|
Muc Luc
Chương Một : Khái lược về nhân văn
I. Đại Cương Về Người Việt
II. Địa lý và quốc hiệu
III. Đại cương về văn hóa Việt
tộc
Chương Hai
I. Thời đại Thái cổ (trước Thế
Kỉ 29 tr.D.L.)
II. Thời đại Hồng Bàng (2879 tr.D.L. 257
tr.D.L.)
III Thời Thục (257 tr.D.L. 207 tr.D.L.)
IV. Thời Triệu (207 tr.D.L. - 111 tr.D.L.)
V. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (111 tr.D.L. -
39) (Lần thứ nhất)
VI. Thời Nữ vương họ Trưng (40-43)
VII. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (43-544)
(Lần thứ hai) - Bà Triệu
VIII. Thời Lý (544 - 602)
IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (603-939)
(Lần thứ ba)
X. Thời Ngô (939 - 965)
XI. Thời Đinh (968 - 980)
XII. Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê)
XIII. Thời Lý (1009 - 1225) (Hậu Lý)
XIV. Thời Trần (1225 - 1400)
XV. Thời Hồ (1400 - 1407)
XVI. Hậu Trần Kháng Chiến Chống Tàu (1407 -
1413) (Hậu Trần)
XVII. Thời kỳ bị Tàu (nhà Minh) đô hộ
(1414 - 1427)
XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)
XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592)
XX. Thời Lê trung hưng (1592 - 1788)
XXI. Thời Tây Sơn (1788 - 1802)
XXII. Thời Nguyễn (1802 - 1884)
XXIII. Pháp Xâm Chiếm Việt Nam
XXIV. Nhật tranh quyền đô hộ với Pháp
ở Việt Nam
XXIII. Pháp Xâm Chiếm Việt Nam
|
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884) |
B. Thời kỳ đô hộ (1884 - 1945) |
1. Chính Sách Thực Dân |
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân Tộc Việt Nam |
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884) |
1. Ba tỉnh Miền Đông Nam
kỳ bị thất thủ (1862) |
2. Ba tỉnh Miền Tây
Nam kỳ thất thủ (1867) |
3. Pháp đánh Bắc
kỳ lần thứ nhất (1873) |
4. Pháp đánh Bắc
kỳ lần thứ hai (1882) |
B. Thời kỳ Pháp
Đô Hộ (1884 - 1945) |
1. Chính sách thực dân |
2. Công cuộc kháng pháp
của dân Việt Nam |
1a. Chính sách thực dân |
2a. Công Cuộc Kháng
Pháp Của Dân tộc Việt Nam |
a* Miền Nam |
b* Miền Trung |
c* Phong Trào Đông Du |
d* Phong Trào Duy Tân |
e* Cuộc khởi nghĩa
Thái Nguyên |
f* Việc Ném Tạc
Đạn ở Sa Điện, Quảng Châu |
g* Cuộc khởi nghĩa
Yên Bái |
h* Cuộc Khởi Nghĩa
Lạng Sơn |
i* Các Đảng Phái,
Tổ Chức Chính Trị Khác |
|
Chương Một : Khái lược
về nhân văn
III. Đại cương về văn hóa Việt
tộc
Việt Nam là một nước văn hiến
từ lâu. Văn hoá Việt đã đạt
mức cao cả từ xa xưa nên đủ uy
lực để bảo tồn được
Việt tính và giữ vững sự trường
tồn của dân tộc. Văn minh Việt là
nền văn minh nhân tính, đó là đặc trưng
của văn minh nông nghiệp. Lý chính của văn
hoá Việt là tâm linh, là sự quân bình tình lý. Văn
hoá Việt là nền văn hoá nhân chủ, đạt
được ý thức hoà giữa người,
trời và đất. Đạt được lý
nhân hoà, thích ứng được siêu nhiên và
cụ thể. Nhưng sau nhiều thăng trầm
của lịch sử, lớp vỏ của nền văn
hoá Việt đã bị sứt mẻ bởi các
nền văn minh du mục phương bắc và văn
minh phù động tây phương cố sức
đập phá, tuy vậy sự phá phách này chỉ
mới làm sứt mẻ được lớp
vỏ mà thôi.
Chương Hai
I. Thời đại Thái cổ (trước Thế
Kỉ 29 tr.D.L.)
Từ thời rất xa xưa có những bộ
lạc cư trú tại vùng bao quanh châu thổ sông
Hồng. Lúc đó châu thổ còn là vịnh
biển, mực nước cao hơn hiện nay 50 thước.
Các bộ lạc tiền sử sống rải rác trên
vùng cao (có mức thấp nhất là cao hơn
mức nước biển hiện tại 50 thước),
từ bắc Trường Sơn tới Hoàng Lyên Sơn
và bao ra biển ở các rặng Bắc Sơn, Ngân
Sơn và quanh các nơi có cuồng lưu nước
ngọt. Khoảng thời gian đó cách nay chừng
một triệu năm. Mãi về sau có hai trung tâm phát
triển mạnh là Hoà Bình và Bắc Sơn. Thời
gian ấy cách nay khoảng từ 60 ngàn năm
tới 40 ngàn năm.
Các người tiền sử sống bằng săn
thú và hải sản. Phương tiện lúc đầu
là tay chân, sau biết dùng xương thú vật làm
tăng khả năng của tay để phát
triển lượng số thực phẩm. Dần
dần người tiền sử biết dùng
lửa, nhờ đó đời sống quy củ hơn.
Khi nước biển rút dần tới mức
hiện tại khoảng chừng 40 ngàn năm trước
các bộ lạc tiền sử bỏ dần vùng cao
và tụ tập hợp sinh tại vùng châu thổ sông
Hồng. Lúc đầu vùng châu thổ còn nhiều
đầm lầy, rừng rậm và hầu hết
mặt đất chưa ráo nước, người
tiền sử vẫn phải sống bằng săn
thú và hải sản.
Khi đất đồng bằng đủ vững,
các bộ lạc này sống bằng trồng
tỉa, sau biết trồng lúa gạọ Đó là
thời kỳ mở đầu cho nông nghiệp; văn
minh nông nghiệp manh nha. Trong suốt thời gian
hợp sinh tại châu thổ khoảng 40 ngàn năm
trước các bộ lạc tiền sử tương
giao trong khoảng thời gian chừng 30 ngàn năm
rồi hình thành một chủng tộc là Việt
tộc. Việt tộc đã tạo nên nền văn
minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới
khoảng 15 ngàn năm trước dương
lịch (văn minh Hoà Bình: đồ đá
khoảng 20 ngàn năm trước dương
lịch nông nghiệp khoảng 15 ngàn năm tr.D.L.
đồ gốm khoảng trước 10 ngàn năm
tr.D.L.). Địa bàn căn bản là châu thổ sông
Hồng. Văn hoá Việt đã được xây
dựng dần dần để trở thành nền
văn hoá tâm linh và dân Việt là một dân tộc
văn hiến từ xa xưa.
IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L.
207 tr.D.L.)
Năm 257 tr.D.L. Thục Phán thắng vua Hùng thứ
18. Lên ngôi lấy hiệu An Dương, đặt tên
nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê,
nay thuộc Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên.
Để phòng bị giặc phương bắc, vua
An Dương cho xây thành Cổ Loa rất kýên
cố. Thành có ba tầng vòng quanh xoáy vào trung tâm như
trôn ốc nên cũng gọi là Loa Thành.
Về sau, Triệu Đà là tướng của Tàu
ở vùng Nam Hải (nay thuộc tỉnh Quảng
Đông của Tàu) kéo quân sang Âu Lạc đánh phá
nhiều lần nhưng đều thất
bạị Thấy đánh mãi không được
Triệu Đà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là
Trọng Thuỷ sang nước Việt xin cưới
công chúa Mị Châu, rồi lập mưu đánh úp.
Vua An Dương bị bại trận, chạy
tới Mộ Dạ (Thanh Hoá) thì tự tử (207
tr.D.L.).
IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L. -
207 tr.D.L.)
Năm 257 tr.D.L. Thu.c-Phán thắng vua Hùng thứ 18. Lên
ngôi lấy hiệu AnĐương, đặt tên nước
là Âu-Lạc, đóng đô ở Phong-Khê, nay
thuộc Đông Anh, tỉnh Vĩnh-Yên.
Để phòng bị giặc phương bắc, vua
AnĐương cho xây thành Cổ-Loa rất kiên
cố. Thành có ba tầng vòng quanh xoáy vào trung tâm như
trôn ốc nên cũng gọi là Loa-Thành.
Về sau, Triệu Ðà là tướng của Tầu
ở vùng Nam-Hải (nay thuộc tỉnh QuảngĐDông
của Tầu) kéo quân sang Âu-Lạc đánh phá
nhiều lần nhưng đều thất
bạị Thấy đánh mãi không được
Triê.uĐDà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là
Tro.ng-Thuỷ sang nước Việt xin cưới công-chúa
Mi.-Châu, rồi lập mưu đánh úp. Vua AnĐương
bị bại trận, chạy tới Mô.Đa.
(Thanh-Hoá) thì tư.-tử (207 tr.D.L.).
IV. Thời Triệu (207 tr.D.L. - 111
tr.D.L.)
Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu
Đà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải
(nay thuộc Quảng Đông của Tàu) và quận
Quế Lâm (nay thuộc Quảng Tây của Tàu) để
lập thành nước Nam Việt. Nhờ học
được văn hoá Việt tộc, Triệu
Đà bỏ tính cương bạo du mục, nên tách
ra khỏi thế lực nhà Tần của Tàu,
rồi định lập kế đời đời
với dân Việt, bèn lập nước riêng và lên
làm vuạ Lấy hiệu là Triệu Vũ Vương,
đóng đô ở Phiên Ngung (nay thuộc tỉnh
Quảng Tây của Tàu). Triệu Đà chia nước
Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ (Bắc
Việt) và Giao Châu (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh).
Triệu Đà mất (137 tr.D.L.), nhà Triệu còn
truyền thêm được bốn đời
vuạ
- Triệu Văn Vương (Hồ) 137 tr.D.L. - 125
tr.D.L.
- Triệu Minh Vương (Anh Tề) 125 tr.D.L. - 113
tr.D.L.
- Triệu Ai Vương (Hưng) 113 tr.D.L. - 112 tr.D.L.
- Triệu Dương Vương (Kiến Đức)112tr.D.L.
- 111 tr.D.L.
Vào đời Ai Vương, thái hậu Cù Thị xúi
vua dâng nước cho nhà Hán, tể tướng
Lữ Gia bèn giết vua cùng thái hậu rồi
lập người anh khác mẹ của Ai Vương
là Kiến Đức (mẹ của Kiến Đức
là người Việt) lên ngôi, gọi là Dương
Vương, để cùng bầy kế chống nhà
Hán, nhưng thế lực không đủ nên năm
111 trước dương lịch bị tướng
Hán là Lộ Bác Đức đánh chiếm mất nước.
V. Thời kỳ bị Tàu đô
hộ (111 tr.D.L. - 39) (Lần thứ nhất)
Nhà Tây Hán (của Tàu) chiếm được nước
Nam Việt, đổi tên là Giao Chỉ Bộ và chia
thành 9 quận, riêng địa phận Âu Lạc cũ
gồm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật
Nam. Giao Chỉ Bộ đặt dưới quyền
cai trị của một Thứ Sử, mỗi
quận có một Thái Thú cai quản. Ỏ các địa
phương, các Lạc Hầu, Lạc Tướng
người Việt vẫn được giữ
chức cũ nhưng hàng năm phải nộp thóc
lúa và phẩm vật cho các quan Tàụ Các Thái Thú và
Thứ Sử người Hán lúc đó hầu
hết rất bạo tàn.
VI. Thời Nữ vương
họ Trưng (40-43)
Vào thời Tô Định làm thái thú quận Giao
Chỉ, một thủ lãnh người Việt tên là
Thi Sách vì mưu việc đuổi Tàu mà bị
giết.
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng
Nhị tiếp tục ý chí cách mạng, phất
cờ khởi nghĩa đánh Tàu giành độc
lập. Hai bà được dân chúng khắp nơi
hưởng ứng, chiếm lại được
65 thành trì và đánh đuổi quân Tô Định
về Tàụ Hai bà xưng vương năm 40,
đóng đô ở Mê Lynh (nay thuộc tỉnh Phúc Yên).
Nhà Hán phải sai một danh tướng tên là Mã
Viện sang đánh. Hai bà yếu thế, thất
trận, tự trầm ở sông Hát vào năm 43.
Ngày nay ở làng Đồng Nhân, gần Hà Nội,
có đền thờ hai bà. Ngày ký? niệm hai bà Trưng
là ngày mồng 6 tháng hai âm lịch hàng năm.
VII. Thời kỳ bị Tàu đô
hộ (43-544) (Lần thứ hai)
A. Việc đô hộ khắc nghiệt
Từ khi Mã Viện chiếm được Giao
Chỉ, chế độ đô hộ của Đông
Hán lại càng khắc nghiệt hơn. Đổi
Giao Chỉ thành Giao Châụ Các lạc hầu,
lạc tướng đều bị mất hết
quyền hành, Giao Châu bị chia thành nhiều
huyện, do các huyện lệnh người Tàu cai
tri..
Đời sống dân chúng rất khốn cực vì
bị bọn đô hộ hành hạ, bóc lột
đến tận cùng.
B. Bà Triệu khởi nghĩa (248)
Năm 248, Bà Triệu khởi nghĩa ở quận
Cửu Chân, đánh thắng quân Tàu nhiều
trận, khiến chúng khiếp sợ, nên gọi là
bà là Lệ Hải Bà Vương. Nhưng vì quân ít,
thế cô, bà Triệu bị thất trận,
chạy tới làng Bồ Điền (Thanh Hoá) thì
tự tử. Ngày nay tại đó còn có đền
thờ Bà Triệụ
VIIỊ Thời Lý (544 - 602)
- Lý Nam Đế 544 - 549
- Triệu Việt Vương 549 - 571
- Hậu Lý Nam Đế 571 - 602
Năm 541 Lý Bôn khởi nghĩa đánh đuổi
quân Tàu, chiếm được Long Biên, thứ
sử Tiêu Tư phải chạy trốn về Tàu.
Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, lấy hiệu Lý Nam
Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.
Nhà Lương bên Tàu sai Trần Bá Tiên sang gây
chiến, Lý Nam Đế phải lui về Khuất
Lyêu (Hưng Hoá) và trao quyền cho Triệu Quang
Phục. Thấy thế giặc mạnh, Triệu
Quang Phục bèn lập căn cứ ở đầm
Dạ Trạch (phủ Khoái Châu tỉnh Vĩnh Yên)
và dùng lối đánh du kých khiến quân Tàu
phải thất trận, rồi chiếm lại kýnh
độ Lúc đó Lý Nam Đế bị bịnh
mất, Triệu Quang Phục lên ngôi, xưng là
Triệu Việt Vương, năm 549. Tới năm
571 Lý Phật Tử cướp ngôi của Triệu
Việt Vương, rồi xưng là Hậu Lý Nam
Đế.
Năm 602, quân Tàu lại kéo sang đánh phá, Lý
Phật Tử thế yếu phải hàng giặc.
IX. Thời kỳ bị Tàu đô
hộ (603-939) (Lần thứ ba)
Thời kỳ này các quan lại Tàu rất khắc
nghiệt. Năm 679, nhà Đường của Tàu
thiết lập An Nam Đô Hộ Phủ ở Giao Châu,
để gia tăng bóc lột hà hiếp dân chúng.
Khắp nơi trong nước, dân chúng nổi lên
chống bọn đô hô..
Ạ Mai Hắc Đế khởi
nghĩa ở Châu Hoan (Nghệ An) (722)
Mai Thúc Loan khởi binh đánh Tàu, chiếm lại vùng
châu Hoan (Nghệ An) năm 722, rồi xưng Hoàng
Đế, người đời thường
gọi ông là Mai Hắc Đế. Ông liên kết vây
cánh với Lâm Ấp và Chân Lạp, nhưng việc
chuẩn bị chưa xong thì ông bị bại
trận, rồi mắc bệnh mà mất.
B. Cuộc khởi nghĩa của
Bố Cái Đại Vương (791)
Năm 791 Phùng Hưng khởi nghĩa chiếm
được phủ đô hộ rồi sửa
sang việc cai trị, được mấy tháng thì
mất. Dân chúng lập đền thờ tôn ông là
Bố Cái Đại Vương.
Con Phùng Hưng lên cầm quyền nhưng thế
yếu phải ra hàng quân Tàu (lúc đó là nhà
Đường của Trung Hoa).
C. Họ Khúc dấy nghiệp (906 -
923)
Vào cuối đời Đường, nước Tàu
rất loạn lạc, thừa cơ ấy dân
Việt khởi nghĩa khắp nơi, Tiết độ
sứ thất bại phải chạy về Tàụ
Năm 906 dân chúng tôn Khúc Thừa Dụ người
Hồng Châu (Hải Dương) lên làm tiết độ
sứ.Nhà Đưòng vì suy yếu phải thuận
phong cho Khúc Thừa Du.. Cai trị được
một năm thì ông mất, con là Khúc Hạo lên
thaỵ Sửa sang lại việc cai trị như
một nước tự chủ. Năm 917 Khúc
Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên nối
nghiệp. Năm 923, quân Tàu Nam Hán sang đánh
chiếm Giao Châu, rồi sai Lý Tiến làm thứ
sử.
X. Thời Ngô (939 - 965)
- Tiền Ngô Vương 939 - 944
- Dương Tam Kha 945 - 950
- Hậu Ngô Vương 950 - 965
- Loạn 12 Sứ Quân 945 - 967
Năm 931, tướng cũ của họ Khúc là Dương
Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán,
rồi tự xưng làm tiết độ sứ. Cai
trị được 6 năm thì bị bộ tướng
là Kiều Công Tiện ám sát để cướp
quyền.
Con rể của Dương Diên Nghệ là Ngô
Quyền mang quân từ châu Ái (Thanh Hoá) ra báo thù.
Kiều Công Tiện bị thua bèn cầu cứu Nam Hán.
Ngô Quyền giết Tiện rồi tiến binh phá
tan quân Nam Hán trong trận sông Bạch Đằng,
chấm dứt thời kỳ bị Tàu đô
hộ, lập lại nền độc lập cho nước
Việt.
Năm 939 Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở
Cổ Loa (Phúc Yên). Vua Ngô Quyền sửa sang
việc cai trị, tổ chức chế độ quân
chủ và thiết lập nền độc lập
vững bền, nhưng mới trị vì được
5 năm thì mất. Con là Ngô Xương Ngập lên
ngôi, nhưng lại bị cậu là Dương Tam
Kha (em vợ của Ngô Quyền) cướp ngôi
(945). Em Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn
diệt Dương Tam Kha (950) rồi hai anh em cùng làm
vua, xưng là Hậu Ngô Vương. Đến năm
965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn
bị chết trận tại Thái Bình. Thế
lực vua Ngô càng ngày càng suy yếu, thổ hào các
nơi nổi lên tranh cướp quyền hành, chia nước
thành 12 vùng cai trị riêng biệt, thủ lãnh
mỗi vùng xưng là sứ quân. Thời này của
nước Việt gọi là "Loạn 12 Sứ Quân".
Loạn bắt đầu năm 945, mãi tới năm
967, Đinh Bộ Lĩnh mớI chấm dứt
được.
XỊ Thời Đinh (968 - 980)
- Đinh Tiên Hoàng 968 - 979
- Đinh Tuệ 979 - 980
Đinh Bộ Lĩnh là một vị tướng tài
ba, dẹp tan loạn 12 Sứ Quân năm 968, lập nên
triều đại nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh người ở Hoa Lư (nay
thuộc tỉnh Ninh Bình), con của Đinh Công
Trứ làm thứ sử châu Hoan dưới thời
nhà Ngộ Ngay khi còn bé đã tỏ ra có mưu trí
hơn người, lớn lên theo giúp và làm con nuôi
sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mất, Đinh
Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư để rèn
luyện. Khi cử binh đánh các sứ quân,
trận nào cũng thắng nên được tôn là
Vạn Thắng Vương. Chỉ trong vòng một năm,
dẹp tan loạn 12 sứ quân.
Năm 968 Vạn Thắng Vương lên ngôi, lấy
hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đổi tên nước
là Đại Cồ Việt, lập đô ở Hoa
Lự Đinh Tiên Hoàng sửa sang việc nước,
thiết lập triều quy, tổ chức quân đội,
đặt hình luật rất nghiêm khắc.
Vì muốn yên mặt bắc, vả lại thế
lực nhà Tống bên Tàu đang mạnh, Đinh Tiên
Hoàng cho con sang triều cống nhà Tống để
giữ tình hoà hảọ Năm 972 Tống vương
phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.
Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm thì
bị tên cận vệ Đỗ Thích ám sát năm
979. Con nhỏ là Đinh Tuệ được
lập làm vua, nhưng chỉ được một
năm thì bị truất ngôi.
XIỊ Thời Lê (980 - 1009)
(Tiền Lê)
- Lê Đại Hành 980 - 1005
- Lê Trung Tông 1005
- Lê Long Đĩnh 1005 - 1009
Cuối đời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua chỉ ham
mê tửu sắc, rồi bị ám sát cùng với thái
tử Đinh Lyễn năm 979. Đinh Tuệ
mới 6 tuổi được lập làm vua, nhưng
quyền hành về cả tay Thập đạo Tướng
quân Lê Hoàn.
Năm 980, nhà Tống của Tàu lấy cớ đó
mang quân sang đánh nước Việt. Lê Hoàn
được triều thần tôn lên làm vua để
lo việc chống ngoại xâm. Quân Tàu kéo sang theo
đường Lạng Sơn và sông Bạch Đằng.
Nhưng mới chỉ tới Chi Lăng thì bộ
binh của Tàu bị vua Lê Đại Hành đánh
tan, thuỷ quân Tàu thấy vậy hoảng sợ
phải rút luị Vua Tống thấy đánh không
được phải tôn phong vua Lê Đại Hành
là Giao Chỉ Quận Vương để giữ tình
hoà hảo (993). Vua Đại Hành lại đánh phá
quân Chiêm ở phía nam, khiến nước này
phải thần phục năm 982.
Vua Đại Hành mất năm 1005, các hoàng tử
tranh giành ngôi vua, thái tử Long Việt lên ngôi, nhưng
mới được 3 ngày thì bị em là Long
Đĩnh sai người ám sát để cướp
ngôi. Long Đĩnh lên ngôi năm 1005, là người
rất hung ác, đam mê tửu sắc và bệnh
hoạn. Khi ngự triều phải nằm. Người
trong nước gọi ông là Lê Ngoạ
Triềụ Long Đĩnh chết năm 1009.
XIIỊ Thời Lý (1009 - 1225)
(Hậu Lý)
- Lý Thái Tổ 1010 1028
- Lý Thái Tông 1028 1054
- Lý Thánh Tông 1054 1072
- Lý Nhân Tông 1072 1127
- Lý Thần Tông 1128 1138
- Lý Anh Tông 1138 1175
- Lý Cao Tông 1176 1210
- Lý Huệ Tông 1211 1225
- Lý Chiêu Hoàng 1225
Lê Long Đĩnh chết, triều thần tôn Lý Công
Uẩn lên ngôi, ông xưng là Lý Thái Tổ, rời kýnh
đô về thành Đại La, nay là Hà Nộị
Tục truyền rằng khi Lý Thái Tổ vào thành
Đại La thì thấy rồng vàng bay lên đón rước
do đó mà đổi tên là thành Thăng Long.
Lý Thái Tổ rất sùng đạo Phật nên cho xây
chùa khắp nơi và truyền bá rất nhiều kýnh
Phật cho dân chúng.
Đến đời Lý Thánh Tông tên nước
đổi là Đại Việt (1054). Năm 1069, Lý
Thánh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Đem quân
đánh Chiêm Thành, bắt vua Chiêm là Chế Củ
mang về Thăng Long. Chế Củ phải dâng
đất để chuộc mạng, gồm các châu
Địa lý, Ma Lynh và Bố Chính (nay là Quảng Bình,
Quảng Trị).
Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Lý Thường Kiệt
và Tôn Đản đem 10 vạn quân chia thành hai
đạo thuỷ bộ đánh chiếm 3 châu Khâm,
Lyêm và Ung của Tàu (lúc đó nhà Tống đang
cai trị nước Tàu).
Thời Lý kéo dài hơn 200 năm, truyền
được 9 đời vua. Vị cuối cùng là
một nữ vương, lên ngôi mới 7 tuổi, xưng
là Lý Chiêu Hoàng. Vì Lý Chiêu Hoàng còn nhỏ tuổi nên
quyền hành đều ở trong tay Điện
tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Đô..
Trần Thủ Độ lập mưu để Lý
Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi
ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng năm 1225.
XIV. Thời Trần (1225 - 1400)
- Trần thái tông 1225 1258
- Trần thánh tông 1258 1278
- Trần Nhân Tông 1278 1293
- Trần Anh Tông 1293 1314
- Trần Minh Tông 1314 1329
- Trần Hiến Tông 1329 1341
- Trần Dụ Tông 1341 1369
- Trần Nghệ Tông 1370 1372
- Trần Duệ Tông 1372 1377
- Trần Phế Đế 1377 1388
- Trần Thuận Tông 1388 1398
- Trần Thiếu Đế 1398 1400
Trần Cảnh lên ngôi vua, xưng là Trần Thái Tông,
nhưng mọi quyền hành đều nằm trong
tay Thái sư Trần Thủ Đô..
Thời Trần nho học rất thi.nh. Ỏ kýnh
đô, ngoài Quốc Tử Giám đã có từ
thời Lý, triều đình cho lập thêm Quốc
Học viện để giảng tứ thư, ngũ
kýnh. Nước chia thành 12 Bộ, tại mỗi
bộ đều có trường dạy học.
Văn học thời Trần rất thi.nh. Đời
này có nhiều nhân tài như Lê Văn Hưu đã
soạn bộ Đại Việt Sử Kí rất có
giá trị; Mạc Đĩnh Chi, nhà văn học
lỗi lạc, nổi tiếng trong việc ngoại
giao với nhà Nguyên của Tàu; Chu An, nhà văn
học tài ba nêu gương thanh khiết và cương
trực; Nguyễn Thuyên có công xây dựng nền
tảng cho văn Nôm.
Trần Quốc Tuấn soạn "Hịch Tướng
Sĩ" được đời truyền tu.ng. Các
vua nhà Trần đều có soạn Ngự Tập.
Võ công thời Trần rất hiển hách, đã
tạo được một võ nghiệp oanh
liệt trong lịch sử thế giới, là đánh
bại đoàn quân bách thắng Mông Cổ. Lúc đó
Mông Cổ đã toàn thắng khắp nơi từ
Trung Á tới Đông Âu và chiếm trọn nước
Tàu ở phía bắc nước Việt. Thế mà
ba lần Mông Cổ sang xâm lấn nước
Việt đều bị thất bại (năm 1257,
năm 1284, năm 1287). Chiến thắng đại quân
Mông Cổ, Đức Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn xứng đáng là vị tướng
tài ba bậc nhất cổ kim.
Đời Trần Anh Tông mở mang bờ cõi về
phía nam. Nhà vua gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm
Chế Mân. Hôn lễ của vua Chiêm là châu Ô và châu
Rị Năm 1307, vùng này được đổi
thành châu Thuận và châu Hoá (nay là vùng Thừa Thiên).
Cuối thời Trần, các vua trở nên kém
cỏi, triều đình suy yếu, dân nước
đói khổ, quyền hành đều nằm cả
trong tay Hồ Quý Lỵ
XV. Thời Hồ (1400 - 1407)
- Hồ Quý Ly 1400
- Hồ Hán Thương 1401- 1407
Các vua cuối nhà Trần trí kém, tài hèn nên Hồ
Quý Ly nắm trọn quyền hành. Đến năm
1400 Hồ Quý Ly truất phế Trần Thiếu
Đế rồi xưng làm vua, đóng đô ở
Tây Đô (Thanh Hoá), đổi tên nước là
Đại Ngụ
Hồ Quý Ly cải tổ mọi việc trong nước,
lập thuế thuyền buôn, chế tiền giấy
thay tiền đồng để tiện lưu
dụng, dịch sách chữ Nho sang chữ Nôm; dùng
chữ Nôm trong việc giáo dục cùng trong các văn
kýện hành chánh. Tổ chức binh bị rất
chu đáo, lập sổ dân và tuyển thêm quân,
định binh chế, đóng chiến thuyền, xây
thành luỹ, lập kho lương và xưởng
chế tạo vũ khí.
Năm 1402 đánh Chiêm Thành mở rộng bờ cõi
phía nam, Chiêm Thành thất trận, phải dâng đất
Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ Luỹ
(Quảng Ngãi).
Năm 1406 nhà Minh bên Tàu lấy cớ giúp nhà
Trần sai Trương Phụ và Mộc Thạch
đem đại quân sang đánh nước
Việt. Quân sĩ nhà Hồ yếu hèn, lực lượng
quốc gia suy kém, dân chúng bị đói khổ vì
những năm suy vi cuối thời Trần, nên quân
Minh đã thắng dễ dàng. Hồ Quý Ly và con cháu
chạy vào tới Hà Tĩnh thì bị quân Minh
bắt, rồi giải sang Tàụ Về sau, nhà Minh
khai thác tài trí con cháu nhà Hồ để phát
triển nền văn minh Trung Hoa.
XVỊ Hậu Trần Kháng
Chiến Chống Tàu (1407 - 1413) (Hậu Trần)
- Giản Định Đế 1407 - 1409
- Vua Trùng Quang 1409 - 1413
Sau khi dứt nhà Hồ, quân Tàu chiếm nước
Việt, thiết lập việc cai tri..
Con cháu nhà Trần phải chịu lao khổ kháng
chiến chống quân Minh. Hoàng Đế Giản
Định (Trần Quỹ), vua Trùng Quang (Trần Quý
Khoách) gặp nhiều gian nan. Cuối cùng, thế
yếu tất cả đều bị thất
bạị
XVIỊ Thời kỳ bị Tàu
(nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427)
Ạ Việc Tàu đô hộ
Thắng được nhà Hồ và con cháu nhà
Trần, quân Minh thiết lập việc đô
hộ rất tàn bạo, bóc lột dân Việt đến
cùng cực: tiêu huỷ sách vở, tận thu tài
liệu văn hoá Việt mang về Tàu để
mạo thành tài liệu của Tàu, bắt dân
Việt học chữ Hán, đầy đoạ dân
chúng trong cảnh khốn cực, lầm than.
B. Lê Lợi Đánh Tàu Phục
Quốc (1418 1427)
Năm 1418 Lê Lợi xưng là Bình Định Vương,
khởi nghĩa đánh Tàu ở Lam Sơn (Thanh Hoá).
Lúc đầu, thế còn yếu, Lê Lợi phải
rút quân về núi Chí Lynh ba lần để thế
thủ và rèn luyện quân sĩ.
Tới năm 1424, theo sách lược của
Nguyễn Trãi, Bình Định Vương đánh
thắng quân Minh liên tiếp, chiếm lại các
đất từ Thanh Hoá vào nam.
Năm 1426 Bình Định Vương tiến quân ra
bắc, đánh tan đại quân của Vương
Thông tại Tuỵ Động, chém chết Liễu
Thăng ở Chi Lăng, giành lại độc
lập cho người Việt năm 1427.
XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê)
(1428 - 1527)
- Lê Thái Tổ 1428 - 1433
-Lê Thái Tông 1433 - 1442
- Lê Nhân Tông 1442 - 1459
- Lê thánh Tông 1460 - 1497
- Lê Hiến Tông 1497 - 1504
- Lê túc Tông 1504
- Lê Uy Mục 1505 - 1509
- Lê Tương Dực 1509 - 1516
- Lê Chiêu Tông 1516 - 1524
- Lê Cung Hoàng 1524-1527
Sau khi đuổi xong giặc Tàu, Bình Định Vương
lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Thái Tổ, đóng
đô ở Thăng Long, tên nước vẫn là
Đại Việt.
Ỏ thời Lê, mọi việc trong nước
đều được sửa sang. Việc cai
trị sắp đặt tốt đẹp, luật
pháp nghiêm minh. Bộ luật Hồng Đức là
bộ luật rất hoàn bị đã được
ban hành dưới triều Lê Thánh Tông (1460 1497)
Việc học được khuyến khích.
Triều đình đặt lệ khắc tên
những người đỗ tiến sĩ vào bia
đá và được vinh quy bái tổ.
Thời này có nhiều tác phẩm danh tiếng còn
truyền đến nay như: Đại Việt
Sử Kí Toàn Thư của Ngô Sĩ Lyên, thơ văn
của Nguyễn Trãi (Gia Huấn Ca, Bình Ngô Đại
Cáo, v.v.).
Võ công và việc mở mang bờ cõi cũng rất
lẫy lừng, Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành,
lấy đất, lập thành đạo Quảng
Nam (1471). Năm 1479 xứ Bồn Man (Trấn Ninh, nước
Lào) liên kết với nước Lão Qua (nước
Lào) nổi lên quấy phá, Lê Thánh Tông sai quân đánh
dẹp, xứ Bồn Man xin quy thuận.
Vào cuối thời Lê, các vua sinh tật, ham mê
tửu sắc, xa xỉ thái quá, khiến dân nước
khổ sở, giặc giã nổi lên khắp nơị
Quan triều thì giành nhau quyền lợi. Tướng
Mạc Đăng Dung dẹp yên loạn ở
triều rồi giết vua Lê Cung Hoàng (1527), soán
đoạt ngôi vuạ
XIX. Thời Lê - Mạc tranh
quyền (1527 - 1592)
- Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527 - 1529
- Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540
- Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1540 - 1546
- Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561
- Mạc Mậu Hợp 1561 - 1592
Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng rồi
soán ngôi, lập nên nhà Mạc. Mạc Đăng
Dung lên ngôi xưng là Minh Đức, vẫn theo chính
sách của các triều Lê mà trị nước.
Đến năm 1540, Mạc Đăng Dung hàng
phục Tàu và nhận chức phong Đô Thống
Sứ của nhà Minh. Đa số các quan triều không
phục, người thì ẩn tránh, người thì
nổi lên chống lại.
Con một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim
nổi lên, lập con cháu nhà Lê lên làm vua để
chống nhà Mạc. Nguyễn Kim đánh chiếm
được từ Thanh Hoá vào nam, chia đôi đất
nước với nhà Mạc.
Năm 1545, Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh
Kiểm thế quyền. Trịnh Kiểm sợ con cái
Nguyễn Kim không chịu bèn giết em vợ là
Nguyễn Uông và bắt Nguyễn Hoàng vào trấn
ở đất Thuận Hoá (1558). Trịnh Kiểm
mất, Trịnh Tùng lên thay năm 1592. Trịnh Tùng
đem quân đánh nhà Mạc ở bắc, giết
được Mạc Mậu Hợp, chiếm kýnh thành,
diệt xong nhà Mạc, hoàn thành việc trung hưng
nhà Lê.
Ạ Các Vua Lê Trong Thời kỳ
Lê Mạc Chiến Tranh (1533 - 1592)
- Lê Trang Tông 1533 - 1548
- Lê Trung Tông 1548 - 1556
- Lê Anh Tông 1556 - 1573
- Lê Thế Tông 1573 - 1599
B. Các Vua Lê trong Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân
tranh
- Lê Kính Tông 1560 - 1619
- Lê Thần Tông 1619 - 1643
- Lê Chân Tông 1643 - 1649
- Lê Thần Tông 1649 - 1662 (làm vua lần thứ hai)
- Lê Huyền Tông 1663 - 1671
- Lê Gia Tông 1672 - 1675
- Lê Hi Tông 1676 - 1705
- Lê Dụ Tông 1706 - 1729
- Lê Đế Duy Phương 1729 - 1732
- Lê Thuần Tông 1732 - 1735
- Lê Ý Tông 1735 - 1740
- Lê Hiển Tông 1740 - 1786
- Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) 1787 - 1788
XX. Thời Lê Trung Hưng (1592 - 1788)
Trong thời Lê Trung Hưng thì từ năm1627
tới 1672 là giai đoạn Nam Bắc phân tranh
giữa họ Trịnh và Nguyễn, kéo dài 45 năm.
Trong thời Trung Hưng, vua Lê chỉ có hư
vị, Trịnh Tùng xưng chúa, rồi cha truyền
con nối, nắm hết quyền hành ở miền
Bắc, gọi là Đàng Ngoàị Nguyễn Hoàng xưng
chúa ở miền Nam, lập thành một khu vực
tự trị, gọi là Đàng Trong. Chúa Trịnh,
chúa Nguyễn đều muốn tiêu diệt nhau
để nắm trọn quyền hành, nên sinh thù
nghịch và gây việc chiến tranh.
Năm 1627, chúa Trịnh lấy cớ chúa Nguyễn
không chịu nộp thuế cho vua Lê nên sai quân vào
đánh miền Nam, bắt đầu cuộc
chiến tranh Nam Bắc.
Trong vòng 45 năm Trịnh, Nguyễn đánh nhau 7
lần không phân thắng bại nên hai bên phải
giảng hoà, cắt nước làm đôi, lấy sông
Gianh làm ranh giới hai miền Bắc, Nam.
Chính trị miền Bắc (Đàng Ngoài) chỉ
quanh quẩn việc ngôi vị và cai trị địa
phương cùng lăm le đánh chiếm miền
Nam.
Miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn ngoài
việc lo chống các chúa Trịnh ở Bắc,
vẫn lo được việc mở mang bờ cõi.
Lấy các đất của Chiêm Thành, Thuỷ Chân
Lạp để thành lập các tỉnh Bình Định
năm 1558, Phú Yên năm 1611, Khánh Hoà năm 1653, Biên
Hoà và Gia Định năm 1698, Hà Tiên năm 1708.
Nhưng ở miền Nam từ khi chúa Nguyễn Phúc
Khoát mất năm 1765 thì sinh rối loạn do
quyền thần Trương Thúc Loan, làm nhiều
điều tàn ác, dân chúng oán giận.
Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ,
Nguyễn Huệ khởi nghĩa ở làng Tây Sơn
(Bình Định), đánh chiếm Quy Nhơn rồi
lấy luôn từ Quảng Ngãi vào Bình Thuận.
Chúa Trịnh thừa cơ miền Nam rối loạn
bèn sai quân vào đánh lấy Phú Xuân (1775). Chúa
Nguyễn bị thua, chạy vào
Quảng Nam, nhưng lại bị Nguyễn Nhạc
đánh bại, nên phải trốn vào Gia Đi.nh.
Ỏ đây chúa Nguyễn Phúc Thuần bị
tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ giết
chết.
Lúc đó, Nguyễn Nhạc thấy quân Trịnh
đang mạnh bèn hàng thuận để khỏi lo
mặt Bắc, rồi tiến quân đánh chúa
Nguyễn. Chiếm lấy đất Gia Định
(1777).
Sau khi thắng miền Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi
vua, xưng hiệu là Thái Đức, lập kýnh
đô ở thành Đồ Bàn năm 1778.
Còn ở Đàng Ngoài thì rối loạn. Cuối
đời Trịnh Khải có loạn kýêu binh (1782).
Nguyễn Huệ nhân dịp đó chiếm Thuận
Hoá, rồi thừa thế tiến ra Thăng Long.
Trịnh Khải bị thua phải tự tử.
Thế là cơ nghiệp nhà chúa chấm dứt
(1786).
Nguyễn Huệ trả quyền cai trị cho vua Lê
Hiển Tông rồi rút quân về Nam. Lê Hiển Tông
mất, cháu là Duy Kỳ nối ngôi, niên hiệu Chiêu
Thống. Lê Chiêu Thống nhu nhược, bất tài
nên Trịnh Bồng lại ép vua để lập
lại nghiệp chúạ Nguyễn Hữu Chỉnh
từ Thanh Hoá ra giúp Chiêu Thống dẹp được
Trịnh Bồng, rồi từ đó Nguyễn
Hữu Chỉnh cậy công mà chuyên quyền.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đóng đô
ở Thuận Hoá được tin Nguyễn Hữu
Chỉnh áp chế vua Lê bèn sai Vũ Văn Nhậm
ra bắt giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Chiêu
Thống thấy Vũ Văn Nhậm đưa quân
ra bắc thì sợ hãi rồi chạy trốn và
gởi con sang Tàu cầu viện quân Thanh (1788).
Vũ Văn Nhậm ở bắc có ý phản
nghịch, Bắc Bình Vương phải thân chinh ra
bắt Nhậm giết đi, rồi trao quyền cai
trị đất bắc cho Ngô Văn Sở và Ngô
Thời Nhiệm.
Các Chúa Trịnh ở Bắc Các
Chúa Nguyễn ở Nam
Trịnh Tùng 1570 - 1623 Nguyễn Hoàng 1600 - 1613 Chúa Tiên
Trịnh Tráng 1623 - 1657 NguyễnPhúcNguyên 1613 1635 Chúa
Sãi
Nguyễn Phúc Lan 1635 - 1648 Chúa Thượng
Trịnh Tạc 1657 - 1682 Nguyễn Phúc Tần 1648 -
1687 Chúa Hiền
Trịnh Căn 1682 - 1709 Nguyễn Phúc Trăn 1687 -
1691 Chúa Nghĩa
Trịnh Cương 1709 - 1729 Nguyễn Phúc Chu 1691 -
1725 Quốc Chúa
Trịnh Giang 1729 - 1740 Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738
Trịnh Doanh 1740 - 1767 Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765
Trịnh Sâm 1767 - 17882 Nguyễn PhúcThuần 1765 - 1777
Trinh Cán 1782 - 1783 (làmm chúa được 2 tháng)
Trịnh Khải 1783 - 1786
XXỊ Thời Tây Sơn (1788 - 1802)
- Vua Quang trung 1788 - 1792
- Vua Cảnh Thịnh 11792 - 1802
Vua Thanh Càn long mượn cớ Lê Chiêu Thống
cầu viện để thôn tính nước
Việt, đã sai Tôn Sĩ nghị đem 20 vạn
quân sang đánh. Quân Thanh theo ba đường: Tuyên
quang, Cao bằng và Lạng sơn (1788).
Ngô Văn Sở thấy không thể kháng cự
nổi, bèn rút quân về núi Tam điệp.
Lê Chiêu Thống theo quân Tôn Sĩ nghị vào Thăng
long và nhận chức An Nam Quốc vương do vua
Thanh Càn long phong cho, rồi ỷ vào thế quân Tàu
thả sức lo việc chém giết báo thù. Còn quân
Thanh thì thả sức cướp bóc, giết
hại dân Việt. Dân chúng miền Bắc phải
sống trong cảnh vô cùng kýnh hoàng khốn cực.
Được tin quân Thanh sang xâm lăng, Bắc Bình
Vương lên ngôi Hoàng Đế (1788), lấy
hiệu Quang Trung, rồi kéo 10 vạn quân ra Bắc
tiễu phạt quân Tàụ
Ngày 10 tháng chạp quân Việt tới núi Tam Điệp,
Hoàng Đế Quang Trung cho dừng binh để quân
sĩ ăn tết trước, rồi ngày 30 tháng
chạp hỏa tốc tiến đánh. Quân Tàu liên
tiếp bị thất bại ở các mặt
trận Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống
Đạ Các danh tướng Tàu Hứa Thế Hanh,
Sầm Nghi Đống đều bị chết
trận. Tôn Sĩ Nghị quá sợ hãi phải rút tàn
quân chạy trốn về Tàụ Thế là chỉ
trong vòng năm (5) ngày, Quang Trung đại phá quân
Thanh (1789). Lê Chiêu Thống và gia đình chạy theo
Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, rồi sau này bị
chết nhục ở nước ngườị
Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung lo sắp
xếp, ổn định nội trị và ngoại
giaọ
Vì vua Thanh Càn Long có lòng kýnh nể Hoàng Đế
Quang Trung nên việc giao hoà giữa hai nước
sớm được ổn định tốt đẹp.
Việc nội trị, Quang Trung định đô
tại Nghệ An, là Phượng Hoàng Trung Đô và
gọi Thăng Long là Bắc Thành. Nước
được chia thành nhiều trấn, có trấn
thủ coi việc võ, hiệp trấn coi việc văn.
Lập sổ điền, khuyến khích nông
nghiệp, phát triển buôn bán, đúc tiền đồng,
cải cách và khuyến khích văn học, dùng
chữ Nôm làm quốc tự, bỏ chữ Hán.
Nhà vua rất chú trọng việc quân sự, lập
sổ đinh, tuyển chọn binh sĩ và tập
luyện chuyên cần, để lo việc tương
lai đánh Tàu lấy lại đất Lưỡng
Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây). Nhưng
vị vua anh tài bậc nhất trong lịch sử
bị mất sớm (1792) nên quốc sách không thi hành
được.
Con của Quang Trung là Quang Toản lên ngôi lấy
hiệu Cảnh Thi.nh. Quang Toản nhỏ tuổi,
trong nước gặp lúc khó khăn lộn xộn,
nên về sau bị Nguyễn Ánh lấy mất
nghiệp (1802).
Thời Tây Sơn, nước Việt bị chia làm
ba miền: Miền Bắc do Nguyễn Huệ cai
trị; Miền Trung do anh cả Nguyễn Nhạc cai
quản; Miền Nam do anh thứ hai Nguyễn Lữ
chỉ huỵ Khi chúa Nguyễn mất nghiệp thì còn
sót lại một người dòng dõi nhà Nguyễn là
Nguyễn Ánh, tụ tập quân sĩ đánh nhau
với Nguyễn Lữ, chiếm được thành
Gia Định, xưng vương năm 1780.
Sau Nguyễn Ánh lại bị thất bại phải
chạy ra vùng hải đảo cùng trốn sang Xiêm
La (Thái Lan) cầu cứu quân Xiêm và thế lực Tây
Phương.
Năm 1788 Nguyễn Ánh lại chiếm được
Gia Định, rồi nhân cơ hội anh em Tây Sơn
bất hoà, cùng nhờ được một số
người Pháp giúp sức và luyện tập binh sĩ
nên tính việc đánh Bắc Hà.
Từ năm 1790 cứ theo mùa gió nồm (thổi
từ nam lên bắc) Nguyễn Ánh đem binh
thuyền ra đánh phá Tây Sơn, khi đổi
chiều gió thì rút đị Cho nên dân chúng gọi
các trận ấy là "giặc mùa".
Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn 3 lần mới
thắng (1799) rồi đổi tên là Bình Đi.nh.
Năm 1801 Nguyễn Ánh mang toàn lực hạ thành Phú
Xuân (Huế). Vua Cảnh Thịnh phải chạy ra
Bắc. Chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh
lên ngôi vua, xưng là Gia Long năm 1802. Lập kýnh
đô ở Phú Xuân và đổi tên nước là
Việt Nam.
Gia Long ra đánh Bắc Hà trong vòng một tháng thì
toàn thắng, vua Quang Toản cùng các tướng
đều bị bắt rồi bị giết.
Thời Tây Sơn chấm dứt năm 1802,
Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long và
thống nhất đất nước ngày 20 tháng 7
năm 1802.
XXIỊ Thời Nguyễn (1802 -
1884)
Ạ Các Vua Nhà Nguyễn Trong Thời Độc
Lập
Thế Tổ - Gia Long 1802 - 1819
Thánh Tổ - Minh Mệnh 1820 - 1840
Hiến Tổ - Thiệu Trị 1841 - 1847
Dực Tông - Tự Dức 1847 - 1883. Không con, có ba người
con nuôi : Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng
Thiện
B. Các Vua Nhà Nguyễn Trong Thời kỳ Việt Pháp
Chiến Tranh
- Dục Đức 1883 làm vua
được 3 ngàỵ Con nuôi trưởng của
vua Dực Tông
- Hiệp Hòa 1883 làm vua được 4 tháng thì
bị giết. Em vua Dực Tông
- Kiến Phúc 1883 - 1884 làm vua được 6 tháng thì
mất; con nuôi thứ ba của vua Dực Tông
- Hàm Nghi 1884 - 1885 bị Pháp đầy sang nước
Algérie năm 1885. Em vua Chánh Mông
C. Các Vua Nhà Nguyễn do Pháp
lập nên
- Đồng Khánh 1885 - 1888. Tên là Chánh
Mông,con nuôi thứ hai của vua Dực Tông
- Thành Thái 1888 - 1907. Con vua Dục Đức, bị
Pháp đầy sang đảo Réunion (Phi Châu) năm
1915 vì mưu việc đuổi
Pháp
- Duy Tân 1907 - 1916. Bị Pháp đầy sang đảo
Réunion năm 1916, vì đánh đuổi Pháp
- Khải Định 1916 - 1925
- Bảo Đại (lần thứ nhất) 1926 - 1945
(lần thứ hai) 1948 - 1955
Sau khi thống nhất, Gia Long (1802 - 1820) sắp đặt
việc cai trị trong nước và ngoại
giaọ
Tổ chức triều chính gồm có 6 bộ trông
coi các việc.
Bộ Lại : coi việc quan lại, hành chánh.
Bộ Hộ : coi việc thuế khoá, tài chính.
Bộ Lễ : coi việc lễ nghi, giáo dục.
Bộ Hình : coi việc luật pháp.
Bộ Binh : coi việc quân sư..
Bộ Công : coi việc xây cất, giao thông.
Đứng đầu mỗi bộ là Thượng
Thự
Nước chia thành 23 trấn, 4 doanh, đứng
đầu trấn là Trấn Thủ. Miền Bắc
gọi là Bắc Thành gồm 11 trấn. Miền Nam
gọi là Gia Định Thành gồm 5 trấn. Ỏ
mỗi thành có Tổng Trấn đứng đầụ
Triều đình trực tiếp cai trị 7 trấn
và 4 doanh miền Trung. Trấn chia thành Phủ,
Huyện, Châu, Tổng, Xã; Đứng đầu là
Trị Phủ, Tri Huyện, Tri Châu, Cai Tổng, Xã Trưởng.
Bộ luật Gia Long ban hành năm 1815. Bộ
luật này phỏng theo luật Hồng Đức
thời Lê và luật nhà Thanh bên Tàu.
Phép cân đo được quy định rõ ràng.
Lập sở đúc tiền. Thuế lệ chia thành:
thuế đinh, thuế điền, thuế sản
vật.
Kế vị Gia Long là Minh Mạng (1820 - 1840). Minh
Mạng đặt thêm nội các và cơ mật
viện để lo việc triều chính. Bãi bỏ
chức Tổng Trấn, đổi các Trấn, Doanh
thành tỉnh. Đặt chức Tổng đốc và
Tuần phủ để cai tri.. Chức Bố chánh
coi việc thuế khoá, Án Sát coi việc hình
luật, Lãnh Binh coi việc quân sư.. Đặt thêm
thuế muối và thuế Minh hương (người
Tàu cư trú ở Việt Nam).
Các triều Thiệu Trị (1841 -
1847), Tự Đức (1847 1883), việc nội
trị vẫn theo nếp cũ.
Việc học thời Nguyễn được
khuyến khích theo lối học của Trung hoa, chú
trọng nhiều vào từ chương, khoa cử.
Lập miếu thờ Khổng Tử ở các
Trấn, Doanh. Tại Kinh Đô Huế lập thêm
Quốc Tử Giám để dạy con cái nhà
quyền thế, đặt chức Đốc
học ở Trấn, chức Giáo thụ ở
Phủ, Huấn Đạo ở Huyện để
trông coi việc giáo dục.
Năm 1807 mở khoa thi Hương, chọn các
cử nhân ra làm việc triều đình. Vua sai người
soạn sách Địa lý và Quốc sử.
Thời này có nhiều tác phẩm văn chương
giá trị như: Kim Vân Kiều của Nguyễn Du,
Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Mai Đình Mộng
ký của Nguyễn Huy Hổ.
Thời Minh Mạng đặt lệ cấp lương
cho các giám sinh học ở Quốc Tử Giám và
mở khoa thi Hội, thi Đình để chọn các
tiến sĩ. Lập Quốc Sử Quán để sưu
tập tài liệu sử Việt Nam. Thời này có các
sách sử, địa như: Đại Nam Thực
Lục, Lịch Triều Hiến Chương Loại
Chí của Phan Huy Chú, Gia Định Thông Chí của
Trịnh Hoài Đức, Nhất Thống Địa
Dư Chí của Lê Quang Định, Bắc Thành
Địa Dư Chí của Lê Chất.
Có các tác giả văn học nổi tiếng như:
Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Lý Văn
Phức, Hồ Xuân Hương, Phạm Đình
Hổ.
Thời Tự Đức, hoàn thành bộ sử có
giá trị là Khâm Định Việt Sử và các
bộ Đại Nam Thực Lục, Đại Nam
Lyệt Truyện cùng sách địa lý như Phương
Đình Địa Dư Chí Loại của Nguyễn
Văn Siêụ
Thời này cũng có nhiều tác giả văn chương
nổi tiếng như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,
Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương, Phan Huy
Vịnh, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Quý Tân, Cao Bá
Nha.. Văn chương truyền khẩu trong dân gian
cũng rất thi.nh. Lại thêm nhiều tác phẩm
có giá trị viết bằng chữ Nôm của các tác
giả vô danh.
Về việc ngoại giao, nước Tàu chỉ là
cái xác khổng lồ, thế lực suy nhược,
nhưng vẫn được các vua nhà Nguyễn kýnh
sơ.. Khi Gia Long lên ngôi đã sai sứ sang Tàu xin
phong và chịu lệ triều cống 3 năm
một lần để cầu hoà hiếu với Tàụ
Đối với các nước nhỏ thì hống
hách. Nguyên nước Chân Lạp vốn thuộc
quyền bảo hộ của chúa Nguyễn, đến
khi nước Việt bị rối ren thì Chân
Lạp thần phục Xiêm Lạ Sau khi thống
nhất Việt Nam Gia Long sai Lê Văn Duyệt đem
binh đánh đuổi quân Xiêm giành lại quyền
bảo hộ Chân Lạp (Campuchia).
Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi nghĩa chống Minh
Mạng, quân Xiêm thừa cơ đó sai 5 đạo
binh theo đường Chân Lạp, Ai Lao sang đánh
nước Việt, nhưng bị tướng Trương
Minh Giảng dẹp tan. Ai Lao lại thần phục
Việt Nam cùng dâng các đất Trấn Ninh,
Savanakhet, Cam Môn và Sầm Nứạ
Năm 1845, quân Xiêm sang quấy nhiễu Nam Vang, vua Chân
Lạp cầu cứu vua Thiệu Trị, nhà vua bèn
sai Nguyễn Tri Phương sang đánh quân Xiêm,
lấy lại Nam Vang. Quân Xiêm cầu hoà, Việt Nam
lại nắm quyền bảo hộ Chân Lạp.
Việc bang giao với các nước Tây phương
không được tốt đẹp. Ngay từ
thời Gia Long, nhà vua đã từ chối việc thông
thương với các nước Tây phương.
Gia Long chỉ đãi ngộ đặc biệt riêng
những người Pháp đã có công giúp trong
việc đánh Tây Sơn. Các vua sau không những cương
quyết từ chối giao thiệp với Tây phương
mà còn ban lệnh cấm đạo Thiên Chúa là đạo
do Tây phương truyền đến. Đó là
cớ để Pháp và Tây Ban Nha gây chiến tranh sau
nàỵ
Dưới triều Tự Đức có Nguyễn Trường
Tộ là nhân tài sáng suốt đưa nhiều
đề nghị canh tân đất nước để
theo kiệp đà tiến bộ khoa học. Về giáo
dục ông đề nghị bỏ lối học
từ chương, dạy các môn khoa học thực
nghiệm, dùng quốc văn, bỏ chữ Hán và cho
học sinh xuất dương cầu học. Về
quân sự ông đề nghị tổ chức và
huấn luyện quân đội cùng trang bị theo
lối Âu Mỹ. Về kýnh tế ông đề
nghị phát triển canh nông, ký~ nghệ, thương
mại và lập đường giao thông cùng khai
mỏ. Về ngoại giao ông đề nghị
mở bang giao với các cường quốc Âu
Mỹ. Nhưng những điều trần của ông
đều bị bác bỏ.
Vua dốt nát, không quyết đoán. Các quan
triều, người vì địa vị, quyền
lợi tư riêng, người đần độn,
tối tăm, nên cứ khăng khăng theo lối
hủ lậụ Những người có trách
nhiệm với quốc gia và có địa vị cao
mà còn tệ như thế nên nạn nô lệ
ngoại dương tất hẳn chẳng thoát
được.
XXIIỊ Pháp Xâm Chiếm Việt
Nam
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
B. Thời kỳ đô hộ (1884 - 1945)
1. Chính Sách Thực Dân
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân Tộc Việt Nam
Ạ. Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
Từ thế ký? 19, hầu hết các thị trường
của Pháp ở Ấn Độ và Trung Hoa đều
bị Anh Cát Lợi chiếm hoặc phong toả.
Thị trường lớn của Pháp ở Trung Hoa
là Vân Nam bị chận đường thông thương
ở Hương Cảng từ năm 1842 (sau khi Anh
thắng Tàu trong trận "nha phiến"), nên Pháp
phải tìm đường khác từ Thái Bình Dương
vào Vân Nam. Sông Cửu Long bất lợi, vì vậy
phải tính việc dùng sông Hồng Hà.
Lúc đầu, Pháp chỉ muốn được
quyền sử dụng các sông kể trên, nhưng
sau khi chiến tranh với Việt Nam thì thấy
triều đình nhà Nguyễn quá yếu hèn và
thị trường Việt Nam cũng trở nên
rất quan trọng, vì thế Pháp đã chiếm
trọn để đô hộ và khai thác.
1. Ba tỉnh Miền Đông Nam
kỳ bị thất thủ (1862)
Quân Pháp và Tây Ban Nha lấy cớ triều đình
Huế cấm đạo Thiên Chúa mà đem quân vào
can thiệp. Đầu năm 1859 quân Pháp hạ thành
Gia Định, Tự Đức sai Nguyễn Tri Phương
vào lập đồn kỳ Hoà lo chống cư.. Năm
1861, quân Pháp hạ đồn kỳ Hoà rồi
tiến chiếm Định Tường, Biên Hoà và
Vĩnh Long (1862). Tự Đức cử Phan Thanh
Giản vào Gia Định nghị hoà. Hoà ước
ký ngày 9 5 1862, nhượng ba tỉnh miền Đông
Nam kỳ (Gia Định, Biên Hoà, Định Tường)
cho Pháp.
2. Ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ
thất thủ (1867)
Năm 1863, Tự Đức sai Phan Thanh Giản
cầm đầu phái đoàn sang Pháp để
điều đình chuộc lại ba tỉnh
miền đông. Vua Pháp chấp thuận với điều
kýện để Pháp bảo hộ luôn sáu tỉnh
Nam kỳ. Việc bàn chưa xong thì Pháp rút lại
đề nghị đó. Thấy vậy vua Tự
Đức phải cử Phan Thanh Giản làm kýnh lược
sứ nắm giữ 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ.
Mặc dù đã 70 tuổi ông vẫn phải
chịu trách nhiệm khó khăn ấỵ
Quân Pháp viện cớ triều đình Nguyễn giúp
nghĩa quân chống Pháp ở 3 tỉnh miền
Đông để tiến quân chiếm nốt ba
tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Phan
Thanh Giản liệu sức không cự nổi và
sợ dân chết khổ vì chiến tranh, nên ra
lệnh nộp thành rồi uống thuốc độc
tự tử, 1867. Thế là 6 tỉnh Nam kỳ
bị thuộc Pháp.
3. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất
(1873)
Sau khi chiếm Nam kỳ, Pháp thấy sông Cửu Long
không thuận tiện cho việc giao thông với Vân
Nam ở Tàu, bèn tính tới con đường sông
Hồng Hà. Pháp sai tên Jean Dupuis giả làm lái buôn dùng
sông Hồng Hà để chở hàng vào Vân Nam. Sau
khi thấy sông Hồng Hà thuận tiện cho
việc giao thương, tên này trở lại Hà
Nội gây chuyện với quan lại Việt Nam
để quân Pháp ở Sài Gòn có cớ ra can
thiệp. Soái phủ Sài Gòn cử tên đại uý
Francis Garnier đem binh thuyền ra tấn công Hà
Nộị Quan thủ thành là Nguyễn Tri Phương
và con là phò mã Nguyễn Lâm cự không lạị
Nguyễn Lâm tử trận, Nguyễn Tri Phương
bị bắt rồi ông tự tử chết (1873).
Sau khi chiếm được Hà Nội, Garnier
tiến chiếm Ninh Bình, Nam Định và Hải Dương.
Triều đình Huế sai Hoàng Kế Viêm tổ
chức phòng thủ. Hoàng Kế Viêm gọi quân
cờ đen giúp sức để lấy lại Hà
Nộị Quân Cờ Đen vốn là dư đảng
của quân Thái Bình bên Tàu chạy sang Việt Nam,
được Hoàng Kế Viêm chiêu dụ ở Lào
Caỵ Quân Cờ Đen phục kých quân Pháp ở
Ô Cầu Giấy và giết được Garnier.
Soái phủ Nam kỳ sai Philastre từ Sài Gòn ra Hà
Nội lo việc giảng hoà và trả lại các thành
cho Việt Nam rồi lui tầu bè xuống Hải Phòng.
Sau đó Nguyễn Văn Tường cùng Philastre vào
Sài Gòn tiếp tục thương nghi..
Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Thượng thư Lê
Tuấn, Thượng thư Nguyễn Văn Tường
và Thiếu tướng Dupré cùng ký bản hoà ước
1874, gồm 22 khoản, các khoản chính là:
Việt Nam nhượng đứt cho Pháp 6 tỉnh
Nam kỳ, mở của Ninh Hải (Hải Phòng), thành
Hà Nội và sông Hồng Hà cho người ngoại
quốc vào buôn bán.
Pháp công nhận quyền độc lập của
Việt Nam, không phải thuần phục nước
nào nữạ Mọi việc đánh dẹp sẽ
do Pháp lo liệu, và phải y theo sách lược
ngoại giao của Pháp.
4. Pháp đánh Bắc kỳ
lần thứ hai (1882)
Về sau, thấy triều đình Nguyễn càng ngày
càng suy nhược, Pháp tính việc chiếm Bắc
kỳ. Soái phủ Sài Gòn lấy cớ bảo
vệ quyền lợi của người Pháp, sai
đại tá Henri Rivière ra Bắc. Rivière đánh
chiếm Hà Nội ngày 28 tháng 4 năm 1882, quan
thủ thành là Hoàng Diệu phải tự tử.
Tự Đức thấy nguy bèn cầu cứu nhà
Thanh bên Tàu. Lợi dụng cơ hội này Thanh
triều đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn
Tây đợi dịp tranh quyền lợi với Pháp
ở Việt Nam. Pháp cũng tăng cường thêm
quân ra Bắc. Khi Rivière đem quân chiếm Nam Định,
quân triều đình cùng quân Cờ Đen tấn công
Hà Nộị Rivière vội trở lại giải vây
thì bị quân Cờ Đen phục kých, giết
chết ở Ô Cầu Giấỵ Pháp thấy nguy
phải cử cấp tướng ra chỉ huy và tăng
thêm quân, rồi sai Harmand làm toàn quyền kýnh lý
việc Bắc kỳ.
Dân chúng Bắc kỳ nổi lên kháng Pháp khắp nơi
và quân Việt phản công ở Hà Nội, Nam Định
nhưng đều bị thất bạị Trong tình
trạng cam go đó, triều đình Huế sinh
nhiều việc rối loạn. Tự Đức
mất (1883), Dục Đức lên ngôi được
ba ngày thì lại bị hai tên quyền thần
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết
truất ngôi, lập Hiệp Hoà. Khi đó quân Pháp
đánh Thuận An, uy hiếp Huế. Triều đình
phải cử Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng
Hợp cùng với Harmand, De Champeaux ký hoà ước
ngày 23 7 1883. Hoà ước có 27 khoản. Theo đó
triều đình Huế chịu nhận Pháp bảo hô..
Pháp được đặt công sứ, chỉ huy
các tỉnh, vua Việt chỉ có quyền cai trị
từ tỉnh Thanh Hoá tới đèo Ngang.
Hoà ước ký xong nhưng không thi hành được
vì Bắc kỳ vẫn trong tình trạng chiến
tranh, quân Tàu và quân triều đình vẫn tiếp
tục đánh. Pháp phải gọi thêm quân tiếp
viện từ chính quốc sang rồi tiến
chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hưng Hoá,
Tuyên Quang. Quân Tàu thua, phải rút lên vùng biên
giới Hoa Việt, quân Nam phải lui về Huế.
Ỏ Huế, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn
Tường vẫn tiếp tục gây rối,
phế vua Hiệp Hoà lập vua Kiến Phúc.
Triều đình Huế yêu cầu Pháp ký hoà ước
khác để quyền hành của vua Việt
được nới rộng hơn. Nguyễn Văn
Tường cùng Patenôtre ký hoà ước ngày 6 6
1884, gồm 19 khoản. Hoà ước này cũng như
hoà ước 1883, nhưng giới hạn cai trị
của triều đình Huế được
nới rộng thêm từ Thanh Hoá tới Bình
Thuận.
Tại vùng biên giới Hoa Việt, quân Tàu vẫn
chiếm đóng, quân Pháp tiến đánh nhưng
bị thất trận ở Bắc Lệ và Lạng
Sơn. Nước Pháp bèn đem hải quân đánh
Phúc Châu và Đài Loan của Tàụ Trung Hoa phải
ký hoà ước Thiên Tân năm 1885, nhận
quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam và
rút quân về Tàu.
Xem vậy, việc bang giao giữa nước này
với nước khác đều vì lợi, nhưng
nước mạnh bao giờ cũng trưng việc
nghĩa để che đậy ý gian, rồi kết
quả mọi điều lợi đều về nước
mạnh, chứ chẳng vì nghĩa chi cả. Thế
mà triều đình Huế, cũng như nhiều người
cứ u u, mê mê đi cầu cạnh người, không
biết lo làm cho dân giầu, nước mạnh,
thật là phường ích ký?, vị lợi chỉ
biết chăm lo bản thân mà coi thường
quốc gia dân tộc.
Sau nhiều năm chiến tranh và qua 4 bản hoà
ước 1862, 1874, 1883 và 1884 nước Pháp đã
hoàn tất việc xâm lăng thực dân ở
Việt Nam. Nam kỳ trở thành thuộc địa,
Bắc kỳ là đất bị bảo hộ và
Trung kỳ là nơi Pháp lập chế độ trú
sứ, nhưng trên thực tế cả ba miền
đều là thuộc địa của Pháp, nhà
Nguyễn ở Huế không có quyền hành gì
cả.
Hoà ước 1884 xác định quyền đô
hộ của Pháp ở Việt Nam đã thi hành
tới ngày 9 tháng 3 năm 1945.
B. Thời kỳ Pháp Đô Hộ
(1884 - 1945)
1. Chính sách thực dân
2. Công cuộc kháng pháp của dân Việt Nam
1. Chính sách thực dân
Theo hoà ước 1884, chế độ cai trị
của Pháp được phân biệt tùy miền.
Nam kỳ thuộc địa, Bắc kỳ bảo
hộ, Trung kỳ trú sứ. Nhưng trên thực
tế cả ba miền đều bị chung dưới
ách đô hộ như nhaụ Mọi quyền hành
đều nằm trong tay người Pháp. Sau khi
chiếm Việt Nam và Ai Lao, Cao Mên, Pháp thiếp
lập chế độ thuộc địa chặt
chẽ. Lúc đầu mỗi xứ (Bắc kỳ,
Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Mên) có một viên
thủ hiến lo việc cai tri.. Đến năm
1887 Pháp thiết lập phủ Toàn quyền để
thống nhất việc cai trị toàn vùng (Đông
Dương). Tại mỗi xứ, cắt đặt
như sau: Thống Đốc Nam kỳ, Khâm Sứ
Trung kỳ, Khâm Sứ Cao Mên, Thống Sứ Bắc
kỳ, Thống Sứ Ai Laọ Các viên chức này
đều phải theo lệnh của viên Toàn
Quyền.
Dân chúng Việt Nam bị đầy đoạ
khốn cực, bị bóc lột tận cùng,
phải chịu khổ nhục để phục
vụ lớp quan đô hộ, phải chịu sưu
cao thuế nặng để bọn này hưởng
thụ và chi dùng vào việc chém giết dân
Việt. Hơn thế nữa, thực dân Pháp dùng
mọi cách để phá huỷ cơ cấu văn
hoá Việt.
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân
tộc Việt Nam
Ngay khi ba tỉnh miền đông Nam kỳ bị
thất thủ, nghĩa quân miền Nam nổi lên
đánh Pháp, nhưng thế lực còn yếu nên
đều bị thất bạị Tuy vậy, trong
suốt thời gian bị đô hộ, dân Việt
trên toàn quốc liên tiếp khởi nghĩa đuổi
Pháp, qua các phong trào Cần Vương, Văn Thân,
Đông Du, Duy Tân và các đảng phái quốc gia.
* Miền Nam
- Trương Công Định (Trương Định)
1860 - 1864
Trương Công Định chiêu mộ nghĩa quân,
lập căn cứ ở Gò Công, đánh theo lối
du kých, gây nhiều thiệt hại cho quân đi.ch.
Trận lớn nhất là trận Cần Giuộc.
Về sau bị tên Huỳnh Công Tấn phản
bội, chỉ điểm cho Pháp vây đánh ông
ở Kiến Phước (Gò Công). Trận này ông
bị đạn rồi tự tử, năm 1864.
- Nguyễn Trung Trực 1860 - 1868
Nguyễn Trung Trực kháng chiến ở Tân An,
Rạch Giá, chiến thắng lớn trong trận
đốt tầu Pháp ở vàm Nhật Tảo (Tân
An) và trận đánh thành Kiên Giang (Rạch Giá), sau
lập chiến khu ở đảo Phú Quốc. Tên
Việt gian Huỳnh Công Tấn bày mưu bắt
mẹ ông, ông phải bỏ khí giới để
cứu me.. Ông bị Pháp chém ở Kiên Giang
(27-10-1868)
- Phan Tòng 1869 - 1870. Khởi nghĩa ở Hóc Môn, Gò
Vấp, Ba Tri.
- Tri Huyện Thoại (Đỗ Trinh Thoại) 1861.
Hoạt động ở vùng Mỹ Tho, Cao Lãnh, Cai
Lậỵ
- Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) 1860 - 1886.
Lập chiến khu ở Đồng Tháp Mườị
Cuối năm 1886, ông bị mắc bệnh chết.
- Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân) 1862 - 1875. Kháng
chiến ở Mỹ Tho và Tân An.
- Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng 1874 -
1875. Khởi nghĩa ở Trà Vinh.
- Lê Tấn Kế, Trần Bình 1874 - 1875. Khởi nghĩa
ở Ba Đô.ng.
- Phan Tôn, Phan Liêm (con Phan Thanh Giản). Khởi nghĩa
ở Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh và Bến Trẹ
- Quản Hớn, Nguyễn Văn Bường 1885.
Khởi nghĩa ở 18 Thôn Vườn Trầu, Bà
Điểm, Hóc Môn thuộc Gia Đi.nh.
- Phan Văn Đạt, Lê Cao Dõng khởi nghĩa
ở miền Nam, bị Pháp bắt và bị
giết.
* Miền Trung
- Vua Hàm Nghi lãnh Đạo Phong Trào Cần Vương
Vua Kiến Phúc mất, hai phụ chánh Nguyễn Văn
Tường, Tôn Thất Thuyết lập vua Hàm Nghi
(1884). Chính phủ Pháp đòi tham dự vào việc
phế lập và đòi triều đình Huế
phải để Pháp phong vương cho vua Hàm
Nghị Khi đó khắp nơi đều có nghĩa
quân nổi lên và triều đình thì dùng dằng chưa
quyết định thi hành hoà ước 1884. Tướng
Pháp De Courcy bèn đem quân vào Huế bắt triều
đình phải chịu nhận bảo hộ
ngaỵ Triều đình chống lạị Đêm
mồng 3 rạng ngày mồng 4 tháng 7 năm 1885 quân
Nam tấn công dinh Khâm Sứ và đồn quân Pháp
ở Mang Cá. Ngày hôm sau quân Nam thất thủ,
phải bỏ kýnh thành. Tôn Thất Thuyết đem
vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, tiếp tục đánh
Pháp. Nguyễn Văn Tường về Huế đầu
hàng rồi lập Đồng Khánh lên làm vua.
Vua Hàm Nghi ở Quảng Trị phát hịch kêu
gọi dân chúng nổi lên chống Pháp rồi lui
về Tân Sở và tính ra Bắc nhưng không thành.
Sĩ phu trong nước hưởng ứng rất
đông, nổi lên ở nhiều nơị Đồng
Khánh ở Huế nhiều lần sai người
đi mời vua Hàm Nghi và chiêu dụ các cựu
thần, nhưng không ai chịu về hàng Pháp.
Về sau Pháp mua chuộc được tên hầu
cận vua Hàm Nghi là Trương Quang Ngọc, tên này
bắt vua nộp cho Pháp (1888), nhà vua bị Pháp đầy
sang Algérie, thuộc địa Pháp ở Châu Phi.
- Phan Đình Phùng
Hưởng ứng hịch Cần Vương, Phan
Đình Phùng được vua Hàm Nghi trao quyền
chỉ huy nghĩa binh (1886). Sau khi vua bị bắt, ông
tiếp tục kháng chiến và chỉ huy Phong Trào Văn
Thân, lập chiến khu ở Ngà
- Hoàng Hoa Thám
Khi kháng chiến chống Pháp, Hoàng Hoa Thám được
triều đình phong làm Đề Đốc nên thường
gọi là Đề Thám. Năm 1886, ông lập
chiến khu ở Yên Thế, Bắc Giang. Kháng
chiến ròng rã 25 năm gây tổn thất nặng
nề cho quân Pháp. Dân chúng rất ngưỡng
mộ, gọi ông là hùm thiêng Yên Thế. Nhiều
lần thế lực suy yếu, ông phải trá hàng,
vào những năm 1894 và 1897, để chỉnh
đốn hàng ngũ rồi lại tiếp tục
đánh Pháp. Năm 1908, ông mưu đánh úp Hà
Nội nhưng bị thất bạị Về sau quân
Pháp mua chuộc thủ hạ của ông là tên Lương
Tam kỳ, lập kế ám sát ông (1913).
- Vua Thành Thái và Vua Duy Tân chống Pháp
Vua Đồng Khánh chết non (1888, lúc 25 tuổi), Pháp
lập vua Thành Thái con vua Dục Đức, lúc đó
mới 10 tuổị Lớn lên, nhà vua hiểu rõ tình
trạng đất nước nên phản đối
Pháp và tìm cách liên lạc với các nhà cách
mạng Việt Nam ở hải ngoại như
kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Vì
thế vua Thành Thái bị Pháp bắt thoái vị và
bị đầy sang đảo Réunion (Phi Châu) (1907).
Pháp lập Hoàng Tử Vĩnh San, mới 8 tuổi lên
ngôi lấy hiệu là Duy Tân. Năm 1912, vua Duy Tân yêu
cầu nước Pháp thi hành đúng tinh thần
bản hoà ước 1884, nhưng không có kết
quả.
Năm 1916, nhà vua lãnh đạo đảng Tân
Việt, cùng với các nhà ái quốc Trần Cao Vân
và Thái Phiên để mưu việc khởi nghĩạ
Kế hoạch bị bại lô.. Pháp đầy vua
Duy Tân sang đảo Réunion. Các người tham
dự vào kế hoạch khởi nghĩa đều
bị Pháp giết hoặc bị đầỵ
Sau đó, thực dân Pháp lập con vua Đồng Khánh
(vị vua dễ sai bảo) lên ngôi năm 1916,
lấy hiệu là Khải Đi.nh. Năm 1925,
Khải Định mất, con là Vĩnh Thuỵ,
đang học tại Pháp, được gọi
về lên ngôi, lấy hiệu là Bảo Đạị
Ông này không thiết tha tới việc nước, nên
đã ký thêm Hiệp định ngày 25 11 1925 trao
mọi quyền hành cho viên Khâm sứ Huế và cho Tôn
Thất Hân làm phụ chánh để lo việc cúng
tế, rồi lại qua Pháp. Năm 1932, Bảo Đại
về Việt Nam, nhưng chỉ lo ăn chơi, không
có quyền hành gì cả. Mọi việc trong nước
đều do viên Toàn Quyền Pháp nắm giữ.
* Phong Trào Đông Du
Sau khi Phong trào Cần Vương tan rã, nhà ái
quốc Phan Bội Châu, người Nghệ An, đứng
ra kết nạp các nghĩa sĩ Cần Vương
còn sót lại (1902). Ông đi khắp trong nước
tìm đồng chí để thực hiện chương
trình giải phóng quốc dân. Ông thành lập
hội Duy Tân và tôn kỳ Ngoại Hầu Cường
Để, cháu đích tôn vua Gia Long, làm Hội
Chủ. Để khích động đám sĩ phu
trong nước, Phan Bội Châu viết "Lưu
Cầu Huyết Lệ", rất được
truyền tụng, có công dụng làm sống lại
lòng yêu nước của dân chúng. Các đồng
chí quan trọng đã cùng Phan Bội Châu bôn ba
khắp trong nước cũng như ngoại
quốc là Trịnh Hiền, Lê Võ, Đặng Thái Thân,
Thái Nam Xương, Trịnh Công Kiều, Chu Thư
Đồng, Tôn Thất Toại, Đặng Nguyên
Cẩm, Ngô Đức Kế, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền,
Lương Ngọc Can v.v...
Năm 1904, Nga Nhật chiến tranh kết
liễụ Sự thắng lợi vẻ vang của
Nhật gây xúc động mạnh mẽ trong
tầng lớp sĩ phu và các nhà ái quốc Việt
Nam. Nhờ đó, khuynh hướng Đông Du (sang
Nhật) cầu học được nhiều người
hưởng ứng.
Năm 1095, Phan Bội Châu cùng Tăng Bạt Hổ và
Đặng Tử Kính khởi hành đi Hồng Kông,
Thượng Hải rồi sang Nhật. Tại
Nhật cụ Phan tiếp xúc với học giả
Trung Hoa Lương Khải Siêu, đang tị nạn
tại Tokyọ Lương Khải Siêu giới
thiệu cụ với các chính khách Nhật như
Khuyển Dưỡng Nghị, Bá tước Đại
Ôi (đã hai lần làm Thủ tướng). Cụ
Phan ngỏ ý cầu viện nhưng bị từ
chối.
Cường Để sang Nhật năm 1906. Chương
trình du học Nhật Bản được
Nguyễn Hải Thần tích cực giúp đỡ.
Về sau han Bội Châu và Phan Chu Trinh bất đồng
ý kýến về kế hoạch cứu quốc. Phan
Bội Châu chủ trương bài Pháp, dành độc
lập. Phan Chu Trinh chủ trương bài quân
chủ, dựa vào Pháp để cầu học Thái
Tây, ông bỏ về nước cổ xuý cho lập
trường của mình.
Năm 1910, Pháp điều đình với Nhật
trục xuất các nhà cách mạng và du học sinh
Việt Nam. Phan Bội Châu phải chạy sang Trung
Hoa, rồi bôn ba nhiều nơi: Xiêm La, Nam Dương.
Khi được tin cách mạng Trung Hoa thành công
(1911) cụ lại sang Tàu hoạt đô.ng. Năm
1912, cụ giải tán Duy Tân Hội để
lập Việt Nam Quang Phục Hội, chủ trương
Dân Chủ Cộng hoà. Hội giúp đỡ du
học sinh và hô hào cách ma.ng. Năm 1913, Pháp (Toàn
Quyền Sarraut) mưu với Đô đốc
Quảng Đông là Long Tế Quang bắt giam Phan
Bội Châụ Cùng năm đó, ở trong nước
Hội Đồng Đề Hình Pháp xử 14 án
tử hình, trong đó Phan Bội Châu và Cường
Để bị tử hình vắng mặt. Năm
1917, Long Tế Quang bị quân cách mạng Trung Hoa
đánh thua, cụ Phan được thả ra.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) âm mưu
bắt cóc Phan Bội Châu ở Thượng Hải
(Trung Hoa) giao cho Pháp. Phan Bội Châu bị Pháp
kết án chung thân khổ saị Đồng bào toàn
quốc biểu tình đòi tự do cho cụ, Pháp nhượng
bộ, bắt cụ Phan an trí ở Huế. Phan
Bội Châu mất năm 1940.
Phong Trào Duy Tân
Biến cố Nhật thắng Tàu năm 1894 và
Nhật thắng Nga năm 1904, đã làm các dân
tộc Châu Á thức tỉnh. Ỏ Trung Hoa, Lương
Khải Siêu, Khang Hữu Vi hô hào cải cách Duy Tân.
Ỏ Việt Nam, các chí sĩ hăng hái trong phong trào
Duy Tân, đề cao dân quyền gồm có Phan Chu
Trinh, Đặng Tử Kính, Trần Quý Cáp, Huỳnh
Thúc Kháng, Ngô Đức Kế.
Năm 1906, Phan Chu Trinh sang Nhật, gặp Phan Bội
Châu; Nhưng hai người bất đồng ý kýến.
Phan Chu Trinh trở về hoạt động trong nước.
Năm 1908, nhân vụ biểu tình yêu cầu giảm
nhẹ sưu thuế của dân các tỉnh Quảng
Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, một số nhân sĩ
Trung, Bắc kỳ bị bắt, trong đó có Phan
Chu Trinh. Cụ bị đầy ra đảo Côn Lôn.
Năm 1911, nhờ Hội Nhân Quyền Pháp can
thiệp Phan Chu Trinh được thạ Cụ qua
Pháp, làm nghề chụp ảnh. Năm 1922, Khải
Định sang Pháp, cụ gởi thơ chỉ trích,
năm 1925, cụ về nước. Năm sau, Phan Chu
Trinh mất ở Sài Gòn.
Một tổ chức có ảnh hưởng rất
nhiều cho công cuộc duy tân là trường Đông
Kinh Nghĩa Thục. Trường mở ở Hà
Nội năm 1907, do các ông Nguyễn Quyền, Ngô
Đức Kế, Lương Ngọc Can, Dương
Bá Trạc,& #272;ào Nguyên Phổ, Phan Huy Thịnh,
Hoàng Tăng Bí... đứng ra tổ chức. Trường
dạy miễn phí cho các thanh niên nam nữ cả ba
thứ chữ Việt, Pháp, Hán. Việt văn, khoa
học, công nghệ thường thức được
chú trọng đặc biệt. Trường cũng
thường tổ chức các buổi diễn
thuyết về văn hoá, khoa học ... Trường
soạn sách giáo khoa và các bài hát khích động lòng
yêu nước, phát không cho dân chúng.
Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ hoạt động
được 9 tháng thì bị Pháp bắt đóng
cửa.
* Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (con
cụ Lương Ngọc Can, người sáng
lập Đông Kinh Nghĩa Thục) đã từng
học trường võ bị Chấn Võ ở
Nhật Bản, tham dự vào đoàn quân cách
mạng Trung Hoạ Bị người Anh bắt
ở Hương Cảng rồi giao cho Pháp, bị
giam ở Thái Nguyên. Trong ngục ông tiếp tục
cổ động ái quốc, được
nhiều người nghe theo, trong đó có Trịnh Văn
Cấn là một hạ sĩ quan cấp Đội
(trung sĩ) thuộc đơn vị Khố Xanh
của Pháp ở Thái Nguyên. Lương Ngọc
Quyến và Trịnh Văn Cấn định kế
hoạch khởI nghĩạ Đêm 31 tháng 8 năm
1917, Trịnh Văn Cấn nổi lên lấy danh nghĩa
Quang Phục quân, mang 200 binh lấy thành Thái Nguyên.
Trịnh Văn Cấn được phong làm Quang
Phục quân Đại Đô Đốc. Quân Pháp
phải đem đại binh từ Hà Nội lên
đánh. Quang Phục quân giữ Thái Nguyên được
3 ngày thì phải rút vào rừng. Lương Ngọc
Quyến, vì bị Pháp tra tấn làm liệt chân, không
theo nghĩa quân được nên tự tử.
Trịnh Văn Cấn ẩn nấp trong vùng Tam Đảo,
Yên Thế tiếp tục đánh Pháp được
vài tháng. Đến khi quân bị hao mòn, thế
lực suy tàn, Trịnh Văn Cấn tự tử
ở vùng núi Phú Tho..
* Việc Ném Tạc Đạn
ở Sa Điện, Quảng Châu
Năm 1923, viên toàn quyền Đông Dương là
Martial Merlin trên đường từ Nhật trở
lại Việt Nam, ghé tớI Sa Điện, Quảng
Châu (Trung Quốc) để dự bữa tiệc do
Pháp kiều ở đây khoản đãi tại khách
sạn Victoriạ Đương khi ăn, tên này
bị nhà ái quốc Phạm Hồng Thái ném tạc
đạn, nhưng hắn thoát chết. Bị
thất bại, Phạm Hồng Thái nhẩy xuống
sông tự trầm.
* Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Phan Bội Châu bị bắt năm 1925 và Phan Chu Trinh
chết năm 1926 đã gây ảnh hưởng
mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là tầng
lớp thanh niên trí thức.
Năm 1927, một đảng chính trị cách
mạng đầu tiên ra đời do Nguyễn Thái
Học lãnh đạo. Nguyễn Thái Học đã
từng tranh đấu ôn hoà với Pháp nhưng không
có kết quả, nên ông chủ trương dùng võ
lực. Vì thế, Việt Nam Quốc Dân Đảng
được thành lập, với mục đích giành
độc lập cho đất nước. Năm
1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng định
kế hoạch khởi nghĩa chiếm lại
Bắc kỳ. Nguyễn Thái Học ra lệnh
tổng khởi nghĩa vào ngày 10 2 1930, nhưng
lệnh không tới ký.p các địa phương,
nên cuộc khởi nghĩa không đúng ngày đã
hoạch đi.nh.
Đêm ngày mồng 9 rạng ngày mồng 10 tháng 2 năm
1930, chi bộ Yên Báy khởi công đánh các trại
lýnh Pháp, giết được nhiều đi.ch.
Đến sáng ngày hôm sau, quân Pháp phản công ký.ch
liệt, nghĩa quân bị tan rã.
Đêm mồng 9 tháng 2, Nguyễn Khắc Nhu đánh
Hưng Hoá và Lâm Thao bị Pháp phản công mạnh,
quân cách mạng thua, Nguyễn Khắc Nhu tự
tử.
Đêm mồng 10 tháng 2, Đoàn Trần Nghiệp (Kí
Con) chỉ huy đánh Hà Nộị
Đào Văn Thế chỉ huy mặt trận Thái Bình
chiếm được huyện Phủ Dực.
Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 2, Trần Quang Diệu
chỉ huy mặt trận Hải Dương chiếm
huyện Vĩnh Bảọ
Nguyễn Thái Học chỉ huy đánh đồn
Phả Lại.
Pháp dùng toàn lực không quân và bộ binh phản công,
ném bom tiêu diệt làng Cổ Am nơi có nhiều quân
cách ma.ng. Ỏ khắp nơi, nghĩa quân đều
bị thất bạị Nguyễn Thái Học
bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Hải Dương)
ngày 20 tháng 2. Ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái
Học và 12 nhà cách mạng Việt Nam Quốc Dân
Đảng bị Pháp chém tại Yên Bái.
* Cuộc Khởi Nghĩa Lạng Sơn
Trong đại chiến thứ hai (1939 1945) Pháp đầu
hàng Đức. Nhật cùng phe với Đức,
đánh chiếm Trung Hoa rồi tràn qua biên giới
Việt Hoa ngày 22 8 1940. Nhân cơ hội đó,
Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm
chỉ huy đoàn quân Việt Nam Phục Quốc
Hội nổi lên đánh quân Pháp ở Lạng Sơn
và vùng lân cận.
Nhưng về sau có sự thoả hiệp giữa
Nhật và Pháp, quân phục quốc bị Nhật
bỏ rơi, nên đã bị Pháp đánh thua.
Trần Trung Lập bị bắt, Đoàn Kiểm
Điểm tử trận.
* Các Đảng Phái, Tổ
Chức Chính Trị Khác
Ngoài các tổ chức kháng Pháp kể trên, người
Việt còn thành lập nhiều đảng phái,
tổ chức chính trị khác để tranh đấụ
- 1923, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long lập đảng
Lập Hiến với chủ trương ôn hoà và
bảo thủ.
- 1930, Phạm Quỳnh tranh đấu ôn hoà. Kết
quả, được Pháp mời làm thượng
thự
- 1925, Lê Văn Huân lập đảng Phục
Việt, sau đổi tên là Tân Việt Cách Mạng
Đảng. Hoạt động tích cực chống
Pháp, bị Pháp và Cộng Sản tiêu diệt.
- 1927, Nguyễn An Ninh tổ chức đảng bí
mật ở Hóc môn có khuynh hướng Cộng
Sản, bị Pháp bắt đầy ra Côn Lôn.
- 1932, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch lập
đảng, theo khuynh hướng Đệ Tứ
Quốc Tế (Cộng Sản Đệ Tứ)
hoạt động ở Sài Gòn.
- 1937, Nguyễn Văn Thinh thành lập phong trào Dân
Chủ ở Nam kỳ.
- Lý Đông A thành lập đảng Đại
Việt Duy Dân, có lý thuyết vững chắc nhưng
tầm mức hoạt động hạn hẹp.
- 1940, Nguyễn Tường Tam thành lập Đại
Việt Dân Chính, (sau đổi tên là Đại
Việt Quốc Xã) dựa vào thế lực Nhật
Bản để chống Pháp, nhưng sau bị
Nhật bỏ rơị Pháp thẳng tay đàn áp,
một số đảng viên bị bắt,
Nguyễn Tường Tam trốn sang Tàụ
- 1941, Trương Tử Anh thành lập đảng
Đại Việt Quốc Dân. Bị Pháp đàn áp,
đảng bị suy sụp.
- 1943 1944, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Vũ Đình
Di lập Việt Nam Ái Quốc Đảng.
- Vũ Đình Hoè, Dương Đức Hiền
lập Dân Chủ Đảng.
- 1945, Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn,
Nguyễn Văn Tiếu thành lập Đại
Việt Quốc Gia Lyên Minh (gồm Việt nam
Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xã
và các đảng phái quốc gia khác).
Hầu hết đảng phái quốc gia không có nguyên
lý hành động độc lập. Nhất là sinh
hoạt chính trị chỉ lẩn quẩn ở trong
tầng lớp xa rời quần chúng.
Vào thời Việt Pháp chiến tranh, thói thường
các nhà cách mạng Việt Nam mỗi khi bị truy lùng
thường trốn sang Trung Hoa, nương náu
ở vùng Hoa Nam giáp giới với nước
Việt, như Quảng Châu, Nam Ninh, Vân Nam ... Trong
thời gian Đại Chiến thứ hai, ở vùng
này có người của các đảng: Phục
Quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại
Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Dân,
Đại Việt Duy Dân v.v. cùng các lãnh tụ có uy
tín như: Nguyễn Hải Thần, Trương
Bội Công, Lý Đông A ... Lúc đó chính phủ
Trung Hoa có ý dung túng những nhà cách mạng Việt
Nam vì muốn lợi dụng họ vào việc đối
phó với Pháp về vấn đề quyền
lợi ở Việt Nam. Người cầm quyền
ở Quảng Đông là Trương Phát Khuê và Tiêu
Văn được lệnh tập họp các nhà cách
mạng Việt Nam vào một mặt trận duy
nhất.
Tháng 10 năm 1942 họp đại hội ở
Lyễu Châu (Đông Dương Cộng Sản Đảng
không được mời). Đại diện các
đảng cách mạng đồng ý cùng gia nhập
vào một mặt trận gọi là Việt Nam Cách
Mệnh Đồng Minh Hội, Nguyễn Hải
Thần được cử làm Chủ ti.ch. Nhưng
vì bất đồng ý kýến, không thành lập
nổi Ban Quản Trị Trung Ương.
Tháng 3 năm 1944, đại hội lần thứ hai
được thiết lập ở Liễu Châụ
Lần này đại hội thoả thuận lập
chính phủ Cộng Hoà Việt Nam Lâm Thờị Trương
Bội Công được cử làm Chủ tịch
và các uỷ viên gồm có Nguyễn Hải Thần,
Vũ Hồng Khanh, Tùng Sơn, Nghiêm Kế Tổ,
Bồ Xuân Luật, Hồ Chí Minh. Chủ trương
đánh Phát xít Nhật và Thực dân Pháp để
thâu hồi độc lập cho Việt Nam.
Chính phủ lâm thời còn đang dùng dằng bàn
kế hoạch, chưa quyết định hành động
thì Hồ Chí Minh đã lợi dụng chiêu bài
quốc gia đó tức tốc về Việt Nam
vận động cướp chính quyền Trần
Trọng Kim ngày 25 tháng 8 năm 1945.
XXIV. Nhật tranh quyền đô
hộ với Pháp ở Việt Nam
Năm 1940, Pháp đầu hàng Đức, phải
nhận để Nhật lập căn cứ
chống Mỹ ở Việt Nam.
Năm 1945, phe Trục Đức Nhật Ý yếu
thế, Pháp ngầm chuẩn bị đánh đuổi
Nhật khỏi Việt Nam.
Ngày 9 3 1945 Nhật vội tấn công lật Pháp
để giành quyền cai trị ở Việt Nam.
Ngày 11 3 1945 vua Bảo Đại tuyên bố huỷ
bỏ hoà ước Việt Pháp 1884, cuộc đô
hộ của thực dân Pháp chấm dứt.
Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, nhưng
mọi quyền hành đều do Nhật nắm
giữ. Nhật và Pháp cộng tác trong kế
hoạch tiêu huỷ thực phẩm, gây nạn đói
khủng khiếp ở Việt Nam vào tháng 3 năm
1945. Khoảng 2 triệu người bị chết
đói.
Tháng 8 năm 1945, Mỹ thả bom nguyên tử ở
Nagasaki và Hiroshimạ Nhật đầu hàng ngày 15 -
8 - 1945. Nước Việt Nam bị quốc tế phân
đôi, trao quyền cho Anh quản trị ở
miền Nam và cho Trung Hoa ở miền Bắc.
Từ ngày ấy, nước Việt bị rơi vào
nạn chiến tranh giành giật giữa các thế
lực đế quốc.
Viết xong tại Ottawa, Canada
Ngày 26 tháng 2 năm 1982
Tài Liệu Tham Khảo :
Annam chí lược Lê Tắc
A description of the kýngdom of Tonquin Samuel Baron
Bài tựa "Ngạn Ngữ Phong Dao" Nguyễn
can Mộng
Cơ Cấu Việt Nho Kim Định
Cổ Sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài gòn)
Trần Kính Hòa
Cổ Sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài gòn)
Nghiêm Thẩm
Chữ Thời Kim Định
Cà Mâu xưa và An Xuyên nay Nguyễn văn Lương
Chu dịch Phan bội Châu
Cổ sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài gòn)
Saurin
Cổ kim chú Thôi Báo
Connaissance du Vietnam P.Huard et M.Durand
Đại Việt thông sử Lê quí Đôn
Đại Nam nhất thống chí Quốc Sử Quán
Đại Nam thực lục tiền biên Quốc
Sử Quán
Đại Nam thực lục chánh biên Quốc Sử
Quán
Đại Nam chánh biên liệt truyện Quốc
Sử Quán
Đại Việt sử ký toàn thư Ngô sĩ Lyên
Dương sự thuỷ mạt Quốc sử quán
Điều trần Nguyễn trường Tộ
Dã sử Xuân phong Hồ đắc Ý
Đông kýnh nghĩa thục Đào trinh Nhất
Dân tộc miền nam tây nguyên Jacques Dourmes
Dân tộc học Cardière
Đề cương văn hoá Việt Nam Đảng
cộng sản Việt Nam công bố 1943
Đại cương về văn học sử
Việt Nam Nguyễn khánh Toàn
Decent Interval Frank Snepp
Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum Alexandre de Rhodes
Đối chiếu tiếng Hán Việt và tiếng
Bắc Kinh Phạm văn Hải
Gia Định thành thông chí Trịnh hoài Đức
Góp phần vào sự nghiên cứu một vị
thành hoàng Việt Nam, Lý phục Man Nguyễn văn
Huyên
Hán Việt thành ngữ Bửu Cân
Hà thành thất thủ chí công quá ca
(Hà thành chính khí ca) Nguyễn văn Giai
Hạnh thục ca Nguyễn nhược Thị
Huấn địch Thập Điều
Thánh dụ vua Thánh Tổ (Nguyễn)
Diễn nghĩa vua Dực Tông (Nguyễn)
Hậu Hán thư Phạm Việp
Histoire ancienne des peuples de
l'Orient classique Maspéro, Gaston
Historic documents of 1975 Elizabeth Wehr
Histoire ancienne des etats Hindouises
d'extreme Orient G. Coedes
La Chine antique Maspero, Henry
Lịch sử văn học Việt Nam
Văn học dân gian Chu xuân Diên
Lược khảo về thần thoại Việt
Nam và
Việt Nam cổ văn học sử Nguyễn đổng
Chi
Lĩnh Nam Trích Quái Vũ Quỳnh và Kiều Phú
Lạc Thư Minh Triết Kim Định
Lịch Sử Nhật Bản Thích thiện Ân
Le Peuple Vietnamien Levy, Paul
Lịch sử Việt Nam Khoa học xã hội
Hà NộI xuất bản
Le dossier du Pentagone E.W.Kenworthy and Fox Butterflield
L'empire d'Annam Gosselin
Le Vietnam Philippe Devillers
Les Origines du Tonkýn J. Dupuis
Les philosophies de l'Inde H.Zimmer
Miến Điện Nguyễn bích Lyên
Memoire historique sur le Tonkýn Gaubil
Monde en collision ĐVelikovsky
Memoire sur la Cochinchine Benique Vachet
Nhật Bản tư tưởng sử Ishi Dakzu Yoshi
(Châm vũ Nguyễn văn Tần: dịch)
Nguyễn Trường Tộ et son temps Đào
đăng Vĩ
Nguyễn Triều Long Hưng sự tích Trần văn
Tuân
Nguyễn Trãi toàn tập Uỷ ban khoa học xã
hội Việt Nam,
viện sử học, Hà nội xuất bản
Nguyễn trường Tộ Nguyễn Lân
Nam sử liệt truyện Lê thúc Thông
Nhân chủng
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K Sàigòn) Paris ấn
hành (Vernon)
New light on a forgotten past W.G.Solheim II
No exit from Vietnam Sir Robert Thompson
Notice historique sur la Cochinchine Gaubil
Our Vietnam night mare Marguerite Higgins
Phủ Biên Tạp Lục Lê quý Đôn
Pháp chế sử
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K. Sàigòn) Vũ
quốc Thông
Phan Đình Phùng Đào trinh Nhất
Qua thực tiễn văn nghệ
kháng chiến Nam bộ Lưu quý Kỳ
Reviewing world history AMCO
School publication Inc.
Revolutionary
thought from Marx to Mao Công hòa Nhân dân Trung quốc ấn
hành
Recherches archeologiques en Indochine Đại học Harvard
Relation sur le Tonkýn Baldinotti
Relatione della provincia del Giappone Antonio Francisco Cardim
Sơ Lược Về Ảnh Hưởng Trung Hoa
Trong Tiếng Việt Phạm văn Hải
Sử ta so với sử Tàu Nguyễn văn Tố
Sử ký Tư mã Thiên
Sociologie d'une guerre Paul Mus
South East Asia Guy Hunter
Thư tịch
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K.Sàigòn) Bửu
Cầm
Trước Thời Bắc Thuộc
Người Việt Đã Có Chữ Viết Chưả
Phạm văn Hải
Tư Tưởng Đông Tây Khái Luận Nguyễn
phút Tấn
Tự Điển Chữ Nôm Nguyễn Quang Xỹ và
Vũ Văn Kính
Từ Điển Việt Hán Bắc Kinh xuất
bản
Tỉnh Bến Tre Nguyễn Duy Oanh
Trung kỳ dân biến thì mạt ký Phan Chu Trinh
Tây phù nhật ký Phạm Phú Thứ
Tự phán Phan Bội Châu
Tân An ngày xưa Đào văn Hội
Thanh Hoá quan phong Vương duy Trinh
Tục ngữ phong dao Nguyễn văn Ngọc
The birth of Vietnam Taylor, Keith Weller Berkeley: University of
California press
Tư tưởng và học thuật Lương
Khải Siêu
Trung quốc dân tộc học Vương đồng
Lynh
Trung quốc thông sử Chu cốc Thành
The Influence of T'ang Poetry
on Vietnamese Poetry Written
in Nôm Characters and in the
Quốc Ngữ writing system Phạm văn Hải
Thông Chí Trịnh Tiều
The ancient history of China to the end
of the Chou Dynasty Đại học Columbia Newyork
The two Viet Nams Bernard.B.Fall
The last Confucian Denis Warner
The irony of Vietnam:
the system worked Leslie H.Gelb with Richard K.Betts
Texte et commentaire du miroir
comple de l'histoire du Viet M.Durand
Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim
Việt Nam phong sử Nguyễn văn Mại
Việt Nam phong tục Phan kế Bính
Việt Nam văn học sử
giản lược tân biên Phạm thế Ngũ
Việt Nam Pháp thuộc sử Phan Khoang
Việt Nam văn minh sử Lê văn Siêu
Việt Nam văn học sử (1802 1945) Phạm văn
Hải và
Phạm quân Khanh
Việt kýều ở Kampuchia Lê Hương
Việt Nam văn học toàn thư Hoàng trọng Miên
Việt Nam tổ quốc tuý ngôn Nguyễn hữu
Tiến và
Nguyễn trọng Thuật
Việt Điện u linh tập Lý Tế Xuyên
Việt sử Thông giám cương mục Lý Tế
Xuyên
Việt sử toàn thư Phạm văn Sơn
Việt lý tố nguyên Kim Định
Việt Nam Phật giáo sử T.T.Mật Thể
Việt Nam văn học sử yếu Dương
quảng Hàm
Việt Nam văn hóa sử cương Đào duy Anh
Việt Nam máu lửa Nghiêm kế Tổ
Vân đài loại ngữ Lê quý Đôn
Vietnamese architecture Nguyen quang Nhac
Nguyen nang Dac
Vietnamese tradiction
on trial, 1920 1945 Marr.David.G.
Berkeley: University of California press
Viet Nam Marvin E.Gettleman
Viet Nam witness Bernard B.Fall
Vietnam diary Richard Tregaskýs
Vietnam, history of Encyclopaedia Britannica
William Benton, Publisher 1943 73) (Helen H.Benton, Publisher 1973 74)
Vietnam Encyclopedia of the third world (by: George Thomas Kurian)
Xã hội học Bửu Lịch
|