Thành công của lí thuyết Newton đã gây ấn tượng
rất mạnh lên các nhà lịch sử chủ nghĩa hiện đại,
đặc biệt bởi năng lực dự báo vị trí của các hành
tinh trước một thời gian dài. Họ cho là: Khả
năng về dự báo dài hạn, như vậy, đã được
xác lập, chứng tỏ rằng, các mơ ước lâu đời về
tiên tri tương lai xa không vượt quá các giới
hạn của điều mà trí óc con người có thể đạt
được. Các môn khoa học xã hội phải hướng tới tầm
cao đúng y như vậy. Ðối với thiên văn học, có
thể tiên đoán được thiên thực [sự che khuất nhau
của các thiên thể], vì sao đối với xã hội học,
lại không có thể tiên đoán được các cuộc cách
mạng?
Mặc dù chúng ta nên hướng cao như vậy, chúng ta
không bao giờ được quên, nhà lịch sử chủ nghĩa
sẽ nhấn mạnh rằng: Các môn khoa học xã hội không
thể hi vọng và không nên nỗ lực để đạt sự chính
xác của các dự báo thiên văn học. Một lịch khoa
học chính xác về các sự kiện xã hội, so sánh
được với, thí dụ, Niên giám Hàng hải, được chứng
tỏ (ở các mục 5 và 6) là không thể thực hiện, về
mặt logic. Cho dù các cuộc cách mạng có thể được
tiên đoán bởi các môn khoa học xã hội, những
tiên đoán như vậy không thể chính xác; phải có
một biên bất định về chi tiết của nó cũng như về
diễn tiến thời gian của nó.
Trong khi thừa nhận, và thậm chí nhấn mạnh, các
thiếu sót của các tiên đoán xã hội liên quan đến
chi tiết và độ chính xác, các nhà lịch sử chủ
nghĩa cho rằng: Tầm và ý nghĩa quan trọng của
các tiên đoán như vậy có thể bù cho các thiếu
sót này. Những thiếu sót nảy sinh chủ yếu từ
tính phức tạp của các sự kiện xã hội, từ sự liên
kết với nhau của chúng, và từ đặc điểm định tính
của các khái niệm xã hội học. Nhưng, mặc dù khoa
học xã hội vì thế bị mập mờ, các khái niệm định
tính của nó đồng thời cho nó một sự phong phú
nào đó và tính chất toàn diện về ý nghĩa. Các
thí dụ của các khái niệm như vậy: “xung đột văn
hoá”, “sự thịnh vượng”, “đoàn kết”, “đô thị
hoá”, “tính thoả dụng”. Các tiên đoán thuộc loại
được mô tả, tức là các tiên đoán dài hạn mà tính
mập mờ của chúng được bù lại bằng phạm vi và tầm
quan trọng của chúng, tôi kiến nghị gọi là “các
tiên đoán trên quy mô lớn” hay “các tiên
đoán toàn diện”. Theo chủ nghĩa lịch sử,
loại tiên đoán này là điều xã hội học phải nỗ
lực.
Chắc hẳn đúng là các tiên đoán quy mô lớn như
vậy - các tiên đoán dài hạn với tầm rộng và có
thể hơi mơ hồ - có thể đạt được trong một số môn
khoa học. Các thí dụ về tiên đoán quan trọng và
khá thành công có thể thấy trong lĩnh vực thiên
văn học. Thí dụ là dự đoán hoạt động của các vết
mặt trời trên cơ sở các quy luật tuần hoàn (quan
trọng cho thay đổi thời tiết) hay sự thay đổi
hàng ngày hay theo mùa về sự ion hoá ở tầng cao
khí quyển (quan trọng cho liên lạc vô tuyến
điện). Các dự báo này giống với các tiên đoán
thiên thực ở chừng mực: Chúng đề cập đến các sự
kiện trong tương lai tương đối xa, nhưng chúng
khác dự báo thiên thực ở chỗ: Thường chúng chỉ
mang tính thống kê và trong mọi trường hợp, ít
chính xác hơn khi liên quan đến chi tiết, thời
gian, và các đặc điểm khác. Chúng ta thấy ở các
dự báo toàn diện, có lẽ bản thân chúng không phi
thực tiễn; và nếu nói chung, các khoa học xã hội
chỉ có thể đạt được các dự báo dài hạn, thì khá
rõ là chúng chỉ có thể là điều mà chúng ta đã mô
tả như các dự báo toàn diện. Mặt khác, suy ra từ
sự trình bày của chúng ta về các thuyết phản tự
nhiên của chủ nghĩa lịch sử, cho rằng các dự
báo ngắn hạn trong các môn khoa học xã hội
bị bất lợi lớn. Thiếu chính xác chắc hẳn ảnh
hưởng đáng kể đến chúng, vì do bản tính của
chúng, chúng chỉ có thể đề cập đến các chi tiết,
các đặc điểm nhỏ hơn của đời sống xã hội, vì
chúng bị giới hạn ở các giai đoạn ngắn. Nhưng
một dự báo chi tiết mà lại không chính xác về
chi tiết thì thật chẳng có ích gì. Như vậy, nếu
chúng ta có quan tâm đến dự báo xã hội nói
chung, thì các dự báo toàn diện (cũng là các dự
báo dài hạn) còn lại, theo chủ nghĩa lịch sử,
không chỉ là hấp dẫn nhất mà thực sự là các dự
báo duy nhất đáng thử làm.
Mục 12: Cơ sở quan sát
Cơ sở quan sát phi thí nghiệm cho một môn khoa
học, theo một nghĩa nào đó của từ, là luôn mang
tính “lịch sử”. Là thế ngay cả với cơ sở quan
sát của thiên văn học. Các sự thực mà thiên văn
học dựa vào được chứa trong các bản ghi chép của
đài thiên văn; các bản ghi thông báo với chúng
ta, thí dụ, rằng tại một thời điểm nào đó (giờ,
giây) sao Thuỷ được ông Này ông Nọ quan sát ở vị
trí nào đó. Tóm lại, chúng cho chúng ta một “sổ
ghi các sự kiện theo thứ tự thời gian”, hoặc một
ghi chép về những quan sát.
Tương tự, cơ sở quan sát của xã hội học chỉ có
thể cho dưới dạng một ghi chép về các sự kiện,
ấy là các biến cố chính trị hay xã hội. Sự ghi
chép các biến cố chính trị và biến cố quan trọng
khác trong đời sống xã hội là cái người ta
thường gọi là “lịch sử”. Lịch sử theo nghĩa hẹp
này là cơ sở của xã hội học.
Nực cười khi đi phủ nhận tầm quan trọng của lịch
sử theo nghĩa hẹp này như một cơ sở kinh nghiệm
cho khoa học xã hội. Nhưng một trong những khẳng
định đặc trưng của chủ nghĩa lịch sử, điều liên
kết mật thiết với sự phủ nhận của nó về tính có
thể áp dụng được của phương pháp thí nghiệm, là
lịch sử chính trị và xã hội, là nguồn kinh
nghiệm duy nhất của xã hội học. Như thế,
nhà lịch sử chủ nghĩa hình dung xã hội học như
một môn lí thuyết và kinh nghiệm mà cơ sở kinh
nghiệm của nó được tạo riêng bởi sự ghi chép các
sự thực lịch sử, và mục đích của nó là đưa ra
các dự đoán, tốt nhất là các dự báo toàn diện.
Rõ ràng, các dự báo này cũng phải có tính
lịch sử, vì sự kiểm chứng chúng bằng kinh
nghiệm, sự xác minh hay bác bỏ chúng, phải được
để cho lịch sử tương lai thực hiện. Như vậy, đưa
ra và kiểm chứng các dự báo lịch sử toàn diện là
nhiệm vụ của xã hội học theo cách nhìn của chủ
nghĩa lịch sử. Tóm lại, nhà lịch sử chủ nghĩa
cho rằng xã hội học là sử học lí thuyết.
Mục 13: Ðộng học xã hội
Có thể mở rộng thêm sự tương tự giữa khoa học xã
hội và thiên văn học. Phần thiên văn học mà các
nhà lịch sử chủ nghĩa thường xem xét, cơ học
thiên thể, dựa trên động học, lí thuyết về
chuyển động như được xác định bởi các lực. Các
tác giả lịch sử chủ nghĩa thường nhấn mạnh là xã
hội học phải, theo cách tương tự, dựa vào động
học xã hội, lí thuyết về vận động xã hội như
được các lực lượng xã hội (hay lịch sử) xác
định.
Nhà vật lí biết rằng, tĩnh học chỉ là một sự
tách ra từ động học; tức là lí thuyết giải thích
làm sao và vì sao, dưới những hoàn cảnh nhất
định, không có gì xảy ra, tức là vì sao sự thay
đổi không xảy ra; và nó giải thích điều này bằng
sự cân bằng của các lực chống lại nhau. Còn động
học, mặt khác, đề cập trường hợp tổng quát, tức
là với các lực bằng nhau hay không bằng nhau, và
có thể được mô tả như lí thuyết giải thích: Làm
sao và vì sao cái gì đó xảy ra. Như thế, chỉ
động học có thể cho chúng ta các định luật có
hiệu lực phổ quát của cơ học; vì tự nhiên là một
quá trình; nó chuyển động, thay đổi, phát triển
- mặc dù đôi khi chỉ chậm chạp, làm cho việc
quan sát sự phát triển có thể gặp khó khăn.
Sự tương tự của cách nhìn này về động học đối
với cách nhìn về xã hội học của nhà lịch sử chủ
nghĩa là hiển nhiên và không cần bình luận thêm.
Nhưng, nhà lịch sử chủ nghĩa có thể cho rằng, sự
tương tự là sâu xa hơn. Ông ta, thí dụ, có thể
cho rằng xã hội học, như được chủ nghĩa lịch sử
hình dung, là hơi giống động học, bởi vì nó, về
bản chất, là một lí thuyết nhân quả; vì sự giải
thích nhân quả nói chung là một sự giải thích:
Làm sao và vì sao các sự vật nào đó xảy ra. Về
cơ bản, một giải thích như vậy phải luôn có một
yếu tố lịch sử. Nếu ta hỏi ai đó bị gẫy chân làm
sao và vì sao nó xảy ra, ta trông chờ anh ta sẽ
nói về lịch sử của tai nạn. Nhưng ngay cả ở mức
tư duy lí thuyết, và đặc biệt ở mức của các lí
thuyết cho phép dự báo, một phân tích lịch sử về
các nguyên nhân của một sự kiện là cần thiết.
Thí dụ điển hình của nhu cầu đối với một phân
tích nguyên nhân, nhà lịch sử chủ nghĩa quả
quyết, là vấn đề về căn nguyên, hay các lí do
bản chất, của chiến tranh.
Trong vật lí học, một sự phân tích như vậy được
thực hiện bằng cách xác định các lực tương tác,
tức là bởi động học; và nhà lịch sử chủ nghĩa
cho rằng, xã hội học cũng phải nỗ lực như thế.
Nó phải phân tích các lực gây ra sự thay đổi xã
hội và tạo ra lịch sử nhân loại. Từ động học,
chúng ta học được các lực tương tác tạo thành
các lực mới ra sao; và ngược lại, bằng phân tích
các lực ra các thành phần, chúng ta có khả năng
hiểu thấu các nguyên nhân căn bản hơn của các sự
kiện được xem xét. Cũng như vậy, chủ nghĩa lịch
sử đòi hỏi sự thừa nhận tầm quan trọng cơ bản
của các lực lượng lịch sử, bất luận tinh thần
hay vật chất; thí dụ, các tư tưởng tôn giáo hay
đạo đức, hoặc các lợi ích kinh tế. Đi phân tích,
đi gỡ mối bòng bong này của các xu hướng và lực
xung đột nhau và để thâm nhập đến, lần đến gốc
rễ của nó, đến động lực phổ quát và các quy luật
của biến đổi xã hội - đây là nhiệm vụ của các
môn khoa học xã hội, chí ít theo sự mường tượng
của chủ nghĩa lịch sử. Chỉ bằng cách này, chúng
ta mới có thể phát triển một khoa học lí thuyết
làm cơ sở cho các dự báo toàn diện mà sự xác
nhận của chúng sẽ có nghĩa là thành công của lí
thuyết xã hội.
Mục 14: Các quy luật lịch sử
Chúng ta đã thấy rằng: Xã hội học, theo nhà lịch
sử chủ nghĩa, là sử học lí thuyết. Các dự đoán
khoa học của nó phải dựa vào các quy luật, và vì
chúng là các dự báo lịch sử, dự báo về sự biến
đổi xã hội, chúng phải dựa vào các quy luật lịch
sử.
Nhưng đồng thời, nhà lịch sử chủ nghĩa cho là
phương pháp khái quát hoá không thể áp dụng được
cho khoa học xã hội, và rằng, chúng ta không
được giả thiết những sự đồng đều của đời sống xã
hội là có hiệu lực một cách bất biến trong không
gian và thời gian, vì chúng thường chỉ áp dụng
cho một giai đoạn văn hoá hay lịch sử nào đó.
Như vậy các quy luật xã hội - nếu có bất kể quy
luật xã hội thực sự nào - phải có một cấu trúc
hơi khác một chút so với các khái quát hoá thông
thường dựa trên những sự đều đặn. Các quy luật
xã hội thực sự phải có hiệu lực “nói chung”.
Song điều này chỉ có thể có nghĩa là chúng áp
dụng cho toàn bộ lịch sử loài người, phủ mọi
giai đoạn của lịch sử loài người, hơn là chỉ bao
phủ một vài giai đoạn trong số đó. Nhưng khi
vượt quá những giai đoạn đơn nhất, không thể có
sự đồng đều xã hội nào được cho là đúng cả. Như
vậy, các quy luật có hiệu lực phổ quát duy nhất
của xã hội phải là các quy luật liên kết các
giai đoạn kế tiếp nhau. Chúng phải là các
quy luật về phát triển lịch sử, các quy luật
quyết định sự quá độ từ một giai đoạn sang giai
đoạn khác. Đây là điều các nhà lịch sử chủ nghĩa
hiểu khi nói rằng: Các quy luật duy nhất của xã
hội học là các quy luật lịch sử.
Mục 15: Tiên tri lịch sử đối lại với cải biến
xã hội
Như đã chỉ ra, các quy luật lịch sử này (nếu có
thể khám phá ra chúng) sẽ cho phép tiên đoán các
sự kiện thậm chí rất xa, cho dù không chính xác
đến từng phút về chi tiết. Như thế, học thuyết
cho rằng các quy luật xã hội thực sự là các quy
luật lịch sử (một học thuyết chủ yếu dẫn xuất từ
tính hiệu lực hạn chế của những sự đồng đều xã
hội) dẫn ta trở lại, độc lập với bất kể nỗ lực
bắt chước thiên văn học nào, với ý tưởng về “dự
báo toàn diện”. Và nó làm cho ý tưởng này cụ thể
hơn, vì nó chứng tỏ: Các dự báo này có đặc tính
của các lời tiên tri lịch sử.
Xã hội học, như thế trở thành, theo nhà lịch sử
chủ nghĩa, một nỗ lực để giải vấn đề cũ về việc
đoán trước tương lai; mặc dù không phải tương
lai của cá nhân mà là của các nhóm, và của loài
người. Nó là khoa học của những sự kiện sắp tới,
của sự phát triển sắp xảy ra. Nếu nỗ lực để cung
cấp cho chúng ta sự thấy trước có hiệu lực khoa
học giả như thành công, thì xã hội học sẽ tỏ ra
có giá trị thật to lớn cho các chính trị gia,
đặc biệt cho những người có tầm nhìn vượt quá
những cấp bách hiện thời, cho các chính trị gia
có ý thức về vận mệnh lịch sử. Đúng là một số
nhà lịch sử chủ nghĩa vừa lòng tiên đoán chỉ các
giai đoạn tiếp theo của cuộc hành hương của con
người, và thậm chí làm việc này rất thận trọng.
Nhưng tất cả bọn họ đều có một ý tưởng chung:
Nghiên cứu xã hội học phải giúp khám phá ra
tương lai, và vì vậy, nó có thể trở thành công
cụ hàng đầu của hoạt động chính trị thực tiễn
nhìn xa trông rộng.
Từ quan điểm giá trị thực dụng của khoa học, tầm
quan trọng của các tiên đoán khoa học là đủ rõ.
Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu rõ là có thể
phân biệt hai loại tiên đoán trong khoa học, và
vì vậy, có hai cách thực hiện khác nhau. Chúng
ta có thể dự báo (a) một cơn bão sắp xảy
ra, một dự báo có thể có giá trị thực tiễn rất
lớn vì nó có thể cho phép người dân kiếm chỗ trú
ẩn kịp thời; nhưng chúng ta cũng có thể dự báo (b)
rằng nếu một chỗ trú ẩn nào đó để có thể đứng
vững với bão, nó phải được xây dựng theo cách
nào đấy, thí dụ, với trụ tường phía bắc bằng bê
tông cốt sắt.
Hai loại dự báo này hiển nhiên là rất khác nhau,
mặc dù cả hai đều quan trọng và thoả mãn các ước
mơ lâu đời. Trong trường hợp một, chúng ta được
nói về một sự kiện mà chúng ta chẳng có thể làm
gì để ngăn chặn. Tôi sẽ gọi tiên đoán như vậy là
một lời “tiên tri”. Giá trị thực tiễn của
nó là ở chỗ: Cảnh báo chúng ta về sự kiện được
dự báo, sao cho chúng ta có thể tránh né nó hay
đương đầu với nó với sự chuẩn bị (có lẽ với sự
giúp đỡ của các dự báo loại kia).
Ngược với các dự đoán này là các dự báo loại thứ
hai mà chúng ta có thể mô tả như các dự báo
kĩ thuật (technological) vì các dự báo loại
này tạo cơ sở cho ngành kĩ thuật
(engineering). Có thể nói, chúng mang tính
xây dựng, gợi ý các bước mở ra cho chúng ta
nếu chúng ta muốn đạt kết quả nhất định.
Phần lớn vật lí học (gần như tất cả, ngoại trừ
thiên văn học và khí tượng học) đưa ra các tiên
đoán ở dạng mà, xét từ lập trường thực tiễn,
chúng có thể được mô tả như dự báo kĩ thuật. Sự
phân biệt giữa hai loại tiên đoán này, đại thể
trùng với tầm quan trọng ít hơn hay lớn hơn của
phần thí nghiệm được thiết kế đối lại với việc
đơn thuần quan sát nhẫn nại trong ngành khoa học
có liên quan. Các khoa học thực nghiệm điển hình
có khả năng đưa ra các dự đoán kĩ thuật, còn các
khoa học chủ yếu áp dụng quan sát không có thí
nghiệm tạo ra các lời tiên tri.
Tôi không muốn được coi như ngụ ý cho rằng: Mọi
ngành khoa học, hoặc thậm chí mọi tiên đoán khoa
học, căn bản mang tính thực tiễn - rằng chúng
nhất thiết hoặc mang tính tiên tri hoặc mang
tính kĩ thuật và không thể là bất kể thứ gì
khác. Tôi chỉ muốn lưu ý đến sự khác biệt giữa
hai loại tiên đoán và các khoa học tương ứng với
chúng. Trong lựa chọn thuật ngữ “tiên tri” và
“kĩ thuật”, tôi chắc chắn muốn ám chỉ một đặc
điểm mà chúng bộc lộ, nếu nhìn từ quan điểm thực
dụng; nhưng việc sử dụng thuật ngữ này của tôi
chẳng có ý định muốn nói: Quan điểm thực dụng
nhất thiết là ưu việt hơn quan điểm khác, cũng
không có ngụ ý: Mối quan tâm khoa học chỉ giới
hạn cho các lời tiên tri quan trọng về mặt thực
dụng và cho các tiên đoán mang tính kĩ thuật.
Nếu chúng ta xem xét, thí dụ, thiên văn học,
chúng ta phải thừa nhận rằng những khám phá của
nó chủ yếu lí thú về mặt lí thuyết, dẫu cho
chúng không phải không có giá trị từ quan điểm
thực dụng; nhưng với tư cách là “các lời tiên
tri”, chúng đều giống như các dự báo thời tiết
mà giá trị của chúng cho các hoạt động thực tiễn
là khá hiển nhiên.
Đáng lưu ý rằng: Sự khác biệt giữa tính chất
tiên tri và kĩ thuật của các khoa học không
tương ứng với sự khác biệt giữa các dự báo dài
hạn và ngắn hạn. Mặc dù hầu hết tiên đoán kĩ
thuật là ngắn hạn, cũng có các tiên đoán kĩ
thuật dài hạn, thí dụ, về tuổi thọ của một động
cơ. Lần nữa, các tiên tri thiên văn có thể hoặc
là ngắn hạn hoặc là dài hạn, và hầu hết tiên tri
thời tiết là tương đối ngắn hạn.
Sự khác nhau giữa hai mục tiêu thực tiễn này -
tiên tri và kĩ thuật - và sự khác nhau tương ứng
trong cấu trúc của các lí thuyết khoa học liên
quan, sẽ được thấy muộn hơn, là một trong các
điểm chính trong phân tích phương pháp luận của
chúng ta. Lúc này, tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng:
Các nhà lịch sử chủ nghĩa, khá nhất quán với
lòng tin của họ, cho rằng các thí nghiệm xã hội
học là vô dụng và không thể thực hiện, lí luận
ủng hộ tiên tri lịch sử - tiên tri sự phát triển
xã hội, chính trị và định chế - và chống lại cải
biến xã hội (social engineering), như mục
tiêu thực tiễn của các môn khoa học xã hội. Ý
tưởng về cải biến xã hội, tức là kế hoạch hoá và
xây dựng các định chế, có lẽ với mục tiêu chặn
lại, kiểm soát hay đẩy nhanh các diễn biến xã
hội sắp xảy ra, đối với một số nhà lịch sử chủ
nghĩa, tỏ ra có thể thực hiện được. Đối với
những người khác, điều này dường như không thể
làm nổi, hoặc là việc bỏ qua sự thực, cho rằng
kế hoạch hoá chính trị, giống mọi hoạt động xã
hội, phải ở dưới sự thống trị bề trên của các
lực lượng lịch sử.
Mục 16: Lí thuyết về tiến triển lịch sử
Những cân nhắc này đã đưa chúng ta đến rất gần
tâm của tập các lí lẽ mà tôi kiến nghị gọi là
“chủ nghĩa lịch sử”, và chúng biện minh cho sự
lựa chọn cái nhãn này. Khoa học xã hội chẳng
khác gì lịch sử: Ðây là luận đề. Tuy vậy, không
phải lịch sử theo nghĩa truyền thống của một sử
biên niên của các sự thực. Loại lịch sử mà các
nhà lịch sử chủ nghĩa muốn đồng nhất với xã hội
học không chỉ nhìn lui lại vào quá khứ mà cũng
nhìn hướng về tương lai. Nó là việc nghiên cứu
các lực hoạt động và, trước hết, các quy luật
của tiến triển xã hội. Do đó, nó có thể được mô
tả như lí thuyết lịch sử, hay sử học lí thuyết,
vì chỉ có các quy luật xã hội có hiệu lực phổ
quát mới được coi như các quy luật lịch sử.
Chúng phải là các quy luật về quá trình, về thay
đổi, về phát triển - không phải các quy luật giả
về những sự bất biến hay đồng đều bề ngoài. Theo
các nhà lịch sử chủ nghĩa, các nhà xã hội học
phải cố đạt được ý tưởng chung về các xu
hướng rộng lớn mà các cơ cấu xã hội thay đổi
phù hợp với chúng. Nhưng bên cạnh điều này, họ
phải cố gắng hiểu các nguyên nhân của quá trình
này, hoạt động của các lực chịu trách nhiệm về
sự thay đổi. Họ phải cố gắng trình bày các giả
thuyết về các xu hướng chung nằm dưới sự phát
triển xã hội, nhằm để cho con người có thể điều
chỉnh mình đối với những thay đổi sắp xảy ra,
bằng cách rút ra các lời tiên tri từ các quy
luật này.
Quan niệm của nhà lịch sử chủ nghĩa về xã hội
học có thể được làm rõ thêm, bằng cách theo dõi
sự phân biệt mà tôi đã nêu ra giữa hai loại dự
đoán khác nhau - và sự phân biệt liên quan giữa
hai loại khoa học. Ngược lại với phương pháp
luận lịch sử chủ nghĩa, chúng ta có thể hình
dung một phương pháp luận nhắm tới khoa học
xã hội kĩ thuật. Một phương pháp luận như
vậy sẽ dẫn đến việc nghiên cứu các quy luật
chung của đời sống xã hội, với mục đích tìm ra
tất cả các sự thật không thể thiếu được như cơ
sở cho công việc của mọi người tìm cách cải cách
các định chế xã hội. Không nghi ngờ gì là có các
sự thực như vậy. Thí dụ, chúng ta biết nhiều hệ
thống Không tưởng phi thực tiễn đơn giản vì
chúng không xem xét các sự thực đó một cách
thích đáng. Phương pháp luận kĩ thuật mà chúng
ta đang xem xét sẽ hướng vào việc cung cấp các
công cụ để tránh các kiến trúc phi thực tiễn như
vậy. Nó sẽ là phản lịch sử chủ nghĩa, nhưng
chẳng hề phản lịch sử. Kinh nghiệm lịch sử sẽ
phục vụ nó như nguồn thông tin quan trọng nhất.
Nhưng, thay cho việc cố tìm ra các quy luật về
phát triển xã hội, nó sẽ tìm các quy luật đa
dạng, các quy luật áp đặt những hạn chế lên việc
xây dựng các định chế xã hội, hoặc tìm các tính
đều đặn khác (mặc dù những điều này, các nhà
lịch sử chủ nghĩa nói, không tồn tại).
Cũng như việc dùng các lí lẽ ngược lại với loại
đã được thảo luận, nhà lịch sử chủ nghĩa, như
vậy, có thể nghi ngờ khả năng và tính hữu dụng
của một công nghệ xã hội. Hãy giả sử, ông ta có
thể nói, rằng kĩ sư xã hội đã vạch tỉ mỉ một kế
hoạch cho một cấu trúc xã hội mới, được hỗ trợ
bởi loại xã hội học được ta hình dung ra. Chúng
ta giả sử rằng, kế hoạch này là cả thực tế lẫn
hiện thực theo nghĩa: Nó không mâu thuẫn với các
sự thực quen biết và các quy luật của đời sống
xã hội; và chúng ta thậm chí giả sử rằng: Kế
hoạch được hỗ trợ bởi một kế hoạch nữa, cũng
thực tiễn như thế, để biến đổi xã hội như vốn có
hiện nay sang cấu trúc mới. Cho dù có đúng như
thế, các lí lẽ lịch sử chủ nghĩa chứng tỏ rằng,
một kế hoạch như vậy sẽ không đáng để xem xét
nghiêm túc. Nó vẫn là một ước mơ phi hiện thực
và Không tưởng, chính vì nó không tính đến các
quy luật về phát triển lịch sử. Các cuộc cách
mạng xã hội không phải do các kế hoạch duy lí
gây ra, mà do các lực lượng xã hội gây ra, thí
dụ, do những xung đột lợi ích. Ý tưởng cổ xưa về
một ông vua-triết gia, người đưa các kế hoạch
được suy nghĩ cẩn thận nào đó vào thực tiễn, là
một chuyện được bịa ra vì lợi ích của giới quý
tộc địa chủ. Cái tương đương dân chủ của chuyện
bịa này là sự mê tín, cho rằng đủ số người có
thiện chí sẽ có thể được lí lẽ duy lí thuyết
phục để thực hiện các hành động có kế hoạch.
Lịch sử chứng tỏ rằng: Thực tế xã hội là hoàn
toàn khác. Tiến trình diễn tiến lịch sử chẳng
bao giờ được định hình bởi các cấu trúc lí
thuyết, dẫu cho xuất sắc đến đâu, dù cho các sơ
đồ như vậy có thể, phải thừa nhận, có ảnh hưởng
nào đó, cùng với nhiều nhân tố ít duy lí (hay
thậm chí phi lí) khác. Ngay cả nếu một kế hoạch
duy lí có trùng với các lợi ích của các nhóm
hùng mạnh, nó sẽ chẳng bao giờ được thực hiện
theo cách mà nó được hình dung, bất chấp sự thực
rằng cuộc đấu tranh để thực hiện nó, khi đó, sẽ
trở thành một nhân tố chủ yếu trong quá trình
lịch sử. Kết quả thật sẽ luôn luôn rất khác cấu
trúc duy lí. Nó sẽ luôn luôn là kết quả của hình
trạng nhất thời của các lực lượng tranh đua
nhau. Hơn nữa, kết quả của kế hoạch hoá duy lí
không thể trở thành một cấu trúc ổn định dưới
bất kể hoàn cảnh nào; vì sự cân bằng lực lượng
nhất thiết thay đổi. Mọi cải biến xã hội (social
engineering), bất kể nó tự hào đến đâu về
tính hiện thực và về tính khoa học của nó, đều
chịu số phận vẫn là một mơ ước Không tưởng.
Cho đến nay, nhà lịch sử chủ nghĩa tiếp tục dùng
những lí lẽ để hướng tới việc: Chống khả năng
thực tiễn của cải biến xã hội theo một môn khoa
học lí thuyết nào đó, chứ không chống lại ý
tưởng về bản thân môn khoa học đó. Tuy vậy, nó
có thể được mở rộng dễ dàng để chứng minh tính
“không thể” của bất kể môn khoa học xã hội nào
thuộc loại công nghệ. Chúng ta đã thấy rằng: Sự
đảm đương phiêu lưu cải biến có tính thực tiễn
chịu số phận thất bại vì các sự thực và quy luật
xã hội rất quan trọng. Nhưng điều này không hàm
ý chỉ rằng một sự phiêu lưu như vậy không có giá
trị thực tiễn mà cũng hàm ý rằng: Nó yếu về mặt
lí thuyết, vì nó bỏ qua các quy luật xã hội duy
nhất quan trọng thật sự - các quy luật phát
triển. “Khoa học” mà nó được cho là dựa vào cũng
phải bỏ sót các quy luật này, vì khác đi thì nó
sẽ chẳng bao giờ đã cung cấp cơ cở cho các cấu
trúc phi thực tế đến vậy. Bất kể môn khoa học xã
hội nào mà không thuyết giảng tính không thể của
kiến trúc xã hội duy lí, là hoàn toàn mù quáng
đối với các sự thực quan trọng nhất của đời sống
xã hội, và phải bỏ qua các quy luật xã hội duy
nhất có tính hợp lệ thật sự và tầm quan trọng
thật sự. Các môn khoa học xã hội tìm cách tạo cơ
sở cho cải biến xã hội, vì vậy, không thể mô tả
đúng các sự thực xã hội. Bản thân chúng là
“không thể”.
Nhà lịch sử chủ nghĩa sẽ đòi hỏi rằng: Bên cạnh
sự phê phán mang tính quyết định này, còn có các
lí do khác nữa để từ chối xã hội học công nghệ.
Một lí do, thí dụ, là chúng bỏ qua các khía cạnh
của diễn tiến xã hội như sự nổi lên của tính
mới. Ý tưởng cho rằng chúng ta có thể xây dựng
các cấu trúc xã hội mới một cách duy lí trên cơ
sở khoa học, hàm ý rằng: Chúng ta có thể tạo ra
một thời kì lịch sử mới ít nhiều chính xác theo
cách chúng ta đã lập kế hoạch. Thế mà, nếu kế
hoạch dựa vào một môn khoa học bao trùm các sự
thực xã hội, thì nó không thể tính đến các đặc
tính mới thực chất, chỉ đến những tính mới về
sắp xếp (xem mục 3). Nhưng chúng ta biết rằng,
một thời kì mới sẽ có tính mới thật sự riêng của
nó - một lí lẽ phải làm cho bất kể kế hoạch hoá
chi tiết nào trở thành vô ích, và bất kể môn
khoa học nào mà nó dựa vào đều không đúng.
Những cân nhắc lịch sử chủ nghĩa này có thể áp
dụng cho mọi môn khoa học xã hội, bao gồm cả
kinh tế học. Kinh tế học, vì vậy, không thể cho
chúng ta bất kể thông tin có giá trị nào liên
quan đến sự cải cách xã hội. Chỉ có giả-kinh tế
học có thể tìm cách tạo một cơ sở cho kế hoạch
hoá kinh tế duy lí. Kinh tế học khoa học thật sự
chỉ có thể giúp việc tiết lộ các động lực của sự
phát triển kinh tế, thông qua các giai đoạn lịch
sử khác nhau. Nó có thể giúp chúng ta nhìn thấy
trước các nét phác hoạ của các giai đoạn tương
lai, nhưng nó không thể giúp chúng ta phát triển
và đưa vào hoạt động bất kể kế hoạch chi tiết
nào cho bất kể thời kì mới nào. Cái đúng với các
khoa học xã hội khác phải đúng với kinh tế học.
Mục đích cuối cùng của nó chỉ có thể “để bóc
trần quy luật kinh tế về vận động của xã hội
loài người” (Marx).
Mục 17: Diễn giải đối lại việc lập kế hoạch
thay đổi xã hội
Quan điểm lịch sử chủ nghĩa về sự phát triển xã
hội không ngụ ý thuyết định mệnh, nó cũng chẳng
dẫn đến sự không hoạt động - hoàn toàn ngược
lại. Hầu hết các nhà lịch sử chủ nghĩa có các
khuynh hướng rất rõ rệt, hướng tới “chủ nghĩa
tích cực” (xem mục 1). Chủ nghĩa lịch sử nhận ra
đầy đủ rằng: Những mong muốn và suy nghĩ của
chúng ta, các ước mơ và lí lẽ của chúng ta, sự
sợ hãi và tri thức của chúng ta, các lợi ích và
năng lực của chúng ta, đều là các lực lượng để
phát triển xã hội. Nó không dạy rằng: Chẳng có
thể tạo ra cái gì; nó chỉ tiên đoán rằng: Cả các
mơ ước của ta lẫn những điều mà lí trí của ta
xây dựng lên sẽ chẳng bao giờ xảy ra theo kế
hoạch. Chỉ có các kế hoạch khớp với dòng
lịch sử chủ yếu là có thể có kết quả. Bây giờ,
ta có thể thấy chính xác loại hoạt động được các
nhà lịch sử chủ nghĩa thừa nhận là hợp lí. Chỉ
có các hoạt động như vậy là hợp lí, các hoạt
động hợp với, và thúc đẩy cho, các thay đổi sắp
xảy ra. Việc đỡ đẻ xã hội là hoạt động hợp lí
được ưa chuộng duy nhất mở ra cho chúng ta, là
hoạt động duy nhất có thể dựa vào sự nhìn xa
trông rộng của khoa học.
Mặc dù không có lí thuyết khoa học nào có thể
trực tiếp khuyến khích hành động (nó chỉ có thể
làm nản lòng các hành động phi thực tiễn nào
đấy), gián tiếp, nó có thể cổ vũ những người cảm
thấy mình phải làm cái gì đó. Chủ nghĩa lịch sử
dứt khoát tạo loại cổ vũ này. Nó thậm chí giúp
cho lí trí con người đóng một vai trò nào đó; vì
nó là lí lẽ khoa học, khoa học xã hội lịch sử
chủ nghĩa, cái chỉ riêng nó có thể nói cho chúng
ta hướng của bất kể hành động nào cần lấy, nếu
muốn nó trùng với hướng của các thay đổi sắp xảy
ra.
Tiên tri lịch sử và diễn giải lịch sử, như vậy,
phải trở thành cơ sở của bất kể hoạt động xã hội
thực tế và được suy nghĩ kĩ nào. Vì vậy, diễn
giải lịch sử phải là công việc trung tâm của tư
duy lịch sử chủ nghĩa; và đối sánh với sự thực,
nó đã trở thành như vậy. Mọi suy nghĩ và mọi
hành động của các nhà lịch sử chủ nghĩa hướng
tới việc diễn giải quá khứ, nhằm dự đoán tương
lai.
Chủ nghĩa lịch sử có thể cho niềm hi vọng hay cổ
vũ cho những người muốn thấy một thế giới tốt
đẹp hơn không? Chỉ một nhà lịch sử chủ nghĩa,
người có quan điểm lạc quan về sự phát triển xã
hội, tin vào nó là “tốt” hay “có lí” một cách
nội tại, theo nghĩa hướng thực chất tới một
trạng thái tốt hơn, hợp lí hơn, mới có thể cho
một niềm hi vọng như vậy. Nhưng quan điểm này
chẳng khác gì một lòng tin vào những phép thần
kì chính trị và xã hội, vì đối với lí trí con
người, nó phủ nhận việc: quyền lực tạo ra một
thế giới hợp lí hơn. Thực vậy, một số tác
giả lịch sử chủ nghĩa có uy tín đã lạc quan đoán
trước sự tiến tới của một vương quốc tự do,
trong đó, công việc con người có thể được lập kế
hoạch dựa trên lí trí. Và họ dạy rằng: Quá độ từ
vương quốc của sự tất yếu, trong đó nhân loại
hiện tại buộc phải chịu đựng, sang vương quốc tự
do và lí trí không thể do lí trí gây ra, mà -
một cách kì diệu - chỉ do sự tất yếu thô bạo, do
các quy luật phát triển lịch sử mù quáng và
không lay chuyển được, mà họ khuyên chúng ta nên
phục tùng.
Những người muốn tăng ảnh hưởng của lí trí trong
đời sống xã hội có thể chỉ được chủ nghĩa lịch
sử khuyên đi nghiên cứu và diễn giải lịch sử,
nhằm phát hiện ra các quy luật phát triển của
nó. Nếu sự diễn giải như vậy tiết lộ rằng: Các
thay đổi đáp lại mong mỏi của họ sắp xảy ra, thì
mong muốn là hợp lí, vì nó thống nhất với tiên
đoán khoa học. Nếu sự phát triển sắp tới có xu
hướng theo chiều khác, thì mong muốn làm cho thế
giới hợp lí hơn hoá ra là hoàn toàn không hợp
lí; đối với các nhà lịch sử chủ nghĩa thì nó
đúng chỉ là một mơ ước Không tưởng. Chủ nghĩa
tích cực có thể được biện minh chừng nào nó đồng
ý với các thay đổi sắp xảy ra và thúc đẩy chúng.
Tôi đã chứng tỏ rằng, phương pháp theo tự nhiên,
theo cách nhìn của chủ nghĩa lịch sử, ngụ ý một
lí thuyết xã hội học xác định - lí thuyết cho
rằng: Xã hội không phát triển hay thay đổi một
cách đáng kể. Bây giờ chúng ta thấy rằng: Phương
pháp lịch sử chủ nghĩa ngụ ý một lí thuyết xã
hội học tương tự một cách lạ kì - lí thuyết cho
rằng: Xã hội sẽ nhất thiết thay đổi nhưng theo
một quỹ đạo được xác định trước không thể thay
đổi, thông qua các giai đoạn được xác định trước
bởi tính tất yếu không lay chuyển được.
“Khi một xã hội đã khám phá ra quy luật tự nhiên
xác định sự vận động riêng của nó, thậm chí khi
đó, nó chẳng thể nhảy qua được các giai đoạn
tiến triển tự nhiên của nó, cũng không loại bỏ
được chúng bằng mệnh lệnh [nguyên văn bằng nét
bút]. Nhưng ngần này thứ nó có thể làm: Rút ngắn
và giảm bớt sự đau đẻ”. Cách trình bày này của
Marx,