|
|
Bối cảnh lịch sử của Tác
Phẩm "Các Kẻ Khốn Cùng"
Ngày 14 tháng 7 năm 1789,
dân chúng Pháp đã biểu tình
và đập phá Ngục Bastille,
nơi tượng trưng cho vương
quyền và chế độ chuyên chế.
Biến cố này đã chấm dứt "chế
độ cũ", mở đường cho châu Au
bước vào một thời đại mới.
Tới đêm hôm mồng 4 tháng 8
năm 1789, Quốc Hội đầu tiên
của nước Pháp đã tuyên bố rõ
ràng rằng "chế độ phong kiến
bị bãi bỏ", đồng thời đặt ra
các nguyên tắc dùng cho nền
trật tự mới. Ngày 26-8, Quốc
Hội đó lại cho phổ biến "Bản
Tuyên Bố các Quyền Lợi của
Con Người và Công Dân" (the
Declaration of the Rights of
Man and Citizen) với các
điểm chính như sau: (1) Mọi
người đều được sinh ra bình
đẳng cùng với các quyền lợi
bằng nhau. (2) Mọi công dân
có quyền bầu ra các đại biểu
để làm ra luật pháp. (3) Mọi
người được tự do nói, viết,
hay in ra các ý kiến miễn là
người đó không lạm dụng đặc
quyền này. (4) Số tiền thuế
mà một người phải đóng sẽ
được căn cứ vào số lượng tài
sản mà người đó có.
Năm 1793, Vua Louis 16 và
Hoàng Hậu Marie Antoinnette
bị đưa ra pháp trường và bị
chặt đầu. Hành động này của
các nhà cách mạng Pháp đã
làm rung động toàn thể châu
Au, và các nước chung quanh
đang tìm cách chống lại lực
lượng cách mạng Pháp. Ngay
tại nước Pháp, người dân
cũng bị chia rẽ làm hai, một
phe ủng hộ chế độ cũ, một
phe muốn phát triển các lý
tưởng của cuộc Cách Mạng.
Trong thời kỳ cách mạng
Pháp này, đã diễn ra các
cảnh tàn nhẫn vì mục tiêu
bảo vệ Tự Do và Đại Văn Hào
Charles Dickens trong tác
phẩm "Câu Chuyện của hai
Thành Phố" (A Tale of Two
Cities) đã mô tả cảnh pháp
trường, nơi hành quyết các
nhà quý tộc và ngay cả các
nạn nhân vô tội.
Sau khi nước Cộng Hòa Pháp
được tuyên bố thành lập vào
năm 1792, Hội nghị Quốc Ước
(the Convention, 1793-95) bị
chia rẽ thành hai phe phái
với Danton, Robespierre một
bên và bên kia là các nhà
cách mạng khác theo đường
lối riêng. Nước Pháp đã muốn
xuất cảng lý tưởng cách mạng
ra khắp châu Au với ba châm
ngôn là "Tự Do, Công Bằng và
Tình Huynh Đệ" (Liberté,
Egalité, Fraternité). Thời
kỳ độc tài của Robespierre
đã khiến cho người dân Pháp
phải chịu đựng giai đoạn
khủng bố (the Reign of
Terror) rồi sau đó là chế độ
Tổng Tài (the Directory) kéo
dài tới năm 1799. Sau cuộc
chiến tranh với nước Anh,
nước Ao và đặc biệt sau cuộc
chiến thắng tại xứ Ý đã xuất
hiện một vị tướng trẻ lừng
danh: Napoléon Bonaparte.
Cuối năm 1804, Napoléon
Bonaparte chấm dứt chế độ
Tổng Tài, trở nên Hoàng Đế.
Dưới thời Napoléon I, nhiều
cải cách trong nước Pháp
được thực hiện, văn hóa Pháp
và các lý tưởng của người
Pháp được phổ biến tại khắp
châu Au cho tới năm 1810.
Gần như 100 triệu người dân
Pháp và các nước chung quanh
nằm dưới quyền kiểm soát của
Napoléon. Sự thất trận của
đoàn quân Pháp trên miền đất
Nga vào năm 1812 đã khiến
cho Napoléon phải thoái vị,
chịu rút lui ra đảo Elba nằm
trong miền Địa Trung Hải.
Nhưng rồi Napoléon đã trở về
vào năm 1815 và lại thua
trận Waterloo vào tháng 6
năm đó. Napoléon bị đầy ra
đảo St. Helena nằm trong
vùng biển Đại Tây Dương rồi
qua đời vào năm 1821.
Sau thời Đế Chế Thứ Nhất
(the First Empire) kéo dài
từ 1804 tới 1815, nước Pháp
đã khánh kiệt vì chiến
tranh, 1 triệu 700 ngàn
người đã chết trên các mặt
trận. Giòng họ Bourbons trở
lại chính quyền với Vua
Louis 18. Nhà Vua này là một
nhân vật ôn hòa, đã chấp
nhận một hiến pháp và một
thể chế đại nghị nhưng đồng
thời lại muốn phục hồi các
đặc quyền của "chế độ cũ".
Thời gian trị vì của Vua
Louis 18 kéo dài từ 1815 tới
1824 với cảnh hòa bình tương
đối. Khi Charles X lên ngôi
vua nước Pháp vào năm 1824,
nhà Vua này lại muốn tiêu
hủy Hiến Pháp và muốn cai
trị thần dân theo đường lối
quân chủ chuyên chế của thế
kỷ 18. Nhưng bạo loạn đã nổ
ra vào năm 1830 và Vua
Charles X phải thoái vị.
Nước Pháp không thể trở về
với "thần quyền" của vua
chúa nữa mà phải theo nguyện
vọng của người dân và phải
đáp ứng các nhu cầu của cuộc
Cách Mạng Kỹ Nghệ. Vào thời
gian này, các phát minh Khoa
Học và Kỹ Thuật đã khiến cho
giới trung lưu (the middle
class) trở nên giàu có và
trở thành một sức mạnh kinh
tế và chính trị.
Năm 1830, Hầu Tước Orléans
được hai Viện Quốc Hội chấp
nhận làm Vua nước Pháp với
danh hiệu Louis Philippe.
Dưới thời Vua Louis Philippe
này, người dân chỉ được đi
bầu khi nào đã nộp đủ một số
tiền thuế cho nên trong số
30 triệu dân của nước Pháp
thời đó, chỉ có độ 200 ngàn
cử tri. Chính quyền của nước
Pháp từ nay lệ thuộc vào ý
muốn của giai cấp tư sản.
Cuộc Cách Mạng Kỹ nghệ đã
làm thay đổi lối sống của
người dân nước Pháp và các
nước châu Au. Tại Pháp,
đường xe lửa đã được mở mang
tới các miền xa xôi. Năm
1836, nước Pháp có 270 cây
số đường xe lửa với dịch vụ
chuyên chở người và hàng
hóa. Vào giai đoạn này, dân
chúng nông thôn bắt đầu đổ
về sinh sống tại các thành
thị vì công việc làm ăn và
vì các cải thiện kinh tế.
Nhiều nhà máy, cơ xưởng được
thành lập. Các vấn đề xã hội
bắt đầu xuất hiện trong thời
kỳ phát triển kỹ nghệ này.
Đã thường xuyên xẩy ra các
vụ đình công, các vụ rối
loạn.
Sau ba ngày biến động tại
thành phố Paris, Vua Louis
Philippe phải thoái vị và
nền Cộng Hòa Thứ Hai (the
Second Republic) được công
bố vào ngày 24-2-1848. Chính
phủ Pháp lâm thời của giai
đoạn này gồm các nhân vật
mang tính lý tưởng như nhà
thơ Alphonse de Lamartine,
luật sư Ledru-Rollin, nhà xã
hội Louis Leblanc. Cuộc phổ
thông đầu phiếu được công bố
và các cải tiến nhiều điều
kiện làm việc được trù liệu,
nhưng rồi nền kinh tế suy
sụp đã làm sống lại tinh
thần bảo thủ của giai cấp tư
sản và kết quả là ông Hoàng
Louis Napoléon Bonaparte,
người cháu của Vua Napoléon
I, được bầu lên để vãn hồi
trật tự, ổn định và cai trị
nước Pháp. Tháng 6 năm 1848,
các công nhân của thành phố
Paris đã nổi loạn nhưng sau
đó bị dẹp tan bởi quân đội
của Quốc Hội. Ngày
2-12-1851, Louis Napoléon
giải tán Quốc Hội rồi qua
năm 1852, thiết lập nên Đế
chế Thứ Hai (the Second
Empire) và trở thành Vua
Napoléon III.
2- Phong trào Văn Chương
Lãng Mạn.
Xã hội Pháp đang thay đổi
bộ mặt. Lối sống vật chất tư
sản (the bourgeois
materialism) và các cách
kiếm tiền (the making of
money) là các vấn đề của
thời đại. Trước các hoàn
cảnh xã hội này, các nhà văn
như Victor Hugo, như Honoré
de Balzac đã tìm cách mô tả
những tật xấu, những bệnh
hoạn mà xã hội Pháp đang gặp
phải. Cuộc tranh đấu chống
các bất công xuất phát từ
cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tại
nước Anh cũng được Charles
Dickens trình bày trong các
tác phẩm danh tiếng.
Tại nước Pháp, Victor Hugo
đã dùng lịch sử của nước
Pháp trong giai đoạn từ năm
1789 tới các cuộc nổi dậy
đẫm máu sau này tại thành
phố Paris, làm nền móng cho
tác phẩm "Các Kẻ Khốn Cùng"
(Les Misérables). Ông đã cố
gắng diễn tả sự tranh chấp
giữa các người bảo hoàng và
các người cách mạng, giữa
các người bảo thủ và các
người cấp tiến, mô tả bản
chất của giới trung lưu và
giới công nhân. Khi đứng
trước các lợi nhuận và đặc
tính cơ khí hóa, tác giả
Victor Hugo đã nghiêng về
phía chủ trương nền dân chủ,
tính nhân đạo và việc coi
trọng tự do.
Tác phẩm "Các Kẻ Khốn Cùng"
xuất hiện vào năm 1862 là
thời kỳ của Phong Trào Văn
Chương Hiện Thực (Realism)
nhưng lại mang nhiều đặc
tính của các cuốn tiểu
thuyết lãng mạn (romantic
novels).
Vào thế kỷ 17, Phong Trào
Văn Chương Cổ Điển
(Classicism) đã được các nhà
viết kịch lừng danh tiêu
biểu, chẳng hạn như Racine,
Corneille và Molière. Phong
trào này đặt ra các quy luật
(rules), đề cao các thái độ
thuần lý (rational
attitudes) và dùng đường lối
khách quan để đi tới các chủ
đề nghệ thuật trong cách
diễn tả về con người, về
thiên nhiên. Các đặc tính
của phong trào văn chương cổ
điển là trật tự (order),
luận lý (logic) và sự trong
sáng (clarity).
Qua thế kỷ 19. Phong Trào
Văn Chương Lãng Mạn
(Romanticism) đã xuất hiện
để đáp ứng các nhu cầu và
khát vọng của thế kỷ mới, đã
thách đố các quy luật cũ và
đòi hỏi sự tự do tuyệt đối
trong chủ đề và kỹ thuật văn
chương. Phong trào Lãng Mạn
đã dùng tới trí tưởng tượng
vào các công cuộc sáng tạo
và nhiều nhà văn mới xuất
hiện trên các văn đàn như
tại nước Pháp có
Chateubriand và bà De Stael,
tại nước Anh là Lord Byron
và Sir Walter Scott, còn đại
diện cho nước Đức là Goethe
và Schiller.
Các đặc tính của phong trào
văn chương lãng mạn có thể
kể ra như sau :
(1) nhấn mạnh đến "cái Tôi"
(the I) và tính chủ quan, sự
quan trọng của cá nhân,
(2) dùng tới trí tưởng
tượng, sự bí ẩn, đặc tính
siêu nhiên (the
supernatural), nét vẻ độc
đáo (fantastic),
(3) cốt chuyện đòi hỏi sự
công bằng dành cho mọi
người, dùng tới bối cảnh của
thời Trung Cổ để trình bày
những điều khác lạ, ở bên
ngoài xã hội quen thuộc,
(4) nhân vật anh hùng trong
chuyện chịu số phận bi
thương, với các hành động đi
ra ngoài giới hạn của các
chấp nhận xã hội,
(5) các nhân vật trong
chuyện dù cho đã theo lý
tưởng, theo lẽ phải, nhưng
số mệnh đã đưa đẩy họ tới
các hoàn cảnh bi thương,
(6) bối cảnh địa phương là
một đặc điểm, với tình yêu
thiên nhiên và những môi
trường khắc nghiệt như mưa
bão, đêm tối hay các sự kiện
bất thường khác,
(7) trong cốt chuyện có pha
trộn cả sự đẹp, sự xấu, tính
thô kệch, tính cao cả. . .
(8) tác giả tin tưởng vào
các tiến bộ luân lý, chính
trị và xã hội,
(9) đường hướng không thiên
về lý trí, bộ óc, mà về tình
cảm, cảm xúc, và trái tim đã
hướng dẫn các hành động,
(10) mặc dù mang tính vô
trật tự, thái quá hay sốt
sắng, các nhân vật trong
chuyện vẫn hành động vì sự
tự do và chống lại mọi hình
thức áp chế.
3- Cốt truyện "Các Kẻ Khốn
Cùng".
Jean Valjean là một tên tù,
được thả ra sau 19 năm bị
giam cầm và bị phạt làm việc
trên các con thuyền chèo vì
tội ăn cắp một ổ bánh mì và
vì các âm mưu vượt ngục. Tại
thị trấn Digne, anh ta bị từ
chối, không cho ngủ đêm
ngoại trừ vị giám mục Myriel
có lòng tốt. Nhưng Jean
Valjean lại phản bội lòng
thánh thiện của vị giám mục
bằng cách ăn cắp một số đồ
vật bằng bạc của nhà thờ.
Khi bị cảnh sát bắt được và
bị đưa trở lại nhà thờ, vị
giám mục đã che chở cho kẻ
phạm tội bằng cách nói rằng
đó là các món quà tặng, và
rằng anh Valjean sẽ thay
đổi. Sau vài lần ăn cắp vặt
khác, Jean Valjean quả thực
đã hối cải. Dùng tên giả là
Madeleine, Jean Valjean đã
xây dựng được một nhà máy và
mang lại thịnh vượng cho thị
xã Montreil.
Một người đàn bà trẻ, cô
đơn, tên là Fantine, đến
Montreil tìm công việc làm.
Bà này mang mặc cảm vì có
một đứa con không cha. Trên
đường đi kiếm ăn, Fantine đã
giao đứa con gái Cosette cho
vợ chồng chủ quá trọ, tên là
Thénardier. Tại thị xã
Montreil, Fantine làm việc
trong nhà máy của ông
Madeleine nhưng về sau, bị
sa thải và không còn tiền
trả cho vợ chồng chủ quán
Thénardier. Vì các khó khăn
tài chính, Fantine quay sang
nghề làm điếm rồi sau một
lần gây gổ với một tên vô
lại địa phương, Fantine bị
thanh tra cảnh sát Javert
bắt. Nhờ sự can thiệp của
ông Madeleine, Fantine không
bị tống giam nhưng do bị cảm
sốt nặng, sức khỏe của người
đàn bà này suy yếu hẳn đi,
và khi gần chết, Fantine
được ông Madeleine hứa sẽ
mang đứa con gái Cosette lại
cho gặp mặt.
Vào lúc này, ông Madeleine
lại gặp một vấn đề khó xử.
Một người đàn ông khác bị
thanh tra Javert bắt, bị gán
cho là tên Jean Valjean và
sắp bị kết tội. Sau một đêm
trường dằn vặt, ông
Madeleine quyết định thú
nhận quá khứ của mình. Tại
thành phố Arras, ông ta đã
minh oan cho kẻ bị cáo buộc
trong một phiên xử rồi vài
ngày sau, ông Madeleine bị
thanh tra Javert bắt khi
đang ở bên giường bệnh của
Fantine. Hoàn cảnh khủng
khiếp này đã làm cho người
đàn bà đó chết ngay vì xúc
động.
Cũng vào đêm bị bắt, Jean
Valjean đã vượt ngục nhưng
rồi sớm bị bắt trở lại và bị
gửi tới trại tù tại Toulon,
một thành phố hải cảng. Một
hôm, Valjean đã cứu mạng cho
một thủy thủ bị rơi từ các
dây buồm và rồi Valjean đã
nhẩy xuống biển, giả vờ như
bị chết đuối và sau đó, trốn
về thị trấn Montfermeil là
nơi có quán trọ của vợ chồng
Thénardier. Jean Valjean đã
giải thoát được Cosette khỏi
tay của vợ chồng chủ quán
này và mang đứa bé đi sống
ẩn náu tại thành phố Paris.
Tại Paris, Jean Valjean
sinh sống trong khu nhà cho
mướn Gorbeau đổ nát, xa xôi,
và mặc dù các đề phòng,
Valjean vẫn bị thanh tra
Javert theo dõi nên bất ngờ,
phải trốn chạy và tìm tới
một tu viện. Nhờ sự giúp đỡ
của một người làm vườn tên
là Fauchelevent mà Valjean
đã cứu mạng khi trước,
Valjean đã thuyết phục được
bà ni viện trưởng nhận cho
làm người phụ việc trồng cây
và nhận Cosette làm học trò.
Valjean và Cosette đã trải
qua vài năm sống hạnh phúc
trong cảnh cô tịch của tu
viện.
Tại thị xã gần đó có Marius
là một thanh niên 17 tuổi,
sống với ông nội tên là
Gillenormand, nhưng vì giận
ông nội, Marius đã bỏ nhà,
lên thành phố Paris sinh
sống tại khu La Tinh và tham
gia vào nhóm sinh viên cấp
tiến. Tại khu vườn
Luxembourg, Marius đã gặp và
yêu thương Cosette một cách
âm thầm, rồi sự thiếu thận
trọng của Marius đã làm tan
vỡ mối tình đầu đó. Cosette
đã ra đi mà không để lại địa
chỉ. Một hôm, Marius nhìn
qua một khe hở của bức
tường, thấy một gia đình gồm
có cha, mẹ và hai con gái,
sinh sống trong cảnh tồi
tàn. Nhưng rồi có một nhà
Mạnh Thường Quân tới giúp
đỡ, đó là ông Leblanc và cô
con gái. Marius lại quá ngạc
nhiên khi nhận ra cô gái đó
chính là Cosette. Sự vui
mừng của Marius không kéo
dài được lâu khi chàng thanh
niên này khám phá ra một âm
mưu gài bẫy ông Leblanc.
Marius liền báo cho cảnh sát
và nhận được lệnh của thanh
tra Javert trở lại căn phòng
khi trước.
Khi ông Leblanc trở lại thì
kẻ âm mưu chính là
Thénardier, đã trói ông
Leblanc và đòi tiền chuộc.
Am mưu này bị thất bại khi
thanh tra Javert tới nơi
đúng lúc nhưng cũng vào lúc
này, ông Leblanc đã trốn
mất, đồng thời cũng không
tìm thấy dấu tích của cô gái
Cosette. Nhờ sự giúp đỡ của
người con gái của
Thénardier, Marius đã tìm ra
Cosette và thú nhận tình yêu
với cô nàng này. Nhưng tình
hình chính trị bất ổn của
thành phố Paris đã khiến cho
Valjean quyết định đưa
Cosette qua nước Anh sinh
sống. Việc làm đầu tiên của
Valjean là tới một nơi ẩn
náu.
Tại thành phố Paris vào lúc
này, đã có nhiều nơi nổi
loạn. Một người bạn của
Marius, tên là Enjolras, đã
lập ra một khu công sự chiến
đấu trước cửa tiệm rượu
Corinth. Do bị thất vọng,
Marius cũng tham gia vào
nhóm người nổi loạn, cũng
như Valjean vì các lý do đặc
biệt, và việc làm đầu tiên
của nhóm người chống đối
chính quyền này là tìm ra kẻ
gián điệp trong hàng ngũ của
mình. Người bị khám phá lại
chính là thanh tra Javert,
ông này bị trói lại và chờ
lúc bị trừng trị. Valjean
tình nguyện ra tay thủ tiêu
Javert nhưng vào lúc cuối,
đã tha chết cho Javert và
thả cho đi. Khi trở về tiệm
rượu, Valjean chỉ thấy còn
một số ít người sống sót và
Marius bị thương nặng.
Valjean đã đưa Marius qua lỗ
cống và đi lần theo đường
cống của thành phố Paris
nhưng khi ra khỏi hầm cống,
Valjean lại bị Javert bắt
được. Tuy nhiên, Javert đã
để cho Valjean mang Marius
tới nhà ông nội của anh ta
và rồi trong tình trạng khó
xử, Javert đã thả Valjean.
Vì cảm thấy không làm đúng
theo nhiệm vụ, thanh tra
Javert đã tự sát.
Sau đó, Marius phục hồi
khỏi các vết thương và đã
thuyết phục được ông nội về
cuộc hôn nhân với Cosette.
Việc phải sống xa Cosette đã
làm héo hon Jean Valjean vì
cuộc đời của ông ta không
còn ý nghĩa nữa. Rồi
Thénardier do vô tình, đã
cho Marius biết rằng người
cứu mạng Marius nơi hầm cống
chính là Jean Valjean, sự
việc này đã khiến cho Marius
và Cosette tìm đến an ủi
Jean Valjean trên giường
bệnh.
|
|
|
|
|
|