Bài cú, âm theo tiếng Hán
Việt [1]
cách viết “Haiku”
俳句theo
lối chữ Kanji
漢字,
(Kanji = Hán Tự - chữ Hán, chữ Nhật Bản,
gốc chữ Nho), là một thể thơ rất thịnh hành của
Nhật Bản. Một bài thơ theo thể thơ bài
cú có ba giòng, giòng đầu và giòng cuối mỗi
giòng có năm âm, ôm lấy giòng giữa có bảy âm, có
dạng 5-7-5, tổng cộng 17 âm. Tiếng Nhật Bản đa
âm, nên mỗi giòng có thể có một, hai, ba chữ hay
nhiều hơn. Bài cú có biến thể là 5-7-6 hay
5-8-5, lên 18 âm trọn bài.
Theo K. Yasuda (2002), thường thường
người đọc một bài thơ bài cú sẽ nhận biết được
vì sao tác giả dừng lại để viết bài thơ này.
Qua ba câu ngắn gọn của bài thơ , người đọc cũng
xác định được không gian, nơi chốn tác giả dừng
lại và thời gian trong năm cùng trong ngày, lúc
tác giả dừng lại. Một bài thơ bài cú gói ghém
đầy đủ trong 17 âm, lý do, không gian và thời
gian nảy sinh bài thơ. Vì số chữ bị giới hạn
trong 17 âm (tuy có khi du di ít hoặc nhiều âm
hơn), thơ bài cú thường chỉ diển tả một sự kiện
xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại. Sự kiện này
có thể liên kết hai ý nghĩ, hay hai ý tưởng
khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến cùng một
lúc. lúc.
Ðọc thơ bài cú, ta cảm được vị trí
đứng ở ngoài sự kiện của tác giả. Tác giả dường
như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã
quan sát được. Nhưng người đọc vẫn có thể
nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm
nhè nhẹ, bàng bạc trong cả 17 âm, nói lên niềm
vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm
tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn
ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên
nhiên.
Phần lớn thơ bài cú của các thi sĩ
Nhật Bản nói về bốn mùa xuân, hạ, thu, và đông
tuy không nêu ra hẳn tên mùa trong năm. Họ
thường dùng những chữ liên quan đến mùa xuân,
như “tan tuyết,” lúc “hoa mận nở, hoa đào nở,”
hoặc đến lúc “ngỗng trời quay về.” Về mùa thu,
họ hay tả “đêm thanh, trời vằng vặc đầy sao,”
lúc “bóng nai thoáng qua rừng,” hay là “chuồn
chuồn bay chập chờn,” khi người ta “gặt lúa.”
Mùa hè có “muỗi,” có tiếng “ve ra rả,” hoặc
tiếng “quạt,” hay tiếng “suối róc rách.” Mùa
đông không tránh được cảnh “tuyết rơi” trong hay
ven “rừng thông,” “gấu,” hay là tiếng củi hoặc
than nổ tí tách trong “lò sưởi.” Dường như các
tác giả bài cú người Nhật không bao giờ nói đến
lũ lụt, động đất, bệnh tật ... những cái không
tốt của thiên nhiên.
Vào đầu thế kỷ thứ 12, ở Nhật bản
chỉ có thể thơ waka
和歌
[Hòa Ca, có lẽ
dịch là bài ca Nhật, hoặc thơ ca Nhật
Bản - chữ Hòa có nghĩa là nước Nhật (tên dùng
cũ, hiện nay vẫn dùng như trong ví dụ Wafu ryori
和風料理
= Hòa Phong Liệu lý = món ăn (kiểu) Nhật],
bài ca bằng thơ (hay ca thi). Mỗi bài
thơ gồm hai đoạn, đoạn đầu có ba giòng năm, bảy,
và năm (5-7-5) âm, đoạn sau gồm hai giòng, mỗi
giòng bảy (7-7) âm để nối vào đoạn trước. Trong
những buổi triều hội dưới trướng một sứ quân,
một người (thường là quý tộc, quan lại hay võ sĩ
cao cấp) sẽ đặt đoạn đầu (5-7-5) âm, đọc lên và
một người khác, hoặc được chỉ định, hoặc tự
nguyện, đặt và đọc hai giòng đoạn sau (7-7) để
nối với đoạn trước làm thành một bài ca thi.
Thi hứng được khơi như thế, có người sẽ đặt tiếp
một đoạn đầu, nối vào bài trước và một người sẽ
làm đoạn sau để tiếp cho trọn bài ca thi mới.
(Hakutani & Tener, 1998)
Vào năm 1235 công nguyên, Fujiwara
no Sadaiye đã chép một bài trường thiên ca thi
tựa là Hyakunin Isshu (Một trăm bài thơ
của một trăm tác giả) trong đó có rất nhiều đoạn
đầu gồm 5-7-5 âm (Hakutani & Tener, 1998) Sau
bài trường thiên ca thi này, thể thơ renga gồm
cách nối các đọan thơ 5-7-5 âm với các đoạn thơ
nối 7-7 âm trở nên rất thịnh hành. Tập thơ
Chikuba Kyojin Shu (Tập thơ của những người
điên ở Chikuba) chép gần 200 đoạn thơ nối vào
các đoạn thơ đầu của một thi sĩ khác. Trong tập
có chép khoảng 20 đoạn đầu mang tên là hokku
(thơ mở đầu) và do những thi sĩ đã nổi tiếng
xướng ra, nhưng ý thơ ngã về sự đùa chơi, vui
cười. (Hakutani & Tener, 1998)
Ðến thập niên 1680, Matsuo Bashô
(Matsuo Baseo
松尾芭蕉)
viết bài thơ Con ếch theo lối haikai
một thể thơ mới (theo thời điểm bấy giờ) mở
đường cho thể thơ bài cú. Các bài Haikai
của Bashô ngắn, gọn, rất súc tích từ chữ đến ý,
cho thấy cái nhìn và thi tứ của nhà thơ. Những
người ngưỡng mộ ông tập làm lối thơ này, và thể
haikai trở nên nghiêm trang, chín chắn
hơn để trở dần thành thể bài cú, nói lên
cái quan niệm và ghi lại sự rung động của nhà
thơ.
Sau đây là vài thí dụ về bài cú ghi
theo chữ rômaji (âm tiếng Nhật ghi theo mẫu tự
La tinh). Bashô là người mở đầu cách viết thơ
bài cú, và sau đó, Buson, Issa, và Shiki là
những các thi sĩ Nhật bản nổi tiếng về thể thơ
này. Chúng tôi cũng ghi lại một bài của nữ thi
sĩ Kaga no Chiyo, đồng thời với Buson. Phần
tiếng Việt do Thuần Ngọc dịch, bản dịch tất
nhiên không gồm 17 âm như nguyên tác. Ðôi khi
vì muốn dịch theo ý, nên thứ tự giòng trong bài
thơ dịch không đúng theo thứ tự của nguyên tác.
Mono ieba
Kuchibiru samushi
Aki no kaze
|
物言えば
くちびる寒し
秋の風
|
Mở miệng ra, tôi nói,
Ðôi môi tôi lạnh giá
gió mùa thu.
|
Furu ike ya
Kawazu tobikomu
Mizu no oto
|
古池や
蛙飛び込む
水の音
|
Cái ao xưa
Một chú ếch nhảy tòm xuống
Chủm ! |
Kare eda ni
Karasu no tomari keri
Aki no kure
|
枯らすのとまりけり
秋の暮れ
|
Cành trơ trọi
Quạ đậu lại
Thu âm u. |
Kaga no
Chiyo
(1703 -
1775) -
Nữ thi
sĩ 千代
女
(Chiyo
Jyo) =
Thiên-Đại
Nữ
Asagao ni
Tsurube torarete
Morai mizu
|
朝 顔 に
釣 瓶とられて
もらひ水 |
Cánh hoa khiên ngưu nở
Nghiễm nhiên chiếm trọn chiếc gàu giếng
Tôi phải xin nhờ nước |
Taniguchi (Yosano) Buson (1715-1783) - Họa
sĩ
与謝蕪村 (Yosa Buson)
Oikaze ni
Susuki
karitoru
Okina kana
|
翁かな |
Một ông lão cắm
cúi
Cắt cỏ trên cánh
đồng
Gió thổi đằng sau
lưng |
Kobayashi Issa (1763-1827) - Tăng lữ 小林 一茶
Katasumuri
Sorosoro nobore
Fuji no yama |
かたつむり
そろそろ昇れ
富士の
山 |
Này này cô ốc sên
chậm rãi, khoan
thai mà bò lên
Ðỉnh núi Phú sĩ
sơn. |
Masaoka Shiki (1867-1902)
- Canh tân bài cú
正岡 子規
Iriguchi
ni
Mugi hosu ie
ya
Furu-sudare
|
入り口に
むぎほすいえや
|
Họ đang phơi bo
bo
Phía trưóc cửa
nhà kho
Mành tre cũ đong đưa. |
Trong văn chương Việt
Nam thời trước, chúng tôi không thấy có lối
thơ bài cú, nhưng thấy có lối ngũ ngôn tứ
tuyệt, thể yết hậu. Vì tiếng Việt hiểu theo
cách bình thường là đơn âm nên thơ ngũ ngôn
như lối này có 16 chữ, hay 16 âm, ngắn hơn
bài cú một âm. Có lẽ người đã làm nhiều bài
thơ ngủ ngôn yết hậu là Chiêu Lỳ, Phạm Thái
. Nhưng trong thơ của Phạm Thái, câu thứ ba
thường có sáu chữ, nên trọn bài thơ có 17
chữ hay 17 âm. Xét về số âm trong bài, loại
thơ này cũng giống như bài cú. Ngoài Phạm
Thái còn có Nguyễn Công Trứ cũng sính làm
loại thơ tứ tuyệt yết hậu. Nhưng chúng tôi
chỉ được đọc các bài thơ thất ngôn (bảy chữ)
chứ chưa được biết Nguyễn Công Trứ có bài
thơ nào thuộc loại ngũ ngôn tứ tuyệt yết
hậu. Ba thí dụ sau là thơ của Phạm Thái
(Trần Trọng Kim, 1946, trang 146)..
Lươn
[2]
Cứ nghĩ rằng
mình ngắn
Ai ngờ cũng
dài đườn
Thế mà còn
chê trạch
Lươn
Người hay
đánh bạc
Ác lặn xăm
xăm tới ,
Gà kêu lẻn
lẻn về .
Quan ngắn
hết, quan dài hết
Ghê
Người
say rượu
Một năm
mười hai tháng
Một tháng
ba mươi ngày
Hũ lớn
cạn, hũ bé cạn
Hay !
Gần đây hơn, khi có nhiều bài
thơ bài cú được chuyển dịch sang Việt ngữ,
người Việt có dịp làm quen với văn thơ Nhật
bản, và chắc cũng do ảnh hưởng của Thiền nhờ
các nhà sư Việt Nam du học ở Nhật bản truyền
đạt lại, chúng tôi thấy xuất hiện một số thơ
có dạng như bài cú viết bằng tiếng Việt.
Trong tập Cảo thơm, Hồ Trường An ghi
lại một số bài thơ của Trương Anh Thụy.
Ðông
Nắng ươm
cành tuyết đậu
đóa mai
vàng bên giậu
tưởng xuân
Yên
Sau trận
đại cuồng phong
con diều
nằm trên cỏ
đói gió
Tỵ nạn
Nối đuôi
nhau kiến cỏ
Ði tìm nơi
lặng gió
Trăm con
Và một bài ngũ ngôn yết hậu
Lặng
Trên bãi
sông triều vắng
đàn vịt
đứng dăm con
lắng tai
nghe chiều đổ
Boong
Các bài thơ trên rất gần với
cái nhìn và cảm xúc của thể thơ bài cú.
Bài cú không
những được ưa chuộng ở Nhật bản
[3], mà hầu
như khắp nơi trên thế giới đều có người làm
thơ bài cú. Ở Âu châu cũng như ở Bắc Mỹ có
rất nhiều Hội bài cú, hội viên đủ mọi thành
phần và lứa tuổi. Ở Vancouver (Canada), ở
Nantes (Pháp), và nhiều thành phố khác, đã
có các trường dạy học sinh ngay từ các lớp
tiểu học làm thơ bài cú
[4].. Thành ra cũng
nên giới thiệu với thế giới thể thơ ngũ ngôn
tứ tuyệt yết hậu của Việt Nam, một thể thơ
không kém phần đặc sắc và súc tích như bài
cú.
Ghi chú:
[1] Theo Nguyễn văn Minh Châu
(điện thư 16/8/2004) phải đọc là “Bài cú” theo
âm Hán Việt.
[2] Dương Quảng Hàm có chép bài
này trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu, nhưng để tác
giả là Vô Danh. (trang 134).
[3] Như trường hợp bà Hisajo
Sugita (1890 ~ 1946)
杉田久女.
Năm 1931, bà dự cuộc thi bài cú do Nhật báo
Osaka-Mainichi Daily News tổ chức. Bài thơ sau
đây của bà đoạt giải nhất về thơ bài cú tả cảnh
sơn thủy trong số hơn 100 000 người dự thi
Trong lúc vừa mới xong cơn khủng hoảng kinh tế
thế giới và khi chưa có Internet, số lượng người
dự thi đã cho thấy mức độ hâm mộ thơ bài cú.
kodama
shite
yama-hototogisu
hoshii mama
|
谺して
山ほととぎす
ほしいまま
|
trùng trùng
dội quanh đèo
tiếng cúc cu
chim cu núi kêu
lập đi lập lại
hoài
|
[4]
http://k12.albemarle.org/MurrayElem/Projects/langarts/haiku/japanintro.html
Do cô giáo lớp Ba Michelle
Nettesheim, trường tiểu học Murray lập ra cho
học trò tìm hiểu thêm về Nhật Bản trong niên
học 1995-1996.
Tài liệu tham khảo
Dương Quảng Hàm. 1979.
Việt
Nam Văn Học Sử Yếu.
Westminster, CA: Sống Mới.
Hakutani,
Yoshinobu & Robert L. Tener. 1998. "Afterword"
trong Wright, Richard . 1998. Haiku. This
Other World. New York: Arcade Publishing.
Hồ Trường An. 1998. Cảo thơm
Falls Church, VA: Minh Văn Corporation
Trần Trọng Kim. 1946. Việt
Thi. Los Alamitos CA: Xuân Thu in lại,
không đề năm.
Yasuda, Kenneth. 2002. The
Japanese Haiku. Boston: Tuttle Publishing.
Tài liệu đọc, xem thêm:
Ueda, Makoto. 2003.
Far
Beyond the Field: Haiku by Japanese Women.
Washington DC:
Columbia University
Press. - [Ghi thơ bài cú của các nữ thi sĩ
Nhật.]
Và các trang, khu Web:
1.
CHILDREN'S
HAIKU GARDEN (Vườn bài cú của trẻ em). [Bài cú
do trẻ Nhật Bản, Hoa kỳ và nhiều quốc gia khác
viết.]
http://www.tecnet.or.jp/~haiku/
2. Khu Web ghi các bài thơ bài cú
do trẻ em ở Nhật bản, Hoa kỳ, và nhiều quốc gia
khác viết ra. Có nhận thơ bài cú và tranh ảnh
do trẻ em viết hay vẽ.
http://homepage2.nifty.com/haiku-eg/
3. http://www.toyomasu.com/haiku/
tổng quát về bài cú. Và trong khu Web này, xem
thêm
http://www.toyomasu.com/haiku/haiku/#howtowritehaiku
(Ðể
viết một bài thơ bài cú).
4. Trang web
“Lịch sử Bài cú” (Haiku no rekishi):
http://www.big.or.jp/~loupe/links/jhistory/jhisajo.shtml
Trang tiếng
Nhật:
http://www.big.or.jp/~loupe/links/jhistory/jhisinx.shtml
Trang tiếng
Anh:
http://www.big.or.jp/~loupe/links/enginx.shtml
5. Một khu haiku mới do
Alexander Lawrence và đồng bạn lập ra. Có nhận
thơ bài cú do các thi sĩ mới gởi đến. Cho nhiều
liên kết (links) có chọn lọc và xấp loại.
http://www.haiku.com/
6. "200 Best Haiku of Japanese
Literature." Ghi lại hai trăm bài thơ bài cú
đã dịch ra Anh ngữ.
http://www.geocities.com/Tokyo/Island/5022/
7. Trang nhà của Hiệp hội bài cú
Hoa kỳ (The Haiku Society of America). Hội
thành lập từ năm 1968 nhằm phỗ biến và khuyến
khích thơ bài cú viết bằng tiếng Anh.
http://www.hsa-haiku.org/
8. Trang ghi lại kỹ thuật làm thơ
bài cú (Haiku techniques) của nữ tác giả Jane
Reichhold.
http://www.ahapoetry.com/haiartjr.htm
Phụ lục:
Lược sử bốn nhà thơ bài cú danh tiếng
Bashô Matsuo. (1644-1694).
Bashô (cây chuối) là tên hiệu tác giả tự đặt vào
khoảng năm 1681 khi ông dọn vào ở trong một cái
chòi có một cây chuối mọc bên cạnh.
Hồi
trẻ, ông
theo chân thân phụ, làm võ sĩ cho sứ quân Todo
Yoshitada (Sengin). Vì Yoshitada sính làm thơ
bài cú nên
Bashô cũng làm thơ, lúc đầu ký tên là
Sobo. Bashô dần dần nổi tiếng, và ông đi du lịch
nhiều nơi trong nước Nhật. Ông mất năm 1694,
sau khi viết quyển Oku No Hosomichi. Khi
ông mất, có khoảng 2000 môn sinh đang theo học
lối làm thơ bài cú của ông.
Yosa Buson (1716-1784)
Taniguchi Buson (boo-sahn), sau này đổi lại là
Yosa Buson,
họa sĩ và nhà thơ bài cú. Người ta vẫn xếp ông
ngay sau Matsuo Bashô như là những bậc thầy về
thơ bài cú thời Edo, thời
các
sứ
quân Tokugawa (1600-1868). Buson sinh ở ngoại ô
thành phố Osaka, và mồ côi cha lẫn mẹ lúc ông
còn rất trẻ. Năm 1737, ông lên Edo (giờ là
Tokyo) để học vẻ và học làm thơ bài cú theo
trường phái Bashô. Năm 1742, khi một trong
những người thầy của ông qua đời, ông theo gương
Bashô đi lên phía Bắc, rồi viếng các thành phố
miền Tây Nhật bản. Ông trụ lại Kyoto năm 1751.
Ðến 1756 ông chuyên về nghề
vẽ trong suốt 9 năm. Sau đó Buson dần
dần quay trở lại làm thơ bài cú.
Các
bài
thơ của ông thường có những nét chấm phá độc
đáo, như cảnh vật được nhìn qua ánh mắt họa sĩ
của ông.
Issa Kobayashi (1763-1827)
Issa
Kobayashi sinh tại
Kashiwabara, Shinano ngày nay thuộc thành phố
Shinano-machi, quận Nagano. Hồi nhỏ, ông mang
tênYataro và theo trước tịch là Nobuyuki.
Năm 13 tuổi, ông đi lên
Edo, (Tokyo) để làm việc. Ông học cách
làm thơ với Genmu cùng Chiku-a, và nhận Seibi
Natsume làm thầy. Ông bắt đầu
viết
thơ bài cú vào năm 25
tuổi. Ông đi làm việc ở nhiều nơi như Kyoto,
Osaka, Nagasaki, Matsuyama và các thành phố khác
ở phía Tây Nhật bản. Ðến năm 1814, ông về lại
quê nhà ở Kashiwabara và trở thành thủ lãnh
trường phái thơ bài cú ở vùng Shinano. Ông mất
ở quê nhà năm ông
65 tuổi. Trong thơ ông
dùng
các tiếng địa phương và các từ thông dụng hàng
ngày. Thơ bài cú của
ông phảng phất buồn vì đời sống gia đình của ông
rất đau thương. Ông cưới vợ khi đã 51 tuổi,
nhưng tất cả bốn người con của ông đều mất khi
còn rất nhỏ.
Shiki
Masaoka (1867-1902)
Shiki chết trẻ nhưng sự
nghiệp văn chương của ông rất phong phú. Trong
bảy năm cuối cùng của cuộc đời, ông bị bệnh phải
nằm liệt giường, nhưng lúc nào ông cũng vui vẻ
thảo luận về văn chương và các cải cách thơ bài
cú với các môn đệ của ông. Trước nhà ông có giàn
bầu nậm và người ta thường luộc nước bầu cho ông
uống để tiêu đàm. Ông vẫn
mong thân phận đau yếu của mình
được
như giàn bầu: xanh
tốt, đơm hoa, kết trái, mà không phải đau khổ.
Ông đã hoàn thành ba công trình quan trọng về
văn chương hiện đại: cải cách thơ bài cú, cải
cách thơ Tanka, và khuyến khích việc dùng văn
xuôi để phác họa các cảnh thật của đời sống.
Ông đã giúp phổ biến thơ bài cú qua tác phẫm của
ông, bàn về lý thuyết làm thơ bài cú 'Haiku
Taiyo' (Căn bản về thơ bài cú).