời-gian)", "principe d'invariance
(spatio-temporel)" ! Thế thì còn "tương đối" nỗi
gì ?
23 Nói một cách khơi khơi, không chính xác theo
chuẩn khoa học.
24 một lãnh vực "nhỏ" thôi của con người trong
kiếp nhân sinh, tuy nó đã chi phối hàng ngày toàn bộ
cuộc sống của chính ta, cũng như điện nước và cơ
giới cách đây không lâu. Quen dùng rồi thì chẳng còn
thấy ghê gớm nữa. Không có nghĩa là những nhà lãnh
đạo các quốc gia, nhất là còn đang chậm tiến, có
quyền coi thường chuyện phát huy kiến thức khoa học
và trí tuệ nói chung của dân chúng để, dựa vào nó,
phát triển nhanh và lâu bền mọi lãnh vực khác của
đời sống xã hội. Trong lãnh vực này, chậm một ly,
tụt hậu nghìn dặm. May thay, trong lãnh vực này, có
thể "đốt giai đoạn" được. Cứ coi Nam Hàn thì thấy.
Lévy-Leblond cũng có lý : để tiếp thu và sử dụng
kiến thức khoa học, chỉ cần học và tin thôi, không
cần phải suy nghĩ hung cho lắm ; để phát minh khoa
học thì… không đơn giản như thế !
25 trí thức đủ ngành nghề và chính khách.
26 nhà thơ, nhà văn, triết gia et tutti
quanti.
27 Ôi, chỉ trong bài này thôi, tôi đã dùng từ
"phải" 31 lần ! Bốn lần đáng nghi ngờ nhất lại thể
hiện niềm tin của chính tôi. Chán thật…
28 You come, you profit, we all prosper
By Hu Xiao (China Daily) Updated: 2005-05-17 06:52
http://www.chinadaily.com.cn/english/doc/2005-05/17/content_442834.htm
Trích từ Max Planck, Người
Khai Sáng Thuyết Lượng Tử, Kỷ yếu mừng
sinh nhật thứ 150.
Chủ biên: Phạm Xuân Yêm - Nguyễn Xuân Xanh -
Trịnh Xuân Thuận - Chu Hảo - Đào Vọng Đức. Nhà xuất
bản: Tri Thức, Hà Nội
© http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Phan Huy Đường
|