Những bài cùng tác giả
Emile Zola
Tấm gương Do Thái
Tôi chú ý đến Emile Zola
(1840-1902), không phải là qua việc học sách
vở nhà trường, nhưng thiện cảm nẩy nở là do
những điều tôi được
biết về sự quan tâm của ông đến sự đời, đến
xã hội. Tóm tắt tiểu sử của ông. Tuy sinh ở
Paris, ông là người gốc Ý. Đời học sinh của
ông thì chẳng có gì là đặc sắc : thi tú tài
không đỗ, bỏ học đi làm cho nhà xuất bản
Hachette và nhập quốc tịch Pháp vào năm 22
tuổi, bắt đầu viết văn năm 24 tuổi. Năm 26
tuổi bỏ nhà xuất bản để viết báo (thời
luận). Năm 1877, nổi tiếng về tác phẩm
L’Assommoir ; năm 1885, víết tác phẩm
Germinal. Đó là 2 tác phẩm mà, theo tôi,
đáng chú ý (tôi sẽ trở lại chi tiết dưới
đây). Năm 1894, xảy ra vụ án Dreyfus (bị kết
tội oan) ; 1898, ông Zola viết một bức thư
ngỏ gửi cho tổng thống Pháp Félix Faure, bức
thư mang tên « J’accuse » (nghĩa là « tôi tố
cáo »), đăng trên báo L’Aurore để bênh vực
người bị oan (tôi sẽ trở lại chi tiết dưới
đây). Vì thái độ này, ông bị Bộ Chiến tranh
(Ministère de la Guerre) kiện, và bị kết án
một năm tù và phạt tiền, ông phải trốn sang
London ở ẩn. Khi đuợc phá án, ông trở về
Pháp và tiếp tục viết văn. Ngày 29/9/1902,
ông chết ngạt một cách bí ẩn trong đêm ngủ
(tai nạn, hay bị ám sát ?). Rất đông dân
chúng dự đám tang đưa ông đến tận nghiã
trang Montmartre. Năm 1908, tro của ông được
đưa vào táng ở Panthéon, đền/lăng của những
danh nhân nước Pháp. (Panthéon khởi thủy là
một nhà thờ lớn ở Paris khởi công xây năm
1758, mãi đến năm 1789 mới tạm xong. Sau
Cách Mạng, chính quyền cộng hòa quyết định,
năm 1791, biến nhà thờ này thành nơi táng di
hài « những vĩ nhân của thời đại tự do ».
Danh nhân chôn trong đó gồm một số nhà văn
hào, nhà bác học, danh tướng, nhà chính trị,
nhà thám hiểm,… Trên mặt tiền của đền này,
có ghi câu « Aux Grands Hommes, la Patrie
reconnaissante », dịch thoát nghĩa là « Tổ
quốc ghi ơn các vĩ nhân »).
Câu chuyện vụ án Dreyfus
là như thế này. Năm 1894, phát hiện ra một
vụ gián điệp : một số tài liệu quân sự, đặc
biệt là về pháo binh, bị bán cho sứ quán Đức
ở Paris. Đại úy Alfred Dreyfus, một
sĩ quan pháo binh, gốc Do Thái, bị quy tội,
mặc dù không có bằng chứng xác đáng cụ thể.
Trong một bối cảnh mà sự kỳ thị chống người
gốc Do Thái ở Pháp tồn tại lúc đó, và mặc dù
Dreyfus kêu oan, tòa án binh họp ngày
4/12/1894 xử bị cáo tù chung thân và đày ra
đảo Ile du Diable, ở xứ thuộc địa Guyane.
Nhưng người
anh/em ruột của Dreyfus không nản
lòng ; với sự giúp đỡ của một nhà văn tên là
B. Lazare, ông này quậy khắp nơi để minh oan
cho Dreyfus. Dư luận thuở ấy chia ra làm
hai : những người «dreyfusards » (thuận
Dreyfus) – đại để là những người thuộc phải
tả và những người gần với hội nhân quyền –
và những người « anti-dreyfusards » – trong
đó có phái cực hữu và những người kỳ thị bài
người gốc Do Thái. Về phía quân đội và chính
quyền, họ cố tình bưng bít để không nhận là
đã có sự sai lầm. Năm 1896, tình cờ trong
đám sĩ quan phụ trách điều tra, thiếu tá
Picquart phát hiện ra chứng cớ là người có
tội là một sĩ quan khác, thiếu tá Esterhazy.
Tuy vậy phía quân đội và chính quyền vẫn
« ngoan cố » : tuy buộc lòng phải đem
Esterhazy ra xử (11/1/1898), nhưng viên này
được trắng án. Tệ hơn nữa, thiếu tá Picquart
bị bắt giam, rồi bị đổi đi xa. Ngày
13/1/1898, nhà văn Zola đăng một bức
thư ngỏ gửi tổng thống Pháp, đăng trên báo
L’Aurore, dưới đầu đề « J’accuse » (« Tôi tố
cáo »), phơi bày vấn đề ra trước dư luận.
Nhưng chính quyền phản ứng, và kiện ông
Zola là vu cáo : tòa xử phạt kết án Zola
một năm tù và một số tiền phạt nặng, ông
phải trốn sang London ở ẩn, như
đã kể trên.
Ngày 13/8/1898, một người sĩ quan phát hiện
ra việc trung tá Henry (trước là thiếu tá có
trách nhiệm điều tra về Dreyfus) đã làm một
số tài liệu giả để làm nặng hồ sơ kết án
Dreyfus trước đó. Bị bắt, viên này thú
nhận sự việc, và tự cắt
cổ tại nơi giam. Nhờ sự kiện mới này, mà vụ
án Dreyfus được đem ra xử lại. Lúc ấy
ông Zola mới trở lại được Pháp. Nhưng
một lần nữa, mặc dù chứng cớ hiển nhiên,
tòa án binh lần này vẫn khăng khăng là
Dreyfus có tội, tuy có tình tiết giảm
khinh, và xử ông ta 10 năm khổ sai. Sự quá
đáng này gây ra phẫn nộ ở Pháp, và cả ở nước
ngoài, có nơi báo chí và dư luận lên tiếng
bài Pháp. Chính quyền tìm một giải pháp xoa
dịu bằng cách « ân xá » Dreyfus năm
1899. Khi mọi chuyện đã êm trong lãng quên,
năm 1906, Dreyfus được phục hồi hoàn
toàn, lại còn được
gắn huân chương « Bắc đẩu bội tinh » (Légion
d’honneur)! Lúc đó, ông Zola đã mất
từ 4 năm trước rồi. Đã đành rằng việc
Dreyfus được
minh oan là nhờ sự cố gắng của nhiều người,
trong đó có gia đình ông ta, của nhiều đoàn
thể, nhà chính trị, báo chí, vv. nhưng bước
ngoặt có ý nghĩa nhất vẫn được coi là bức
thư « Tôi tố cáo » của ông Zola đăng
trên báo năm 1898, khuấy động dư luận, làm
cho sự việc không thể bưng bít được như
trước nữa.
[Ở đây, tôi không muốn luận dài
dòng về sự kỳ thị – theo tôi bất cứ loại kỳ
thị nào, chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai
cấp, giới tính, cũng đều xấu cả – tôi chỉ
muốn nói thêm về sự cần thiết phân biệt giữa
mấy từ và khái niệm « bài Do-thái ». Theo
tôi biết thì tiếng Pháp có mấy từ
antisémitisme, anti-sionisme,
anti-israélisme, anti-judaïsme, mấy từ này
khác nhau mà hình như một số người Việt Nam
không phân biệt và dịch chung là « bài
Do-thái ». Nếu tôi hiểu không lầm thì tiếng
Pháp, từ « sémite » là để chỉ những tộc ở
Cận Đông nay hoặc xưa, sử dụng ngôn ngữ
sémites, như tiếng hébreu (ngôn ngữ chính
thức ngày nay của nước Do-thái), tiếng
A-rập, tiếng Accadien, Araméen, Phénicien,
vv. Vậy nếu dùng từ « antisémitisme », thì
có lẽ phải hiểu theo nghĩa là sự kỳ thị
chủng tộc, như chế độ Đức quốc xã ; thêm vào
đó, đặc biệt là khi người dùng từ này là
người A-rập hay đứng về phía A-rập để chống
người Do-thái, thì trở thành kỳ khôi. Về từ
thứ hai, « anti-sionisme », có thể hiểu như
sự chống việc thành lập và tồn tại của một
nước Do-thái tại vùng Palestine (Sion là tên
một quả đồi ở Jérusalem, thường được đánh
đồng với chính Jérusalem). Năm 1948, nước
Do-thái được
thành lập ở vùng này và mang tên là Israel ;
đó là một quốc gia, một số công dân của nước
này không theo đạo Do-thái, một số công dân
cũng không có huyết thống Do-thái (thí dụ
như những công dân gốc A-rập nhưng có quốc
tịch Do-thái). Về từ thứ ba,
« anti-israélisme », có thể hiểu là chống
đường lối, chính sách của nước Do-thái hiện
nay. Về từ thứ tư, « anti-judaïsme », thì
phải chăng phải hiểu theo nghĩa chống những
người theo đạo Do-thái, như những người theo
đạo Ki-tô trước đây lên án người Do-thái
trách nhiệm về cái chết của chúa Ki-tô ? Nhà
xã hội học Pháp Edgar Morin có bài viết
trong báo Le Monde 19/2/2004 về một số từ đề
cập trên đây. Tôi không « với tới » được
những tài liệu tiếng Việt ở Việt Nam về vấn
đề này, nên không biết sử dụng tiếng Việt
Nam như thế nào cho phù hợp. Có ý đề nghị
dịch (theo thứ tự) là « bài Do », « chống
Sion », « chống Israel », « chống đạo
Do-thái » ; chính xác hơn, nhưng không biết
những người Việt Nam khác, vốn hay « chín
bỏ làm mười », có chấp nhận không. Khó
quá !].
Bây giờ tôi xin nói tới hai tác phẩm L’Assommoir và Germinal của Zola. Thật ra, hai tác phẩm này nằm trong một chuỗi hai chục tiểu thuyết của tác giả (tên chung là Les Rougon Macquart, tiếng Pháp gọi là roman cycle, ta gọi là tiểu thuyết chu kỳ) gồm : La fortune des Rougon, La curée, Le ventre de Paris, La conquête de Plassans, La faute de l’abbé Mouret, Son Excellence Eugène Rougon, L’assommoir, Une page d’amour, Nana, Pot-Bouille, Au Bonheur des Dames, La joie de vivre, Germinal, L’œuvre, La terre, Le rêve, La bête humaine, L’argent, La débâcle, Le docteur Pascal.
« L’Assommoir »
(nghĩa là « quán rượu hạng bét ») là cuốn
tiểu thuyết tả thảm cảnh của một cô gái tỉnh
nhỏ tên là Gervaise theo tình nhân Lantier,
thợ làm mũ, lên sống ở Paris. Cặp này đã có
ba con, nhưng Lantier là kẻ lười biếng và
không thủy chung, bỏ cô này để cặp kè với
tình nhân khác. Gervaise phải làm thợ giặt
thuê để kiếm sống, nuôi con ; và gặp
Coupeau, một thợ lợp mái nhà, đôi bên làm lễ
cưới, rồi đẻ được một con gái. Cặp này tần
tảo làm ăn, dành dụm. Mộng ước của Gervaise
là có được một hiệu giặt của riêng mình.
Nhưng chẳng may, người chồng bị nạn, ngã từ
nóc nhà xuống gẫy chân, mất việc. Tưởng đã
tuyệt vọng, song Gervaise cũng cố gắng vay
mượn để mua được một hiệu giặt, có lúc tưởng
như cuộc sống sáng sủa hơn. Nhưng nguời
chồng nay tàn tật, trở nên lười biếng, rượu
chè be bét ở quán rượu « L’Assommoir », rồi
phát điên ; người tình nhân cũ lại tìm trở
về ; Gervaise vay nợ thì không trả nổi, phải
bán hiệu ; con cái thì bỏ đi ; dần dần
Gervaise tuyệt vọng, cũng đâm ra rượu chè,
làm điếm để nuôi miệng, bị tất cả mọi người
bỏ rơi, sống những ngày tàn trong xó chân
một cầu thang… Tóm lại, cuốn tiểu thuyết nói
lên cảnh bần cùng sa đọa của những người
nghèo khổ cuối thế kỉ 19. Tiểu thuyết này được
René
Clément
dựng thành phim
năm 1956
dưới
đầu đề
« Gervaise », với các diễn viên Maria Schell
trong vai Gervaise và François Perrier trong
vai Coupeau, gây rung cảm cho khán giả.
« Germinal » là
cuốn tiểu thuyết mà khung cảnh là một cuộc
đấu tranh của công nhân hầm mỏ ở một địa
phương phía Bắc nước Pháp. Nhân vật chính là
Etienne Lantier, con trai của Gervaise, lang
thang từ miền Nam lên miền Bắc nước Pháp tìm
việc làm. « May mắn » gặp dịp một người thợ
mỏ bị chết, anh ta đuợc tuyển mộ vào làm
việc ở mỏ than. Etienne dừng chân nơi đây,
một phần cũng vì cảm thấy quyến luyến với
Catherine, con gái của người công nhân già
Maheu. Anh ta chăm chỉ học việc nhanh chóng,
và chỉ trong vòng vài tháng đã trở thành thợ
đánh rạch (haveur). Trong một khung cảnh xã
hội với sự đói khổ triền miên, Etienne trở
thành người cầm đầu cuộc đấu tranh đòi hỏi
quyền lợi cho công nhân lao động. Một cuộc
đình công xảy ra, và kéo dài ; thợ thuyền
cùng quẫn, không còn gì để ăn, phẫn nộ phá
phách. Chủ mỏ nhờ chính quyền mang quân đội
đến dẹp. Những người đình công bị xa thải,
và Etienne phải trốn sâu trong hầm mỏ để
khỏi bị bắt. Nhưng gia đình, vợ con thợ mỏ,
ngăn cản không để cho việc khai thác được
tiếp tục, cho đến lúc binh lính nổ súng bắn
chết một số người.
Cuộc đình công thất bại, thợ mỏ buộc lòng
phải đi làm trở lại. Nước ngập lụt hầm mỏ,
một số thợ mắc kẹt trong hầm, trong số đó có
Etienne và Catherine. Mấy ngày sau, khi
ê-kíp cấp cứu tới nơi, thì chỉ còn Etienne
sống sót... Cuốn tiểu thuyết này nói lên sự
đấu tranh giai cấp, giữa tư bản và lao động.
Zola viết như lột được
tình trạng thực tế, nhờ ở kinh nghiệm làm
báo và sự hiểu biết của ông về xã hội thuở
đó. Tiểu thuyết này được
Claude Berri dựng
thành phim năm 1993, với các diễn
viên Renaud, G. Depardieu, Miou-Miou,
Laurent Terzieff, vv. được coi là thành
công.
Zola
làm tôi liên tưởng đến sự hiểu biết của một
số người ở những « nước đến sau » – tôi muốn
nói những nước đang kỹ nghệ hóa hay muốn kỹ
nghệ hóa, chậm với tư bản phương Tây – họ
tuởng như « thời gian đã ngưng lại » và tư
bản phương Tây cuối thế kỉ thứ 20, đầu thế
kỉ 21 vẫn còn như ở thế kỉ thứ 19 ! Đâu có
phải vậy. Những cuộc đấu tranh đổ máu, cũng
đã làm cho xã hội biến chuyển rất nhiều ở
phương Tây. Những công đoàn được chính người
lao động tổ chức, làm môi giới để bảo vệ
quyền lợi của người lao động, chứ công đoàn
không được lập ra, dưới một danh nghĩa lạm
dụng nào đó, để bảo vệ giới chủ doanh nghiệp
hay ai khác. Những đạo luật về lao động, bảo
trợ người làm công, đã làm cho xã hội tiến
một bước dài trên con đường hướng tới công
bằng, dân chủ. Thí dụ như sự biến chuyển về
số giờ lao động, kể từ 150 năm tới nay ở
Pháp (nguồn : hồ sơ của báo « L’Humanité »
của đảng Cộng sản Pháp) : số giờ làm việc
của người lao động toàn thời gian (salariés
à temps plein) thuở xưa là hơn 3000 giờ/năm,
nay là 1700 giờ/năm. Vài mốc thời gian :
1841 : Số giờ lao động
của trẻ em dưới 12 tuổi qui định là không
quá 8 giờ/ngày.
1848 : Số giờ lao động
là 84 giờ/tuần (3025 giờ/ năm) ; tối đa 12
giờ/ngày cho công nhân các xưởng công nghiệp
– (« tuần » ở đây dùng theo nghĩa hiện nay
nghĩa là 7 ngày, không phải là « tuần » của
ta thuở xa xưa, dùng theo nghĩa 10 ngày).
1900 : Số giờ lao động
là 70 giờ/tuần ; tối đa 10 giờ/ngày trong
công nghiệp.
1906 : Số giờ lao động
là 60 giờ/tuần, và mỗi tuần được một ngày
nghỉ.
1919 : Số giờ lao động
là 8 giờ/ngày, nghĩa là 48 giờ/tuần, và 6
ngày trên 7 mỗi tuần.
1936 : Theo đạo Luật
20/6, mỗi năm người lao động được hưởng 2
tuần nghỉ vẫn hưởng lương (congés payés), và
số giờ lao động là 40 giờ/tuần.
1956 : Theo đạo Luật
27/3, mỗi năm người lao động được hưởng 3
tuần nghỉ vẫn hưởng lương.
1962
trong các xưởng xe hơi Renault , 1965 ở một
số xí nghiệp, và 2/5/1962 : mỗi năm người
lao động được hưởng 4 tuần nghỉ vẫn hưởng
lương.
1982 : Theo Luật, mỗi
năm người lao động được hưởng 5 tuần nghỉ
vẫn hưởng lương ; số giờ lao động là 39
giờ/tuần.
1998 : Theo Luật 14/5,
số giờ lao động là 35 giờ/tuần.
Ở đây,
tôi không luận việc số giờ lao động quá ít
có ảnh hưởng thế nào đến sự phát triển và
cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hóa, và
đến sức mua (pouvoir d’achat) của người lao
động. Tôi chỉ nói rằng ở mấy nước Tây Âu, tư
bản không còn là hoang dã như ở thế kỉ 19,
điều mà – trớ trêu – lại thấy xuất hiện ở
vài nơi mà thể chế đang mệnh danh là « tiến
bộ ».
Tôi muốn nói thêm
vài lời về từ « Germinal », đầu đề
của tác phẩm của Zola. Khởi thủy, nó là tên
tháng thứ 7 trong « lịch cộng hòa » thời
cách mạng Pháp, nó xấp xỉ trùng với khoảng
thời gian từ 21/3 đến 19/4 của lịch
grégorien, và được
« định nghĩa » là tháng của « sự nảy mầm và
phát triển của nhựa sống » (dịch thoát nghĩa
của tháng « de la fermentation et du
développement de la sève de mars en avril »)
theo bản báo cáo của nhà thơ Philippe
Fabre d'Églantine, nhân danh « Ban làm
lịch» ( Commission chargée de la confection
du calendrier ) ngày 24/10/1793 tại « Hội
nghị quốc ước » (Convention nationale). Tôi
có đọc đâu đó hình như Zola chọn tên
tiểu thuyết này vì cái định nghĩa nói trên,
và nhựa sống đây là sự đấu tranh đòi hỏi cho
giới lao động quyền sống trong một xã hội
sáng sủa, công bằng … (?).
Về « lịch cộng hòa »
Pháp này, nó được sử dụng trong 13 năm, từ
1793 đến 1/1/1806 thì bỏ. Ngày đầu năm là
ngày « thu phân » (équinoxe d’automne) – kể
ngược lên tới 22/9/1792 thì coi là ngày đầu
của năm thứ nhất của nền Cộng hòa Pháp, mỗi
năm chia làm 12 tháng, mỗi tháng chia làm 3
« tuần », mỗi tuần gồm 10 ngày, nghĩa mỗi
tháng gồm là 30 ngày ; như vậy một năm gồm
360 ngày, bổ sung thêm bởi 5 hay 6 ngày, gọi
là ngày lễ cộng hòa. Các tháng mang tên như
sau : 3 tháng mùa thu là vendémiaire
(xuất phát từ tiếng La-tinh vindemia nghĩa
là gặt hái), brumaire (xuất phát từ
tiếng Pháp brume, nghĩa là sương mù),
frimaire (xuất phát từ tiếng Pháp
frimas, nghĩa là sương mù dày đặc và đông
lạnh khi rơi xuống) ; 3 tháng mùa đông là
nivôse (xuất phát từ tiếng La-tinh
nivosus, nghĩa là có tuyết), pluviôse
(xuất phát từ tiếng La-tinh pluviosus, nghĩa
là nhiều mưa),
ventôse (xuất phát từ tiếng La-tinh
ventosus, nghĩa là nhiều gió); 3 tháng mùa
xuân là germinal (xuất phát từ tiếng
La-tinh germen, nghĩa là mầm), floréal
(xuất phát từ tiếng Pháp, nở hoa),
prairial (xuất phát từ tiếng Pháp, đồng
cỏ) ; 3 tháng mùa hè là messidor
(xuất phát từ tiếng La-tinh messis, gặt hái,
và tiếng Hy-lạp dôron, của được hưởng),
thermidor (xuất phát từ tiếng Hy-lạp
thermos, nóng), fructidor (xuất phát
từ tiếng La-tinh fructus, quả, và tiếng
Hy-lạp dôron, của được hưởng). Mười ngày
trong « tuần » mang tên là primidi, duodi,
tridi, quartidi, quintidi, sextidi, septidi,
octidi, nonidi, décadi, đại khái nghĩa là
ngày thứ nhất, ngày thứ hai, …, ngày thứ
bảy, ngày thứ tám, ngày thứ chín, ngày thứ
mười.
Có sách viết rằng Cách
mạng Pháp lập lịch cộng hòa như trên (và ép
phải dùng, đe ai trái lệnh thì đưa lên máy
chém) để bỏ lịch grégorien dùng trong thời
quân chủ, nhằm xóa bỏ tất cả dấu vết của
giáo hội Thiên Chúa giáo, là quốc giáo thời
còn vua. Lịch grégorien đầy dãy những ngày
lễ thánh ; lịch cộng hòa cho thay bằng mấy
ngày lễ cộng hòa (5 hay 6 ngày), bổ sung cho
đủ năm. Mấy ngày lễ cộng hòa này còn được
gọi là « sans-culottides », bởi vì thời cách
mạng phân biệt giới quí phái mặc quần bó
sang trọng (culotte) và giới bình dân không
có culotte (sans-culotte) phải mặc quần
thường – (thời tôi còn nhỏ xíu, nghe mấy
người lớn hơn học sử Pháp, tôi nhầm tưởng đó
là những nguời nghèo đến nỗi không có quần,
phải cởi truồng như
Chử Đồng Tử nhà ta trước khi gặp công chúa
Tiên Dung !).
Nhắc lại là lịch
grégorien vốn là lịch julien (lịch mà
Julius Caesar phổ biến năm 46
trước Công nguyên, vì vậy mới mang tên
« julien ») được
giáo hoàng Gregorius XIII ra lịnh sửa
năm 1582 (vì vậy mới mang tên
« grégorien »). Sửa như vậy để năm « lịch »
phù hợp hơn với với nhịp quay của trái đất
so với mặt trời 1 năm là 365,2422 ngày.
Nói chi tiết hơn một
chút : Năm 532, theo những
tính toán của Denys le Petit, một tu
sĩ ở La-mã, giáo hội Công giáo tính năm kể
từ năm sinh của Chúa Ki-tô. Tu sĩ này cho
rằng năm sinh của Chúa Ki-tô là năm 753 sau
khi La-mã được thành lập ; (nhưng ngày nay
có thuyết cho rằng ông ta nhầm mất 5 năm).
Tuy vậy cách đề năm này cũng phải đợi nhiều
thế kỉ mới được
các nước theo đạo Công giáo chấp nhận. Thí
dụ như vào thế kỉ thứ IX, thời
hoàng đế Charlemagne, người ta còn đề
năm theo năm lên ngôi của vua, đại khái theo
kiểu Tàu, kiểu ta thuở xưa. Đến cuối thời
Trung cổ, một số nhà thiên văn nhận xét rằng
sự chênh lệch giữa mỗi « năm lịch julien »
và « năm mặt trời » là 11 phút 14 giây. (Có
thuyết cho rằng kỳ thật ra, nhà thiên văn
Hy-lạp Hipparque, thế kỉ thứ II trước
Công nguyên, đã biết « năm mặt trời » lâu
bao nhiêu, trước khi Caesar định lịch
Julien). Đến thế kỉ 16 thì tổng cộng sự
chênh lệch giữa « lịch julien » và « lịch
mặt trời » lên đến 10 ngày, cho nên năm
1582, giáo hoàng Gregorius XIII cho
sửa lại cho hợp (và do đó được
gọi là lịch Grégorien) : Trước hết là quyết
định rằng sau ngày thứ năm mồng 4 tháng 10
năm 1582 là ngày thứ sáu 15 tháng 10 năm
1582 (nghĩa là nhảy cóc 10 ngày). Thứ nhì là
bỏ đi một số năm nhuận (năm đầu của 3 thế kỉ
trên 4 thế kỉ, chỉ có 365 ngày ; vì thế nên
những năm 1700, 1800, 1900 không có ngày 29
tháng 2, nhưng năm 2000 thì lại có). Với sự
hiệu chỉnh như vậy, ngày nay sự chênh lệch
giữa « lịch Grégorien » và nhịp quay của
trái đất chỉ khoảng là 1 ngày sau 3 nghìn
năm. Thoạt đầu chỉ có hai nước Tây-ban-nha
và Bồ-đào-nha là áp dụng ngay lịch Grégorien
; nước Pháp thì 2 tháng sau ; nước Anh theo
năm 1752 ; Nhật và Trung Quốc năm 1911, Nga
năm 1918, Hy-lạp năm 1923, vv. Ngày nay hầu
hết các nước, có lẽ trừ các nước Hồi giáo,
đều theo lịch này. Nhưng vì các nước không
áp dụng lịch này cùng một lúc, cho nên cần
thận trọng việc « đọc » thời điểm các sự
kiện lịch sử. Thí dụ cuộc « Cách mạng tháng
Mười » của Nga, lúc đó đang dùng lịch
julien, xảy ra vào tháng 11. Hoặc có người
lưu ý rằng hai nhà văn hào Cervantes
(Miguel de Cervantes Saavedra, người
Tây-ban-nha, tác giả của Don Quijote
de la Mancha,
...) và
Shakespeare (William Shakespeare,
người
Anh, tác giả của
« Othello »,
« Macbeth »,
« Romeo
và Juliet »,
...)
cùng được
ghi chết ngày 23 tháng 4 năm 1616, nhưng hóa
ra lại chết cách nhau 11 ngày.
Napoléon
Bonaparte, thuở
trước là tướng, rồi Consul (có người dịch là
« Tổng tài », có người dịch là « Chấp
chính » như thời La-mã) thời cộng hòa, sau
khi lên ngôi và trở thành hoàng đế
Napoléon I, bỏ lịch cộng hòa năm 1806,
và lập lại lịch grégorien. Lịch cộng hòa còn
được « hồi sinh » trong thời gian ngắn ngủi
thời Công xã Paris (La Commune de Paris : từ
6 đến 23/5/1871).
Nói
thêm là hai tác giả của lịch cộng hòa, nhà
toán học Gilbert Romme (1750-1795) và
nhà thơ Philippe Fabre, tức Fabre
d’Eglantine (1750-1794) đều bị lên máy
chém dưới thời cộng hòa, không phải vì
« lịch cộng hòa », mà vì lý do khác. Ngày
nay, hầu hết các nước trên thế giới đều dùng
lịch grégorien, mặc dù không phải là nước
theo Thiên Chúa giáo, cũng thản nhiên như
một số người Việt Nam ăn lễ Giáng sinh mà
cũng chẳng cần biết ngày đó (trên nguyên
tắc) là sinh nhật của ai.
Đã đăng trên
Diễn Đàn 20/06/2007 |