III. Những nền tảng của kiến-thức
9. Thị-trường, phương-trình-hoá
con người
Khoa-học của một độc-quyền
Trong tất cả các môn khoa-học mệnh danh là
nhân-văn hay xã-hội, kinh-tế, đặc biệt kinh-tế thị-trường, ít khoa-học nhất,
phi-nhân và phi-xã-hội nhất .
Kinh-tế-học cho ta thấy đến mức biếm hoạ giới
hạn của tham vọng tạo tính khoa-học cho những môn khoa-học gọi là nhân-văn.
Những bực thầy-cúng trong môn kinh-tế-học dự
đoán sai đều đều, thậm chí triệt để, không chỉ trong một chi tiết, không chỉ
trong dài hạn. Ta đã chứng kiến điều đó suốt hai mươi năm qua và ngay mới đây.
Hôm trước họ ca ngợi những con rồng con cọp Châu Á, con Gấu Nga cải tiến với đức
hạnh của kinh-tế thị-trường. Hôm sau, chúng sụm cái rầm ! Mọi điều đều sai, đều
sụp đổ, tạo nguy cơ đẩy thế-giới của chúng ta vào hỗn loạn. Rồi
thời-gian trôi đi, giờ điểm giờ, ngày theo ngày, sự độ lượng – và, do đó – tính
cả tin của ta vẫn còn đó. Một thầy-cúng mới tiến lên và phán... Tức khắc, những
chính-trị-gia vươn mình lên dưới tri thức khoa-học của nó để biện minh cho
hành-động của chúng và quyên lá phiếu của ta. Cho tới thảm hoạ tiếp theo. Sự
dốt-nát của tha-nhân thật béo bổ. Không biết ta nên cười hay khóc. Người ta cũng
không thể đổ lỗi vì thiếu phương-tiện. Không môn khoa-học nào lạm dụng
phương-pháp, kỹ thuật, công cụ điện tử, thống kê, toán học nhiều như thế để thu
nhập dữ liệu, phân-tích, mô hình hoá, trù tính... Ta hãi hùng trước giá-trị bằng
số không của thành quả : nó vô tận. Đúng như trong toán : chia bất cứ số nào với
số không, kết quả đều là vô tận. Chẳng hề chi. Có biết bao vị thầy-cúng lừng
danh một buổi đã vĩnh-viễn trượt vào lãng quên sau một phút huy hoàng phù du và
béo bở. Điều đáng ngại là kiến-thức giả này, khoa-học giả này được dùng để
áp đặt trên con người một thế-giới-quan ma-thuật và những thể chế hầu
như tôn-giáo có quyền-lực chẳng ảo tí nào. Trên cơ sở kiến-thức giả ấy, từ ít
nhất hai chục năm nay, « hành-động » quyết định duy nhất mà
chính-trị-gia, tả cũng như hữu hoặc ở đâu đâu đó, có khả-năng đề nghị với bàn
dân là : thuyết phục sự tin tưởng của những thị-trường tài-chính. Ngây thơ, ta
hỏi : thế nghĩa là thuyết phục sự tin tưởng của ai ? Họ tức khắc
tống ta trở về sự dốt-nát của ta ,
trở về những niềm-tin bấp bênh xác đáng của các thầy-cúng trong môn khoa-học
kinh-tế. Sự bất-lực để xác-định khâu hành-động quyết định trong kinh-tế là điều
dễ hiểu trong thế kỷ 19 khi những quyết định kinh-tế cơ-bản phân tán thành hàng
tỷ hành-động cá-nhân mỗi ngày và người ta không có phương-tiện để quan sát và
xử-lý chúng. Nó không dễ hiểu ở thời đại này. Trong cái mà người ta kín đáo gọi
là « những thị-trường tài-chính » sự di chuyển của hầu hết những lượng đôla lớn
quyết định sự vận động của các nền kinh tế đều có thể tìm lại được qua dấu vết
chúng để lại trong những căn cứ dữ liệu. Những dấu vết ấy dẫn tới một số người
khá giới hạn như báo cáo của Liên hiệp quốc về sự phát-triển cho thấy .
Điều đó không hề ngăn cản những thầy-cúng và chính-trị-gia của họ thể chế hoá
những cá-nhân có quyền lấy những quyết định sẽ quyết định tương-lai của ta mà ta
không có quyền có ý-kiến. Kiến-thức lơ mơ (tiên thiên) của các thầy-cúng đó biện
minh cho quyền-lực không thể kiểm soát được và « không ai » kiểm soát của họ. Từ
cuộc tranh dành quyền-lực âm thầm ấy trong nền dân-chủ kỳ cục của ta, ta chỉ
được nghe vọng lại vài dư âm tức cười : bổ nhiệm một chàng Hà Lan làm thủ trưởng
Ngân hàng chung của Châu Âu và đồng thời cách chức chàng trước kỳ hạn để nhường
chỗ cho một anh Pháp. Khi làm trò khỉ mà không chết cười thì cả Nhà nước lẫn
văn-hoá phải lòn chôn những phường lòe bịp .
Một khoa-học không có đối tượng khoa-học
Một điều nổi bật ngay khi ta tìm hiểu khoa-học
hay những khoa-học kinh-tế : đó là những môn khoa-học không có đối tượng
khoa-học.
Trong vật-lý, nhà khoa-học luôn luôn bắt đầu
xác-định chính xác đối tượng nghiên cứu của mình, quan-hệ của nó với những
vật-thể khác,
hành-động mà nhà khoa-học định thao-tác vào nó để quan sát phản
ứng của nó, tìm hiểu và giải thích chúng để rút ra một kiến-thức. Trên cơ sở đó,
nhà khoa-học xác-định những đơn vị đo lường, lập phương-trình, tiến hành
thử-nghiệm. Một đơn vị đo lường luôn luôn là hình-thái khái-niệm của một quan-hệ
thực. Nó biểu-hiện tính đồng-chất của những vật-thể được đo đếm.
Để đo sức nặng của một quyển sách, ta đặt nó trên khay của cái cân, rồi ta đặt
trên khay còn lại những quả cân cho tới lúc ta đạt sự cân bằng giữa chúng và
tuyên bố : quyển sách nặng 300 gam, nó nặng gấp 300 lần một mẩu kim loại lưu trữ
đâu đó trong Điện đo lường. Sức nặng của một vật-thể biểu-hiện trong đầu con
người một quan-hệ về lượng giữa những vật-thể xuyên qua một hình-thái quan-hệ
nào đó. Nếu ta đặt đối tượng nghiên cứu vào quan-hệ khác với vật-thể khác, ta
phải sáng-tạo đơn vị đo lường khác cho phép ta biểu-đạt tính đặc-thù của
hình-thái quan-hệ đó. Chỉ mở từ điển Petit Larousse Illustré, xem mục
« thước » và mục « gam » ắt thấy. Ta nói kiến-thức khoa-học là khách-quan trong
nghĩa này : trước hết nó coi giả-thuyết về sự phản ứng của những vật-thể nó
nghiên cứu trong khuôn khổ một quan-hệ do nó lựa-chọn là giả-định. Chỉ sau khi
thực-hiện quan-hệ đó và ghi nhận rằng những dự đoán lý-thuyết đã được thực-hiện
với một độ chính xác nhất định, nó mới tuyên bố rằng lý-thuyết của nó có giá-trị
khoa-học trong khuôn khổ quan-hệ đó với độ chính xác đó.
Kinh-tế gia tự cho mình là khoa-học nhại như khỉ
nhà khoa-học bằng cách mượn của nó công cụ và phương-pháp, đặc biệt là toán và
thống kê, nhưng lờ đi điều khiến công cụ và phương-pháp ấy có giá-trị : xác-định
đối tượng vật-chất được nghiên cứu và những quan-hệ thực qua đó ta nghiên cứu
nó, mang lại ý-nghĩa cho những đơn vị đo lường mà ta sáng-tạo để biểu-đạt những
quan-hệ ấy. Điều đó khiến cho những ngụy phương-trình mà họ sử dụng chẳng có
ý-nghĩa gì cả.
Ta có thể quan sát điều ấy trong sổ kế toán hàng
ngày của một doanh nghiệp. Ta bắt gặp một bảng biểu kỳ dị có ba cột. Trong cột
đầu, ta thấy có loạn xà ngầu đủ thứ « thực-thể » khác nhau như nhà máy, nước,
giấy bản, dịch vụ và con người. Trong những cột bên,
ta thấy một số tiền bằng Đôla hay Euro... Ở hàng chót, tổng số của những số tiền
trên. Thế nghĩa là gì ? Nghĩa là những « vật-thể » trên được xử-lý như thể chúng
đồng-chất, là một lượng nào đó của một cái gì có chung ở chúng... Điều đó quả
nhiên không bất-khả-thi, nó xảy ra hàng ngày trong xã-hội. Vậy phải nói rõ ràng
qua quan-hệ nào con người đồng-chất với máy-móc, thú-vật, nước hay giấy bản, qua
quan-hệ nào một người có thể bằng hai người khác về lượng. Những
lý-thuyết gia cẩn thận lờ vấn đề đó. Dường như tiền-tệ không là một phát minh
của con người. Dường như nó là một thực-thể khách-quan, một sự-kiện tự-nhiên.
Không vị nào giải thích được rõ ràng tiền là gì và vì sao nó đã trở thành đơn vị
đo lường chung của mọi sự trong vũ trụ. Của những vật-thể, sinh-thể và trí-thể.
Chỉ cần mở một quyển sách giáo khoa trong môn kinh-tế-học cũng đủ thấy :
kiến-thức « khoa-học » về vấn đề cơ-bản này nghèo nàn đến tội nghiệp. Người ta
xào đi xáo lại những ý cũ mèm của Adam Smith, Ricardo và vài vị khác, mắm muối
thêm ít ngôn-từ mới,
thậm chí với những đường cong biểu diễn những phương trình. Trong tiết mục này,
tri thức nghèo nàn tới mức, từ khi thời đại của Keynes chấm dứt, người ta không
biết làm gì hơn là tái diễn, tân hoá : tân cổ điển, tân tự-do, v.v. Một triệu
chứng của thời đại, người ta lải nhải quá-khứ : tư-duy kinh-tế thống-trị
đang giãy chết trong một ngõ kẹt không nên lời.
Những lý-thuyết gia không thích lê lết trong vấn
đề này. Họ thanh toán nó trong nội một giờ, một chương ngắn để vội vã bước vào
những vấn đề nghiêm chỉnh. Điều nghiêm chỉnh là điều người ta có thể hình-thức
hoá, nếu được dưới dạng toán thì càng tốt. Khốn thay, mỗi lần dùng dạng toán ấy,
đơn vị đo lường ma-quái của mọi sự-vật và của mọi con người, đã chễm chệ tại
trận một cách thần-diệu, áp đặt sự thống-trị của nó đối với tư-duy mà không thèm
cho một lời giải thích. Những lý-thuyết gia kinh-tế, dù họ coi kinh-tế như một
môn khoa-học thuần-khiết dựa trên tính duy-lý của những tác nhân kinh-tế suy
luận theo kiểu suy-diễn hay như một môn khoa-học về hành-động dựa trên cách
ứng-xử ít nhiều duy-lý của con người tự-thích-nghi với hoàn cảnh bấp bênh,
đều suy-luận trên cơ sở của một tiền đề không có định-nghĩa và không
thể hiểu được : tiền, thước đo chung của những đối tượng được nghiên cứu, kể cả
con người. Sự phương-trình hoá thế-giới của một học phái này hay của học phái
đối nghịch đều dựa trên sự đồng thuận đáng ngờ đó.
Tiền đề của sự phương-trình hoá ấy là : con người đồng-chất với vật-thể ;
nhu-cầu, hành-động, ý-muốn của nó đều có thể quy thành một lượng vật-chất. Điều
đó khả-thi vì con người cũng là vật-thể. Nếu nó không là vật-thể, nó không có
khả-năng có quan-hệ, kể cả quan-hệ kinh-tế, với bất cứ vật-thể nào hay với người
khác. Chính khả-năng ấy, quan-hệ đặc biệt ấy – mà ta phải vạch rõ – mới có thể
mang lại cho những thuyết-trình kinh-tế một hình-thái hợp-lý, và chính sự khước
từ hay sự bất-lực để diễn tả nó biến những lý-thuyết trên thành kinh kệ. Đáng
tiếc thay. Khoa-học kinh-tế, hiểu như thế, ít nhất cũng mang lại cho ta khả-năng
hiểu-biết một bộ mặt của con người, bộ mặt nó trương ra khi nó
ứng-xử như một vật-thể hay một sinh-thể. Và điều ấy quý. Nhưng mỗi khi
nó chui ra khỏi cái cũi đó, và nó buộc phải chui ra vì, dù muốn dù không, nó là
người, mọi chuyện đều sụp đổ và những nhà khoa-học buộc phải nói vơ nói vẩn về
những đối tượng chẳng khách-quan tí nào : sự tín nhiệm của thị-trường, của người
tiêu-thụ, của cử tri, tính lạc-quan hay bi-quan của người đời. Điều ấy không
ngăn cản họ đo đếm với thống kê trên cơ sở một đơn vị đo lường không có
định-nghĩa tuy nó định-nghĩa mọi vật-thể trong lý-thuyết của họ : tiền. Người ta
dám giới thiệu cái ngôn-ngữ ma-thuật ấy là khoa-học và bảo rằng khoa-học ấy sẽ
hướng dẫn ta tới thế-giới tuyệt hảo nhất trong mọi thế-giới, sẽ dạy ta ứng-xử
hợp-lý !
Không tình cờ. Nhà tư-tưởng kinh-tế duy nhất đã
giải thích một cách hiểu được, nhất-quán, tại sao và qua đâu quan-hệ giữa người
với người, trong những điều kiện lịch-sử nhất định có thể thể-hiện dưới
hình-thái quan-hệ giữa vật với vật, tại sao và qua đâu tiền đã tự-tạo, có thể và
đã trở thành thước đo chung của tất cả, là Karl Marx, một nhà tư-tưởng
biện-chứng đặc biệt. Vì ông quan-niệm con người như một thực-thể ba-chiều-kích,
ông đã cho thấy người ta có thể ép, một cách vô thức nhưng có-thực, quan-hệ của
nó với đồng loại vào một chiều-kích duy nhất. Ông đã tạo ra một cách tiếp cận
biện-chứng những quan-hệ kinh-tế và đồng thời xác-định giới hạn lịch-sử của
chúng.
Một khoa-học không có chủ-thể khoa-học
Nghiên cứu con người như vật-thể mà không thèm
xác-định, biện bạch cho những quan-hệ đặc biệt cho phép quan sát và xử-lý nó như
thế, khoa-học kinh-tế không chỉ là môn khoa-học không có đối tượng
khoa-học, nó còn là môn khoa-học không có chủ-thể-tư-duy, không có
con người khoa-học. Nó có tính ma-thuật, phi-nhân.
Nhà vật-lý không phi-nhân. Sự-thật mà nó tuyên
bố là sự-thật mà một người nói với người khác về quan-hệ giữa những vật-thể. Nhà
vật-lý tin vào sự-thật của điều mình tuyên bố. Nó không có tham vọng nào đối với
những lĩnh-vực kiến-thức khác, nó vẫn giữ nhân-tính của nó. Những nhân tài lớn
nhất trong họ không mặc cảm chút nào về sự dốt-nát của mình trong những lĩnh-vực
khác. Einstein thản nhiên tuyên bố :
« Điều khó hiểu nhất trong vũ trụ là khả-năng hiểu nó của ta. »
Vì hiểu-biết bất cứ gì cũng là quan-hệ giữa người với người, không là quan-hệ về
lượng giữa vật-thể với vật-thể. Schrödinger cho rằng tính khách-quan là một
giả-thuyết để tiện việc, một mẹo của Tinh-thần để đơn giản hoá vấn đề. Edelman
ngạc nhiên rằng sự-thật khoa-học khách-quan chỉ có thể truyền đạt một cách
liên-chủ-quan. Chính vì tính khách-quan là một giá-trị nhân-bản về quan-hệ chung
của con người với vật-giới. Những nhà khoa-học không cần tới sự tín nhiệm của
con người, thậm chí của « những thị-trường tài-chính » để tin tưởng ở sự-thật họ
tuyên bố : thử-nghiệm cho phép chứng minh chúng và thử-nghiệm đó có thể được lặp
lại. Giá-trị khoa-học của một lý-thuyết kinh-tế là bao nhiêu nếu « những
thị-trường tài-chính » không tin ở nó ? Còn những con-người-vật-thể mà nó tìm
hiểu, ai lại mất thời giờ hỏi ý-kiến của họ.
Vì con người là một trí-thể, một thực-thể
xã-hội, khoa-học kinh-tế nào lấy nó làm vật-thể đối tượng khách-quan của nghiên
cứu cùng bản-chất với mọi vật-thể khác xuyên qua thước đo phổ-cập huyền-bí mang
danh tiền, chỉ có thể phản-xã-hội. Như ông xếp tư-bản tuyên bố không mảy
may áy náy lương tâm rằng nhiệm vụ của ông không là làm việc xã-hội mà là kiếm
lời, nhà khoa-học của ta cũng khẳng-định rằng nỗi lo âu của ngài là tìm sự-thật
về đối tượng nghiên cứu của ngài chứ không là lạc đường vào những tranh luận
ý-thức-hệ của loài người.
Nhưng kẹt một nỗi : đối tượng nghiên cứu của nó là một vật-thể có ý-thức, có
tư-duy, là một vật-thể ý-thức-hệ, là một con người. Ông xếp doanh nghiệp phục vụ
quyền lợi của một số ít người chống lại quyền lợi của một số đông người khác.
Ông vẫn là một thực-thể xã-hội, một con người. Hành-động của ông khai triển và
phát-triển trong nhân-giới ở một thời điểm lịch-sử. Nó đòi hỏi sự hợp tác và
đồng thời chịu đựng sự phản kháng của người khác. Ông phải tính tới. Ông phải
chịu trách-nhiệm, hưởng thụ hay trả giá cho hành-động của mình. Ông lĩnh lương
lớn kỳ lạ, stock options và biết bao tiền thưởng béo bở, nhưng chính ông
là người bị người làm thuê biết ơn hay căm thù, chứ không là những chủ nhân đích
thực của tư-bản, đúng theo định-nghĩa chủ vô danh của doanh nghiệp vô-danh-chủ,
cũng như không là những kinh-tế gia, thỉnh thoảng, gợi ý cho hành-động của ông.
Những người làm thuê không thèm đếm xỉa tới những lý-thuyết gia kinh-tế nọ. Họ
có lý. kinh-tế gia tư-sản hoàn toàn vô trách-nhiệm với điều họ tuyên bố nhân
danh sự tự phụ có khả-năng đạt kiến-thức khách-quan, kiến-thức khoa-học. Nó diễn
thuyết trong Hư-vô của những vật-thể không có-thực. Người ta dùng nó khi nào sự
dốt-nát và lòng cả tin của người đời còn gán cho nó một giá-trị. Nó mà mất sự
tín nhiệm của thị-trường, nó tan biến ngay trong bóng tối Hư-vô của thư viện,
trong sự khinh miệt của những kẻ thực sự nắm quyền-lực kinh-tế. Khoa-học của nó
là khoa-học ảo, là thi ca (sự tín-nhiệm, sự ham-muốn, nhu-cầu, giá-trị...),
triết-lý (Kiến-thức, sự Hiểu-biết, Tự-do, sự Lựa-chọn, Hành-động...) dưới mặt nạ
gian trá của Khoa-học (tính Khách-quan, tính Hợp-lý, sự Thích-nghi, toán và
thống kê...) Những kẻ quyền-lực dùng họ như dùng những cái áo : họ thay áo tùy
tiện. Người sẽ thay thế ông Camdessus
để lãnh đạo FMI sẽ chẳng thông thái hay ngu xuẩn hơn ông ấy, người đó sẽ dễ coi
hơn. Trong một thời-gian nào đó. Thời-gian mà ta ngây ngô tin cậy những phán
đoán của nó. Không phải tình cờ mà đức hạnh đầu tiên của một ông tổng đốc ngân
hàng trung ương của một quốc gia, chính là sự im-lặng và khả-năng ăn nói nhập
nhằng. Quyền-lực của bóng ma chỉ có tác dụng trong bóng tối. Trong một nghĩa nào
đó, ta rất muốn được làm bóng ma ôn hoà no nê trong đại dương đau khổ tàn nhẫn
của thế-giới này. Hãy nghe hay đọc lại những thuyết trình độc diễn trên những
media của ta từ 20 năm nay, ta dễ dàng thấy liền.
[17]
Ông Camdessus, chủ tịch ban quản trị FMI từ 01/1987 đến 02/2000, có biệt tài
sau : mỗi lần ông kê đơn trị bệnh kinh-tế và ép các nước chậm tiến vay tiền
thực hiện, ông đều khiến những nền kinh-tế ấy sụp đổ và những xã-hội bị ông
điều trị khủng hoảng. Le Monde Diplomatique, 01/2005.
| |