Những bài cùng tác giả
Truyện Thần Bếp được chép trong sách Việt Nam
Văn Học Toàn Thư, 18-1959[1]
của Hoàng Trọng Miên và
được dẫn lại bởi Vũ Trọng Khánh trong
Kho tàng thần thoại Việt Nam
[2] có thể tóm lược đại ý như sau:
Có hai vợ chồng tiều phu nghèo không con. Vợ thương yêu chồng, nhưng
chồng hay rượu chè, đánh đập vợ. Vợ buồn bỏ đi, gặp túp lều tranh của một
thợ săn, xin tá túc. Sau, hai người làm vợ chồng. Người chồng cũ hối hận, bỏ
đi tìm vợ. Tình cờ lạc bước túp lều tranh ấy, đương lúc người thợ săn đi
vắng, chỉ có người vợ ở nhà. Người chồng cũ van xin vợ tha thứ và quay trở
lại, người vợ cũng động lòng tỏ ý còn thương. Lúc đó người chồng sau về tới.
Người vợ bảo chồng cũ ra trốn trong đống rơm. Người thợ săn mang về con thỏ,
đem ra đống rơm thui, làm gã chồng cũ chết cháy. Người vợ đau lòng nhảy vào
chết theo. Anh thợ săn tưởng mình làm điều bất nghĩa, hối hận lao vào nốt.
Trời cảm động trước tình yêu tay ba này, bèn cho cả ba hóa thành vua bếp,
dụm đầu thành bộ ba trong bếp lửa.
Một khảo dị khác của truyện Thần Bếp đáng chú ý bởi sự thêm tên tuổi các
nhân vật được dẫn bởi Vũ Trọng Khánh trong sách đã dẫn (trích lược):
Ngày xưa có hai vợ chồng là Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau đã lâu mà không
có con. Thị Nhi rất yêu chồng. Nhưng chán về nỗi tính tình của chồng ngày
một bạo ngược, hay gây chuyện đánh vợ, nàng nhân một hôm nọ chồng vác cây
đánh mình, bèn bỏ đi biệt.
Đến một xứ khác, Thị Nhi lấy một người chồng khác tên là Phạm Lang.
Trọng Cao từ khi bỏ vợ ra đi, đâm ra buồn bực và hối hận bèn bỏ nhà đi tìm
vợ. Chàng cứ lần mò đi mãi đến đâu ăn xin đó. Một hôm tình cờ đến gọi cửa
nhà Phạm Lang. Thị Nhi nhận ra chồng cũ và đãi cơm rượu. Trọng Cao ăn uống
mặc sức. Ăn xong, say quá nằm lăn ra ngủ, Thị Nhi không muốn cho chồng mới
biết chuyện, bèn vực Trọng Cao giấu vào đống rơm.
Chiều hôm ấy, Phạm Lang trở về. Trước khi đi ngủ, chàng đốt đống rạ góc vườn
để ngày mai bón ruộng, Đến chừng Thị Nhi biết thì Trọng Cao đã chết cháy.
Thương chồng hóa ra giết chồng, nàng đau đớn quá, bèn nhảy vào đống lửa đang
bốc ngùn ngụt. Phạm Lang thương vợ cũng gieo mình chết luôn bên cạnh Thị
Nhi.
Ngọc Hoàng cảm vì tình yêu của ba người bèn cho làm Thần Bếp.
Nhất Thanh
trong Đất lề quê thói[3]
lại chép khác thứ tự quyên sinh:
Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo đến nỗi phải bỏ nhau. Sau, người vợ lấy
được người chồng khác giàu có. Một hôm cúng, đang đốt vàng mã ngoài sân, vô
tình người chồng trước vào xin ăn, vợ nhận ra, động lòng thương cảm, đem cơm
gạo tiền bạc ra cho. Người chồng sau biết chuyện, người vợ bèn lao đầu vào
đống lửa vàng mã cháy chết thiêu. Người chồng cũ cảm kích nhảy vào lửa chết
theo. Chồng sau vì thương, nên cũng nhảy vào nốt. Cả ba đều chết cháy. Ngọc
Hoàng thấy ba người có nghĩa, phong làm vua bếp.
Để hiểu rõ hơn câu chuyện Thần Bếp, tưởng cũng cần biết đến câu chuyện Thần
Lửa
[4],
[5].
Trong Kho tàng thần thoại Việt Nam có chép lại:
Thần Lửa là một bà già mặt mũi rất hung dữ. Người ta thường gọi là bà
Hoả. Thần chuyên giữ một thứ lửa rất mầu nhiệm có thể đặt nồi không mà nấu
ra đủ những thức ăn ngon lành. Những thứ lửa ấy không phải là để cho hạ giới
dùng.
.................
Thần Lửa có nhiều lúc hung dữ cho bộ hạ đi tàn phá khắp nơi.
Trong số bộ hạ thần Lửa có thằng Bợ hung ác quen thói. Nó ở với thần Lửa lâu
năm, một hôm ăn cắp lửa của thần rồi trốn đi. Nó là kẻ thù của loài người.
Hình như về sau nó bị thần bắt được và đày xuống địa ngục.
Đầu tiên, có lẽ chúng ta nên đề cập đến khảo dị được dẫn ra bởi Nhất Thanh
trong Đất lề quê thói (dẫn lại từ quyển Việt Nam phong tục của
Phan Kế Bính). Câu chuyện có nhiều điểm vô lý được Lê Anh Minh trong
Táo quân Việt Nam và táo quân
Trung Quốc
nhận xét: “giấy đốt vàng mã không thể nào đủ để tự thiêu chết, thứ hai:
người chồng trước và sau lần lượt nhảy vào đống lửa để được chết chung với
nàng, như vậy đống vàng mã đó phải lớn lắm ắt cỡ một giàn hỏa mới phải!”. Và
cũng như ông Lê Anh Minh nhận xét, chúng ta dễ dàng bỏ qua sự phi lý này.
Thế nhưng, chúng ta khó có thể bỏ qua sự phi lý trong tính phi nhân văn của
câu chuyện. Câu chuyện Thần Bếp kể lên một mối tình tay ba chung thủy và đầy
tính nhân văn. Điểm tưởng chừng vô lý ở đây là “tay ba” nhưng lại “chung
thủy”. Tình tiết câu chuyện trong hai khảo dị do Vũ Trọng Khánh dẫn ra đã
chứng minh được điều đó. Ba người đó yêu thương nhau nhưng lại phạm phải đạo
lý lúc bấy giờ: “Trai năm thê bảy thiếp. Gái chính chuyên một chồng.”. Và
chính sau này, người ta làm thơ giễu (giễu yêu thì đúng hơn):
Thế gian một vợ, một chồng.
Không như vua Bếp hai ông, một bà.
Để giải quyết mối tình tay ba chung thủy này (tuy tay ba nhưng lại chung
thủy) không gì hơn đặt một tình huống “chết”. Nhưng phải là cái chết mà cả
ba người đều không hối hận. Một cái chết mà cả ba người đều nghĩ tốt về
nhau, ba người trước khi chết đều biết rằng khác phái đã yêu thương mình
(người đàn bà biết hai ông kia yêu mình là điều không cần bàn tới. Còn tình
tiết được dẫn như thế nào để hai ông đều nghĩ bà kia vẫn yêu mình mới quan
trọng). Cả hai khảo dị trong sách Vũ Ngọc Khánh đã làm được điều đó. Họ chết
đi một cách đau đớn, thương xót và chung tình. Còn khảo dị trong sách Nhất
Thanh (hay Phan Kế Bình) hoàn toàn không có điều đó xảy ra. Họ chết đi trong
khi người chồng mới nghi kỵ người đàn bà và người chồng cũ mang một nỗi buồn
là biết vợ mình đã có chồng mới. Người phụ nữ chết đi không phải từ lòng
chung tình mà bị ép phải chứng minh cho sự chung tình (với chồng mới). Hai
khái niệm: “tự nguyện chết vì chung tình” và “chết vì ép phải chứng minh
lòng chung thủy” hoàn toàn khác nhau. Chính như thế mà câu chuyện với thứ tự
chết người chồng cũ-người vợ-người chồng mới đã hợp lý với nội dung
mang tính nhân văn hơn là thứ tự người vợ-người chồng cũ-người chồng mới.
Do đó, chúng tôi cho rằng các khảo dị có thứ tự đầu đúng tinh thần nội dung
“Thần Bếp” nhất.
Câu chuyện Thần Bếp này làm chúng ta liên tưởng đến một câu chuyện khác,
trong đó cũng có một sự sắp xếp đến lạnh lùng vô cảm của thứ tự chết: truyện
Trầu Cau[6]. Thật
kỳ lạ là cả hai câu chuyện đều có khảo dị kể rõ danh tính của các nhân vật
có nghĩa gần như tương đồng nhau. Nếu chúng ta cố tình gạt bỏ những trùng
hợp này mà cho chúng chỉ là sự chọn lựa ngẫu nhiên[7] thì chúng ta khó có
thể bỏ qua được sự trùng hợp về tính nhân văn của hai truyện, sự trùng hợp
về số lượng nhân vật: một nữ hai nam, đặc biệt sự trùng hợp về logic giải
quyết vấn đề của cả hai truyện. Tuy bản chất hai câu chuyện mang đầy tính
nhân văn, nói lên tình yêu, tình bạn, tình anh em cao cả, chung thủy nhưng
có vẻ lý do lấy cái chết để nói lên tấm lòng ở đây có gì đó quá đáng. Cái
chết cứ lần lượt theo một trật tự nhất định làm chúng ta liên tưởng đến một
sự tính toán chu đáo đến lạnh lùng, tàn nhẫn. Liệu động cơ nào thúc đẩy để
người Việt cổ dùng cách đó? Người xưa muốn nhấn mạnh một yếu tố nào đó trong
cả hai chuyện và yếu tố đó phải nằm ngay trong tình tiết “chết” của ba
người. Và yếu tố cần nhấn mạnh trong từng truyện phải thuộc một hệ thống tư
tưởng nào đó có ảnh hưởng rất lớn (thậm chí là cao cả) đến người xưa để cho
người ta chọn cách giải quyết vấn đề lạnh lùng đến vô cảm như vậy.
Có nhiều lý giải câu chuyện Thần Bếp, đặc biệt Nguyễn Xuân Quang trong bài
Truyền thuyết Hai ông 1 bà - Táo quân ![[8]
và Nguyễn Việt Nho trong
Huyền thoại Táo quân[9]
có giải thích qua Kinh Dịch. Nguyễn Việt Nho
thì cho số 3 trong Thần Bếp là quái Tốn, còn Nguyễn Xuân Quang lại chú ý đến
thứ tự chết của các nhân vật và lý giải Thần Bếp đó tượng trưng cho quái Ly.
Lý giải “Quái Tốn” của ông Nguyễn Việt Nho thật quá sơ sài, dễ dãi. Nó không
đề cập đến những chi tiết nhấn mạnh trong truyện là thứ tự chết cũng như
không đề cập đến nội dung chủ đạo của Thần Bếp là “sự kết thúc một năm”. Lý
giải “Quái Ly” của Nguyễn Xuân Quang hoàn toàn có lý, tuy nhiên Ly-Mặt trời
trong Thần Bếp không chỉ dùng để tượng trưng cho Lửa, Hỏa. Nếu truyện chỉ để
dùng chỉ Lửa Hỏa-Ly thì đâu cần đến Thần Bếp với tình tiết lắt léo đến vậy.
Trong kho tàng thần thoại của người Việt cũng đã có truyện Thần Lửa rồi.
Chúng tôi cho rằng cần phải bám sát vào trọng tâm câu truyện qua từng điểm
nhấn của nó. Và
theo tôi dù lý giải gì đi chăng nữa cần phải truy tầm một nguyên do thống
nhất để chứng minh vì sao người ta lại dùng nhiều từ để gọi đúng một vật: Thần
Bếp, Bếp núc, ba ông đầu rau, ông núi bếp, ông Táo[10].
Trước tiên, chúng ta hãy quay lại với cách nhận thức về vấn đề này của người
Trung Hoa qua câu chuyện Táo Quân của họ. Có thể nói bài viết
Táo quân Việt Nam và táo quân
Trung Quốc của
Lê Anh Minh đã ghi chép lại hầu hết các câu chuyện về Táo. Trong đó có đoạn đáng
chú ý:
Theo Werner, có
ít nhất là 40 truyền thuyết về nguồn gốc của Táo Quân. Truyền thuyết phổ biến
nhất như sau: Có người tên là Trương Táo Vương lấy vợ tên Quách Đinh Hương, một
người đức hạnh và giỏi giang. Một thời gian sau, Trương chán chê vợ, bèn dan díu
với một ả kỹ nữ tên là Lý Hải Đường. Lý xúi giục Trương bỏ vợ theo ả. Đinh Hương
ra đi với hai bàn tay không, rồi trở về nhà bố mẹ ruột. Trương và Lý chung sống
với nhau, gia đình dần dần suy sụp, Lý quay trở lại nghề bán phấn buôn hương,
Trương nghèo đói, mù lòa, bèn đi ăn xin. Tình cờ, Trương lạc bước đến nhà vợ.
Đinh Hương nhận ra chồng ngày xưa, đau lòng thấy chồng mù mắt, xin ăn, bèn dọn
cho chồng cũ món mì sợi mà ngày xưa chàng rất thích. Trương ăn, bỗng sững sờ,
sao món ăn nầy giống món ăn ngày xưa vợ anh từng nấu. Bèn khóc. Đinh Hương gọi:
«Trương Lang! Trương Lang! Mở mắt ra!» Trương mở mắt ra, mắt sáng trở lại, nhìn
thấy vợ cũ, lòng hổ thẹn bèn chạy trốn, nào ngờ chạy tọt vào bếp lò cháy chết.
Đinh Hương cố sức kéo chân chồng ra, ai ngờ chân lìa ra. Kể từ đó người đời gọi
dụng cụ để cào than trong bếp là «Trương Lang Túc» (chân Trương Lang.) Đinh
Hương thương xót chồng và thờ tại bếp lò nơi chồng mất mạng. Tục thờ Táo Quân có
lẽ từ đó.
[11]
Đọc câu
chuyện này chúng ta sẽ đồng tình hoàn toàn với nhận xét của Lê Anh Minh trong
bài đã dẫn: Nếu gốc gác Táo
Quân đúng như truyền thuyết trên, thiết tưởng nhân vật Trương Táo Vương không
đáng cho người đời thờ cúng.
Các câu
chuyện về Táo của người Trung Hoa được dẫn đây đó (wikipedia)
đều khó cho chúng ta biết manh mối chữ Táo. Câu chuyện trên là manh mối duy nhất vô tình cho chúng ta thấy người Trung Hoa xưa gọi thần Bếp là Táo là do cái chết cháy của người mang tên Táo: Trương Táo Vương (Chữ Vương sau có thể nói chỉ là bổ nghĩa cho Táo để hợp với chức năng ông ta: vua Táo.). Nhưng điều đó cũng không phải là câu trả lời thỏa đáng về danh tính “Táo” của Bếp. Trong khi đó, các từ dính dáng đến từ Táo của Việt Nam lại có tính thống nhất cao. Và muốn biết vì sao có sự thống nhất chúng ta phải quay về với Kinh Dịch Nòng Nọc.
Sự khác nhau của Táo quân Việt Nam và Trung Quốc không chỉ được nhắc đến trên nội dung câu chuyện truyền thuyết mà còn ghi ấn trong hội họa
[12]:
Thứ tự chết trong chuyện Thần Bếp (cũng như trong Trầu Cau) quá đỗi lạnh lùng. Sự lạnh lùng đến vô cảm và trái ngược với tinh thần nhân văn của các câu chuyện này chỉ có thể giải thích người xưa khi đặt câu truyện đã có một dụng ý rõ ràng. Họ sáng tác ra chuyện (mà không phải là một, có đến hai chuyện có cùng motip như vậy!) theo một khuôn mẫu, theo một định hình nhất định. Khuôn mẫu, định hình đó là cái gì? Muốn hiểu được điều đó chúng ta đầu tiên xét về khía cạnh Dịch lý, sau đó quay về với các mối liên hệ ngôn ngữ. Mà phải là ngôn ngữ Việt và kinh Dịch Nòng Nọc Việt.
Thực ra để giải thích bản chất Thần Bếp qua Dịch lý thì Hậu Thiên Bát quái nào cũng được. Vì các Bát quái Hậu Thiên (Văn Lang, Lạc Việt và Văn Vương) đều có vị trí tương đối của ba quái Càn-Cấn-Ly như nhau. Tuy nhiên, phải là Kinh Dịch Nòng Nọc
[13]
mới sáng tỏ tinh thần tuy bát quái nhưng trọng tâm là 6 trùng quái bất dịch.
Từ đó bộ ba Càn-Cấn-Ly mới có ý nghĩa tượng trưng cho phần Dương có giao
thoa với phần Âm tại quái Ly. Do đó, nó góp phần giải nghĩa vì sao người ta
gọi Bếp là ba ông đầu rau. Ngoài ra, phải nói đến Dịch Nòng Nọc vì chỉ qua
tượng Nòng Nọc ta mới thấy tính thống nhất của ba quái trên cũng như của bộ
ba quái còn lại. Ba quái Càn Cấn Ly đều có đầu nhọn hướng lên mang tính
lồi-cho ra, còn ba quái Khảm Đoài Khôn lại có tượng bát chứa hay vòng tròn
mang tính thu nhận vào (khảm nếu nối bốn vòng tròn của hai hào Nòng lại cũng
cho ra vòng tròn chứa một Nọc ở trong). Như vậy, một lần nữa thông qua tượng
Nòng Nọc mới đủ khả năng giải thích vì sao người ta gọi Bếp là ba ông đầu
rau. Điều này cũng giải thích vì sao người xưa lại làm bếp hay kiềng có dạng
này:
Cũng qua
lăng kính Dịch lý, mà chỉ trong câu chuyện Thần Bếp Việt Nam mới có cái thứ tự
chết Nam-Nữ-Nam; và chúng ta ai cũng dễ đồng ý với quan điểm của Nguyễn Xuân
Quang trong bài
Truyền thuyết Hai ông 1 bà -
Táo quân ![14]
: tượng trưng cho quái Ly. Thế nhưng như chúng tôi đã nói: Bếp là
ba ông đầu rau đề cập đến cả ba quái Càn, Cấn và Ly; vì sao thứ tự chết chỉ
nhấn mạnh mỗi quái Ly? Thứ nhất, tuy nhấn mạnh một quái nhưng dùng ba người
để làm việc đó cũng chứng tỏ có sự hiện diện của “ba” ngay trong câu chuyện.
Thứ hai, quái Ly được nhấn mạnh không những với nghĩa Lửa-hiện thân của Bếp
mà còn, quan trọng hơn, để diễn tả đúng tinh thần câu chuyện Thần Bếp:
đó là sự kết thúc của năm-Trái đất xoay quanh Mặt Trời được một vòng. Và
quái Ly hiển nhiên phải là trọng tâm ở đây vì nó chính là quái đại diện cho
Mặt trời. Ba quái nằm trên một tam giác đều lại là các đại diện cho tính
Dương (tượng Nòng Nọc cũng thế mà ý nghĩa Dịch Lý cũng vậy) với dụng ý làm
nên một vòng khép kín-đã đi qua hết (các quái đại diện Âm nằm xen kẽ vì thế
đi hết vòng Dương cũng chính là đi hết vòng Âm hay hết một vòng Âm Dương của
một năm) một chu kỳ. Cũng chính điều này đã giải thích sự hiện diện lạ lùng
của cả Thần Lửa lẫn Thần Bếp trong kho tàng thần thoại Việt Nam. Thần Lửa
đại diện cho quái Ly-Hỏa nằm phương Nam, còn thần Bếp lại là hiện thân của
một vòng khép kín Trái đất xoay quanh Mặt trời-một năm và để thể hiện Thần
Bếp, người ta đã dùng chính xác các quái có đầu quay lên (đối với Đoài) là
Càn-Cấn-Ly. Quái Ly được diễn tả qua thứ tự chết của ba người trong Thần
Bếp chỉ nhằm nhấn mạnh yếu tố Mặt Trời.
Một điểm nhỏ cần chú ý nữa là: xét trên tính phân Trời-Đất (tách đôi) thì
ta thấy hai quái Càn Cấn ở vùng Trời-tức hai ông. Chỉ có quái Ly là ở dưới,
vùng Đất-tức một bà. Đối chiếu qua Hậu Thiên Bát quái Văn Lang, chúng ta
nhận thấy chỉ có hai ông một bà như Càn Cấn Ly mới đảm bảo cho tính Dương,
tính Nọc cũng như tính cân xứng và đối xứng trọn vẹn (hai ông hai bên bên
trên còn một bà nằm dưới ngay đúng trục vuông góc Khảm Ly) của Thần Bếp.
Trước khi xét qua các liên hệ rất thú vị trong các tên gọi có lẽ cần giải
thích về tần số khá lớn trong cách dùng các chữ có phụ âm đầu đ, b cho các
thứ đặc trưng cho quái Đoài và Ly; trong khi đó lại rất hiếm hoi dùng cho
quái Khôn mặc dầu cả ba đều nằm ở phần Dưới của Hậu Thiên Bát quái:
Đoài-Đất, đầm, đìa, đầm đìa, đọi, đêm, đen, bầu, bồn, bình, bể, biển…
Ly-Điện, đền, đỉnh, đinh, đỏ, đỡ, dẹp, bàn, bảng, bàng, bếp, bễ, bợ, bẹp,…
Điều này được giải nghĩa vì tính trọng tâm của hai quái này:
Trọng tâm được vẽ màu vàng có cặp đối nhau Càn-Đoài. Trong tâm này mang tính
hình tượng vì Càn như cây gậy còn Đoài như cái bát đỡ. Trọng tâm này đập
ngay vào mắt chúng ta (hay người xưa) vì thứ nhất nó có Càn-Trời; thứ hai ở
phía bên trái-bên linh thiêng nhất và hình tượng thì diễn tả đúng sự giao
hoan Trời đất cũng như con người.
Trọng tâm Khảm-Ly lại mang ý nghĩa triết lý. Nó mang trọn triết lý Dịch và
lại ở đúng trung tâm của đồ hình. Đó là sự giao hoan quyến luyến giữa Lửa và
Nước. Hạt giống lửa (của nghi Nọc) được cấy vào Đất (nghi Nòng) được nuôi
nấng bao bọc bởi Nước (thành phần Nòng nằm ở nghi Nọc) để tạo ra thời Hậu
thiên hay tạo ra vũ trụ.
Từ đó trên cơ sở của Dịch Nòng Nọc qua diễn tả của Hậu Thiên Bát quái Văn
Lang, chúng ta có thể thống nhất toàn bộ nghĩa của các danh từ riêng chỉ
Thần Bếp (lẫn những từ liên quan đến Thần Lửa):
-Ba ông đầu rau: đã giải thích.
-Bếp, bễ, bẹp, bợ (thằng Bợ), dẹp: quái Ly nằm dưới cùng của đồ hình vì thế
vị trí tương đối của nó là thấp nhất, dưới cùng hay nôm na là bẹp dí. Lại là
trung tâm của nghi Nòng nên còn có vai trò bợ, đỡ. Vì thế mà Thần Lửa mới có
nô bộc có tên là thằng Bợ (từ bợ cũng còn có nghĩa bê, nếu đi đôi với chữ đi
[hay ngầm hiểu là bợ đi] thì từ Bợ lại thỏa mãn hoàn toàn ý nghĩa ăn trộm.
Ngày nay, người dân ta vẫn dùng từ “bợ” theo nghĩa là ăn trộm. Có lẽ từ xưa
từ “bợ” có nghĩa chỉ động tác nâng. Cuối cùng kết hợp với “bộ dạng bẹp dí”
mà người dân ta dùng từ Bợ với hàm ý khinh bỉ như bợ đỡ, bợ trộm). Bếp cũng
có vai trò nằm bẹp dí dưới đất để bợ cái nồi. Như vậy, các từ Bếp, bẹp, bợ,
dẹp có một lý giải nhất quán. Bễ cũng là nơi sản sinh ra Lửa tượng trưng cho
Ly. Nhưng cái bễ không phải là cái bếp! (ví dụ như bễ lò rèn).
-Bếp Núc, Núi bếp, táo, đảo, táo (bón): Nguyễn Xuân Quang trong bài đã dẫn
có viết:
“Trước khi đi tìm nguồn cơn, khúc nhôi của câu chuyện này, ta hãy tìm hiểu
xem tại sao lại gọi thần bếp là Táo. Táo là gì? Từ Táo có nghĩa là ông thần
Bếp. Táo có gốc Tá - có nghĩa là Lửa. Mặt Trời. Ta thấy từ “tá” đi đôi với
từ “hỏa” như trong những từ ghép “tá hỏa”, “tá hỏa tam tinh”. Cổ ngữ Mường
Việt gọi các vị thần tổ phái nam thuộc dòng mặt trời, dòng lửa là Tá ví dụ
Tá Cần, tá Cài….
Ba Tư ngữ “Tarr” là thần lửa. Ai Cập ngữ Ptah, Tatom, Tatum là thần mặt
trời. Tá là tổ, là tỏ, là mặt trời, là lửa. Ông Táo là ông Tá , ông Lửa, tức
ông Thần Bếp Lửa. Từ táo liên hệ tới lửa nên còn có các nghĩa phụ khác là
khô, cứng như bị “táo bón”, cây “táo”. Cây táo là loại cây chịu đựng được
khô hạn. Quả táo cũng được phơi khô dùng để hầm thức ăn và làm vị thuốc. Quả
táo là quả khô có dương tính. Ông Táo là Thần Bếp lửa.”. Chúng tôi không cho
rằng từ “tá” trong “tá hỏa tam tinh” lại mang ý nghĩa “Táo” của Thần Bếp. Có
lẽ đây là thành ngữ của người Hán với cặp số đối nhau: tá(mười hai) và
tam(ba). Còn các liên hệ từ ngôn ngữ của các dân tộc khác cũng chưa thuyết
phục vì rằng cần phải có những chứng minh sâu hơn về tính thống nhất của các
ngôn ngữ trên thế giới. Hiện nay, vẫn chưa có công trình nào khả lý chứng
minh cho chuyện này. Nguyên nhân vì sao có từ “táo” thiết nghĩ cần tìm lại
ngay trong tiếng Việt và giải thích qua Dịch Nòng Nọc. Ông Núi Bếp vì Bếp
được thể hiện qua ba quái có đầu nhọn là Càn-Cấn-Ly; trong đó về hình tượng
Nòng Nọc thì Cấn-Núi thỏa mãn tính đối nghịch hoàn hảo với Đoài-Đất:
Ngoài ra, quan sát ba đầu đỡ của Bếp ta cũng thấy chúng có hình tượng như
tượng Nòng Nọc của Núi cũng chính là hình tượng của quả núi. Vì thế về hình
tượng thì Núi có vị trí quan trọng đặc biệt trong câu truyện Thần Bếp và vì
lý do này mà Thần Bếp được thêm các từ như ông Núi bếp, ông Bếp Núc. Từ
“núc” trong Từ điển
Từ và Ngữ Việt Nam[15]
có giải nghĩa: Biến âm của Nước. Theo chúng tôi giải nghĩa này không thỏa
đáng vì từ Bếp Nước không mang ý nghĩa trọn vẹn và trong sáng cho từ bếp
(bếp có thể nướng, có thể rán, chiên khô chứ không hẳn dùng để đun nước);
đồng thời nó cũng không giải quyết được tính thống nhất của các từ đồng âm
“núc”. Từ “núc” là biến âm của núi; điều này ngược lại cũng được chứng minh
qua cách gọi cùng một từ bếp là “bếp núc” và “núi bếp”. Ngoài ra, tiếng Việt
chúng ta còn có các từ núc ních (béo có thịt rắn chắc -
Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, 1386), nung núc (Rất béo. Một mụ đàn bà
nung núc những thịt là thịt - Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam,
1387), hay các từ có “nức” (nức, nức tiếng, nức lòng, nô nức), đều chỉ cái
gì đó bốc lên, dâng lên, lên cao. Qua các trích dẫn ý nghĩa các từ này,
chúng ta có thể thấy “núc” có một ý nghĩa chung bao hàm: cái gì đó nổi lên
cuồn cuồn, dâng lên thấy rõ so với một mặt bằng nhất định. Các từ “núc” có
liên quan đến “núi” cũng có thể tìm thấy trong ngôn ngữ Việt Nam. Đại
từ điển tiếng Việt có giải nghĩa các chữ: nùi nụi: 1. tròn
lẳn: mập nùi nụi. 2. Không suy chuyển: chắc nùi nụi (không suy
chuyển này là cái đứng quá chắc chắn, vững chãi và không gì hơn là Núi-tọa
như sơn); nụi: béo chắc, mập (còn có từ cũng có nghĩa là không
suy chuyển như chắc nụi-NV)[16]
So sánh ý nghĩa của các từ nung núc, núc ních, nùi nụi và nụi ta thấy rõ
ràng núc~nụi; mà nụi lại còn mang nghĩa “vững chắc” (như núi) cũng đồng âm
hoàn hảo với núi (một số công trình cho rằng tiếng Việt xưa chỉ có 4 thanh,
thanh nặng thực sự là biến của thanh sắc). Chính vì thế mà trong kho tàng
văn hóa chúng ta có câu ca dao rất phổ biến:
Dù ai nói ngả, nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Có rất nhiều vật dụng gia đình đứng ở thế vững chãi ví dụ như cái lu ba
chân, tại sao người ta lại ví von sự vững chãi với cái kiềng, cái bếp? Sự
vững chãi đi đôi với cái kiềng vì cách hiểu “bếp-núi” đã đi vào tâm thức của
dân tộc Việt từ hàng ngàn năm nay.
Mặt khác, đi từ các biến âm gần của tiếng thuần Việt chúng ta lại có: nung
núc~nhung nhúc, lổn nhổn…Rất ít khi có hòn núi nào trên thực tế lại đứng chơ
vơ một mình (có lẽ hòn chơ vơ chỉ dùng để vẽ trong Kinh Dịch!). Khi nói đến
núi thường nói đến những quả núi lổn nhổn mọc lên từ đất tạo ra một cảnh
quan núi; ví dụ núi Ngũ Hành (còn gọi là núi Non Nước, Hòa Vang, Đà Nẵng)
thật ra là 5(hay 6?) ngọn núi. Và điều này lại trùng với từ nung núc: nung
núc thịt không phải chỉ có một chỗ trên cơ thể chúng ta có thịt. Mà thịt nổi
cuồn cuộn rắn chắc ở khắp cơ thể (có thể nói là mọc lổn nhổn, nhung nhúc
trên cơ thể vậy). Vậy từ biến âm gần này ta cũng thấy từ “núc” cũng mang ý
nghĩa hình tượng như “núi”. Từ “nung” cũng có những ý nghĩa và diễn âm đều
liên quan đến núi và lửa: nung=nung nấu, nung đúc; nung~nâng~nấng~núi.
Quan niệm Bếp là vòng ba quái có tượng Nòng Nọc có đầu nhọn mà quái hình
tượng đặc trưng nhất của Bếp là Cấn-Núi cũng có được nhắc đến trong truyện
của người Thái Ải Lậc Cậc và
ông chống Trời bà chống Mây[17]:
Ải cấy buổi sáng ở mường Thanh, buổi chiều ở mường Tấc. Ải đồ xôi ở mường
Thanh. Ba ông đầu rau Ải dùng để đun bếp là ba trái núi chụm lại, nay vẫn còn đó.
Cũng nhờ suy luận trên về mối
liên quan giữa Bếp và Cấn-Núi chúng ta có thể giải thích rõ ràng vì sao Thần Bếp
lại có tên là Táo. Núi~Đảo. Núi về hình tượng chính là cái đảo nghịch với đất
bằng (mà đúng chính xác trong Kinh Dịch núi đối nghịch với đầm, hồ hay biển kể
cả qua đồ hình Tiên Thiên lẫn Hậu Thiên Văn Lang). Vì thế, trong ngôn ngữ (người
ta lầm tưởng là tiếng Hán Việt) có nhiều từ có liên quan đến đảo: đảo nghịch,
đảo lộn, đảo lên, hòn đảo,…[18].
Hòn đảo trên mặt biển khơi lại đúng chính xác với ý nghĩa của các quái
trong Dịch lý: đoài-bể, biển; cấn-núi, đảo. Vậy Táo là biến âm của đảo-núi. Cũng
như táo bón (bệnh tiêu hóa, phân đóng cục, đi đại tiện khó.
Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, 1640) về
hình tượng là phân đóng thành những cục rời rạc. Các cục này càng rõ ràng có ý
nghĩa của táo~đảo khi được thả trên sông nước.[19].
Chúng ta
đã hoàn toàn giải thích xong các danh tính một cách thống nhất qua Dịch Nòng Nọc.
Nhưng vẫn còn một vương vấn: vậy tại sao là cá chép và Nhện? Vũ Ngọc Khánh trong
sách đã dẫn có chép: Thần Bếp có hai bộ hạ: bộ hạ thứ nhất là cá Chép giúp
thần trong việc đi từ hạ giới lên Thiên Đình. Bộ hạ thứ hai là Nhện giúp thần
báo tin cho người.
Nguyễn Xuân Quang trong bài đã
dẫn có lý giải:
“Chép” biến âm với “chạp”. Cá chép là cá
tháng chạp. Chép và chạp đều có nghĩa là “hai”. Thật vậy với h câm, ta có chạp =
cạp, cặp. Tháng chạp là tháng cặp, tháng hai. Theo biến âm ch=k như chênh=kênh,
ta có chép=kép, có nghĩa hai: “rộng làm kép, hẹp làm đơn”. Người Việt chúng ta
gọi là tháng 11 ta là tháng một và tháng 12 ta là tháng chạp, tháng cặp, tháng
hai và tháng một ta gọi là tháng giêng:
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà.
.. .. ..
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
[20]
Rõ ràng cá chép là
cá kép, cá cặp, cá chạp. Cá chép là cá tháng chạp. Do đó cá chép được dùng
làm phương tiện về trời của ông Táo vào ngày hai mươi ba tháng chạp ta. Ngoài ra
cá chép có râu mang nam tính, dương, lửa, môi mép, vẩy vi viền đỏ là con cá lửa.
Cá chép còn gọi là cá gáy. Nếu hiểu gáy là tiếng hót thì gáy là biểu tượng cho
đực, hùng tính. Con chim, con gà chỉ con đực mới gáy. Gáy biến âm với gay là đỏ.
Ðỏ gay. Ðỏ là tỏ là mặt trời, lửa. Hán ngữ cá chép là lí ngư. Lí biến âm với li
là lửa. Lí ngư là cá lửa. Như thế cá chép liên hệ tới lửa điều này giải thích
tại sao ông Táo Thần Bếp lửa cỡi cá chép về trời.
Ở đây, chúng tôi hoàn toàn đồng
ý với Nguyễn Xuân Quang là chạp=chép (phương âm cư dân vùng Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên người ta đọc chép=chẹp: cá chép=cá chẹp). Lý giải trên khá trôi
chảy và logic. Tuy nhiên, khi nói về các con số, chúng tôi muốn có những sự thận
trọng cần thiết. Một hướng khác để lý giải về ngôn ngữ mà không mâu thuẫn với ý
kiến trên là: người xưa qua Hà Đồ đã đếm bằng hệ thập phân, nhưng họ cũng phát
hiện ra chu kỳ tuần hoàn 12 vì thế họ đã liệt kê đến 10 sau đó lại quay vòng lại
một và chạp. Hiển nhiên họ không thể dùng một với hai được. Và khi có từ trùng
có thể làm người khác hiểu nhầm thì người xưa đã dùng từ khác: tháng mười một đã
dùng “một” rồi thì không thể dùng “một” cho tháng một-họ đã dùng “giêng” cho
tháng một. “Giêng” ở đây theo tôi có nghĩa là “riêng” (biến âm gi~r khá phổ biến)
– là nơi đánh dấu sự tách biệt ra khỏi, nơi đã bắt đầu chu kỳ vận
động khác. Người ta dùng ‘hai” cho tháng hai rồi thì không thể dùng “hai” cho
tháng mười hai được nữa. Họ dùng “chạp”. Chúng ta có thể chú ý: tháng 12 là
tháng kết thúc một năm và cũng chuẩn bị bắt đầu năm mới. Và từ chạp ở đây với
biến âm ch~tr~gi đi từ giáp: chạp~giáp-nơi giáp giới, nơi kết thúc cái này nhưng
là khởi điểm của cái kia (Hán hóa của từ này lại là giao, người Trung Hoa không
đọc được phụ âm cuối -p). Chính vì thế mà người Việt ta đã dùng từ “giếc” dùng
chỉ con cá giống cá chép nhưng nhỏ hơn (có mép đỏ) là cá giếc: chạp~giáp,
chép~giếc. Người xưa cũng hay dùng từ chục (chục~chạp) để chỉ mười hai:
một chục=một giáp[21]. Một
chục trứng là mười hai quả trứng. Người Việt ta ngày nay vẫn còn hay nói “ngày
giỗ, ngày chạp”[22] thực chất theo
quy tắc luyến láy là “ngày giỗ, ngày giáp”. Ngày giỗ có lẽ không có gì để bàn.
Còn ngày chạp là ngày gì mà thiêng vậy? Ở đây ngày chạp với vai trò là ngày đánh
dấu kết thúc một chu kỳ và khởi đầu chu kỳ khác hoàn toàn đầy đủ cơ sở để mang
tính thiêng liêng trong vũ trụ quan của người xưa (và chạp nói chung không phải
có nghĩa là 12. Chỉ khi dùng cho tháng nó mới có nghĩa là tháng 12. Số 12 chỉ
mang ý nghĩa đếm theo thứ tự chứ không hề mang tính uyên áo, thâm sâu như từ
chạp-giáp.). Từ chạp~kép, cặp và chạp~giáp lại có một mắc xích nối quan trọng là
chạp~chập, chắp, cạp, cắp, cặp (cắp đôi) và giáp~ghép, gặp, gấp (gấp đôi). Chập
vừa có nghĩa đè lên nhau cũng có nghĩa nối hai đầu vào với nhau. Trong
Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam[23]:
tr. 299:
chập: 1.Ghép hai hoặc nhiều vật
sát vào nhau: chập hai mảnh gỗ. 2. Dính vào với nhau.
chập chồng: Nói cái nọ đặt trên
cái kia thành nhiều tầng.
tr. 289
chắp: 1. Nối lại, gắn lại cho
liền: chắp hai mảnh gỗ.
chắp nối: Ghép nhiều đoạn lại
với nhau.
Tr. 247
cặp díp: Dính liền hai cái vào
với nhau.
cặp đôi: gắn hai cái vào với
nhau: Tế bào cặp đôi. (trong dân gian hay dùng cặp đôi hay cắp đôi như
một động từ chỉ sự gắn (ý trêu) hai người vào thành một cặp. Người viết).
Từ đây, ta thấy qua các bằng
chứng ngôn ngữ có sự liên quan mật thiết giữa chạp, giáp, chép và cặp. Và người
Việt xưa đã có một sự tính toán đến chi tiết cách gọi tên các tháng: Giêng (riêng,
tách bạch ra hẳn), Hai, Ba,…., Một, Chạp. Đối với Giêng là Chạp. Theo quy tắc
luyến láy rất dễ đọc khi đó là Giáp, Giêng-Giáp. Thứ hai, Chạp và Giêng là hai
đầu của chu kỳ tuần hoàn. Thứ ba, Chạp lại có ý nghĩa hoàn toàn đối nghịch với
Giêng-riêng rẽ, tách bạch là giao thoa, giáp liền.
Mọi chuyện càng thêm sáng tỏ
nếu như chúng ta xét đến tất cả các chi tiết văn hóa có liên quan. Liên quan đến
cá chép có truyện “Thần Mưa”. Kho tàng thần
thoại Việt Nam có viết về Thần Mưa[24]
như sau (trích dẫn):
Công
việc phân phối nước rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết, nên có
lần Trời mở cuộc thi chọn các giống thủy tộc có tài trở thành rồng hút nước phun
mưa giúp sức Thần Mưa. Cuộc thi rồng đó Trời đã chọn lấy địa điểm ở cửa Vũ (Vũ
Môn) thuộc Hà Tĩnh ngày nay[25].
Do đó mà trong dân
gian đã có câu hát về việc cá gáy hóa rồng:
Mồng ba
cá đi ăn thề,
Mồng
bốn cá về cá vượt Vũ Môn
……
Đến
lượt cá chép vào thi, thì gió thổi ào ào, mây kéo đầy trời, chép vượt luôn qua
ba hồi sóng, vào lọt cửa Vũ Môn, Cá chép đỗ, vây, đuôi, râu, sừng tự nhiên mọc
đủ, dạng bộ oai nghi, hóa rồng phun nước làm ra mưa.
Trong
Đất lề quê thói
lại dẫn ra chi tiết rất rõ ràng về danh
tính phong thần của ba vị Táo quân: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ (toàn Thổ). Rõ
ràng hơn là:
Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp.
Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân
Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà
cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa.
Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần
Và Trần Quốc
Vượng lại cho rằng sự tích này được Việt hóa ra thành
huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc[26]
. Thế nhưng có câu thành ngữ xưa mà người dân Việt tận bây giờ vẫn hay dùng lại
là : “Ông Công, ông Táo”[27].
Chúng tôi cho
rằng khẳng định Việt hóa truyền thuyết Táo quân Trung Hoa như ông Trần Quốc
Vượng đã lý giải hoàn toàn không có cơ sở. Táo quân Trung Hoa như ông Lê Anh
Minh có viết có đến hơn 40 câu truyện. Và đặc biệt hoàn toàn không có câu chuyện
nào giống truyện Thần Bếp của người Việt. Vậy truyện táo Việt Nam có xuất xứ từ
truyện Táo nào của Trung Hoa? Không thể chối cãi rằng các điểm khác biệt văn hóa
trong hai truyện Táo Trung Hoa và Táo Việt Nam quá lớn. Nếu truyện Táo Việt Nam
là Việt hóa của Táo Trung Hoa thì sao có sự cách tân kỳ cục như thế; mà sự cách
tân đó lại mâu thuẫn với bản chất phụ thuộc của xã hội Việt vào văn hóa Hán. Nói
cách khác, khi chưa cách tân thì tình tiết cho thấy cách “trọng nam khinh nữ”
khi cách tân rồi (và do sự nô dịch hay tự nô dịch văn hóa) mà lại biến đổi 180º
thành “trọng nữ khinh nam” để thế gian còn vương lại tiếng cười trêu?! Ngoài ra,
các danh tính Táo của Trung Hoa lại là Thổ không có gì dính dáng đến Lửa, Hỏa
cả.[28].
Từ các điểm,
chi tiết liên quan đó, chúng ta có thể nêu lên hàng loạt những thắc mắc cần phải
giải quyết thấu đáo:
-Tại sao là
Nhện?
-Chép thì
chúng ta đã biết. Nhưng tại sao là cá?
-Ba người đó
có danh tính rạch ròi thế, vậy sao câu truyền khẩu lại là ông Công, ông
Táo? Nếu ta nói ông Công do Thổ Công mà ra thì theo sự đối xứng của cấu
trúc từ kép, Táo Quân và Thổ Công chúng ta lại nêu câu hỏi: Tại sao không là
ông Táo, ông Thổ hay ông Công, ông Quân? Rồi cung cách
dùng Công và Táo này mức độ ăn sâu vào người dân đến chừng nào? Liệu chúng có
trước hay là hai từ Táo quân, Thổ công hoặc ba từ Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ có
trước?[29]
Liệu chăng vì sự đơn giản của Công và Táo nên câu ông Công, ông Táo đã có trước?
Và nguyên thủy Công, Táo là hai từ đối xứng nhau qua một lăng kính nào đó? Rõ
ràng khi các danh hiệu càng màu mè, càng hoa mỹ thì càng khó nhận chân của cốt
truyện thật sự có từ xa xưa thế nào. Điều này chỉ cho phép chúng ta khẳng định
một điều: những tơ lụa, thảm đỏ mỹ miều được gắn lên danh tính các ông Thần
chẳng qua là sự thêu dệt, sự thêm thắt của văn nhân nghệ sỹ đời sau này. Và giá
trị đích thực nhất của nó chỉ để cho người ta khoe chữ với nhau chứ không phải
để phản ánh đúng đắn quan niệm, tư tưởng của người cổ xưa như thế nào. Trong
truyện Táo quân này, các danh hiệu được nêu từ Đất lề quê thói khó
có thể nói phản ánh được cái chân trong câu truyện hơn thành ngữ “ông
Công, ông Táo” nếu như không muốn nói chúng hoàn toàn không có giá trị
gì thậm chí còn cản trở con đường nhận diện sự thật.
-Sự sắp
đặt danh tính thành Thổ công, Thổ địa và Thổ kỳ hoàn toàn mâu thuẫn với tính
chất Nóng, Dương, Trời của Bếp. Vậy có thể có một lý giải nào làm sáng tỏ tất cả
câu hỏi trên? Liệu Công có dính dáng gì đến Thổ hay Công chỉ đơn giản là cách
nói ngắn gọn của Thổ Công?
Tất cả câu
hỏi trên, chúng ta đều có thể giải thích qua lăng kính của Kinh Dịch Nòng Nọc.
Và có thể nói chúng được gói gọn vào hình dưới đây:
Kinh Dịch Nòng Nọc với đồ hình
chủ đạo là Hậu Thiên Bát Quái Văn Lang có đặc điểm là tuy bát quái nhưng tinh
thần chủ yếu lại là lục trùng quái, vì thế mới có trục đối xứng Tốn-Chấn và các
cặp đối xứng qua nó là Càn-Đoài, Khảm Ly (cặp Khảm-Ly mang ý nghĩa triết học vì
ngoài đối xứng này nó còn có đối xứng nghịch nhau hoàn hảo dạng Càn-Khôn)[30],
Cấn-Khôn. Như chúng tôi giải thích trên, đã có ông Thần Bếp chỉ chu kỳ tuần hoàn
một năm với sự thể hiện ba quái Dương[31]
thuộc Trời là Càn Ly Cấn với Ly mang ý nghĩa triết học là Hỏa và Cấn mang
ý nghĩa hình tượng là núi, đầu rau thì ba quái còn lại tạo ra một vòng khác là
Khảm, Đoài và Khôn. Vòng của Bếp là Dương, là Trời thì hoàn toàn tự nhiên vòng
đối lại nó phải là Âm, là Đất. Chính vì thế mà có sự song hành giữa Thổ công và
Táo quân. Sự đối xứng giữa Táo và Công thể hiện rất rõ ở đây. Ngay trục triết lý
là Khảm-Ly, Khảm nguyên thủy từ xưa theo Bạch Thư Chu Dịch Mã Vương Đôi[32]
có thể đọc là gõng=công, còn truyện Nữ Oa vá trời[33]
lại có nhân vật Cộng Công là Thuỷ thần đánh nhau với Thần Lửa
Chúc Dong. Trong
Lã Thị Xuân Thu
và
Hoài Nam Tử[34]
đều cho Bếp dính dáng đến Viêm đế và Chúc Dung phương
Nam. Vậy Táo rõ ràng đối với Công chan chát với tần số khá cao trong các điển
tích. Còn về hình tượng thì ta có Núi=Táo=Đảo là cái đảo ngược lại, cái lồi lên
đối với Khôn~con~cong, cóng ~công là cái lõm, trũng xuống. Theo chúng tôi, ông
Công đối nghịch với ông Táo trông coi việc đất đai có hình tượng trong bát quái
là ba quái Khảm, Khôn, Đoài. Ông có dính dáng trực tiếp [vì ông cai quản vòng
Đất đối với Trời] đến cuộc sống văn hóa tâm linh người Việt (sau là người Hán)
xưa nên ông ta là một ông Thần linh thiêng, một danh hiệu tôn quý. Sau này, vì
ông ta dính dáng đến “Đất”[35] (theo
nghĩa đối với vòng Trời) nên người ta lại đọc thành Thổ Công cũng đi liền với
Táo Quân nhưng mất đi cái đối xứng CôngçèTáo
ban đầu.
Cá là loài dưới nước thuộc Thủy
đối với Bếp-Hỏa. Cá có đầy đủ vảy, vi, vây đặc biệt loại cá chép có vảy to màu
đen (thủy - đen) trông uy nghi nên người xưa dùng nó như một con vật có thể biến
thành rồng (khác với các loài khác không có vây, vi, vảy như rắn, lươn, trạch.)[36]
. Hình tượng Thần Bếp cỡi cá Chép chính biểu thị cho sự gắn bó giữa Âm và Dương,
giữa Nòng và Nọc nhưng Nọc luôn luôn ở tư thế bên trên.
Truyện Thần Đất
trong Kho tàng thần thoại Việt nam[35]
cũng có đoạn rất quan trọng “Thần Đất có khi có mình rồng cho nên cũng có tên
là Thổ địa Long Thần”. Thật chất từ Thổ địa Long thần là cách gọi hoa mỹ của
nội dung “có mình Rồng” mà thôi. Điều quan trọng là quan niệm ngày xưa Thần Đất
có hình dáng giống Rồng thuộc Khảm Thủy. Chúng tôi đã phân tích tính lưỡng phân
của Kinh Dịch Nòng Nọc, đối với Càn-Trời về hình tượng có Đoài-Đầm, đất và về ý
nghĩa đối kháng triệt để có Khôn-Đất. Vậy làm sao ở đây lại có thêm loại
Đất-Khảm nữa? Chỉ có thể dùng Kinh Dịch Nòng Nọc mới suy luận được Thần Bếp
chính là vòng Càn Cấn Ly, vòng Trời và ông Thần Đất có hay bị lẫn với ông Thần
Bếp không là ai khác chính là vòng Khôn Đoài Khảm và do biểu tượng chính của Bếp
là Ly thì biểu tượng chính của thần Đất là Khảm tức Thần đất có dạng mình rồng.
Nhìn Hậu Thiên Bát quái Văn
Lang ta có thể thấy cá Chép đi từ sông (Khảm) theo chiều kim đồng hồ (vòng Dương
thì theo chiều ngược kim đồng hồ, vòng Âm lại thuận chiều) đi ra bể (Đoài) phải
vượt qua ba ghềnh cản là ba quái Cấn Ly Càn, sau đó phải vượt qua Vũ môn[37]
để đến Trời (Càn) và hóa rồng ngay tại Khảm (thực hiện xong một vòng).
Sự liên lạc thông tin qua Lục
quái từ hình tượng dễ thấy là một mạng nhện[38]
có những đường lối chằng chịt khác nhau. Và chính vì lẽ này mà trong câu
truyện thần Bếp của chúng ta lại xuất hiện nhân vật quá đỗi kỳ lạ là Nhện để
truyền tin và liên lạc. Nhện hay ở trong Bếp; tuy nhiên mối liên hệ này giữa
Bếp và Nhện cũng chưa đủ để lý giải việc Thần Bếp sử dụng Nhện làm người
truyền tin. Bởi vì, con mèo cũng hay nằm cạnh bếp; tại sao Thần Bếp lại
không tín nhiệm nó để đi truyền tin? Rõ ràng mèo gần gũi với người hơn Nhện.
Mặt khác, cứ cho Nhện hay ở trên giàn bếp thì Bếp và Nhện có liên quan mật
thiết với nhau, nhưng tại sao Thần Bếp không cử Nhện đi làm việc khác mà lại
làm chính việc truyền tin? Niềm tin chuyện này không phải chỉ có trong thần
thoại, sự việc quan trọng đến nỗi trong dân gian đến ngày nay vẫn còn lưu
câu “điềm nhện sa”, cũng như có hẳn câu ca dao về nó: Chẳng mai thì mốt có
tin. Nhện sa trước mặt bạn nhìn mà coi. Phải có một lý do quan trọng nào đó
để tạo nên một niềm tin mãnh liệt và lâu đời đến vậy. Lý do đó phải nằm
trong hệ thống triết lý hay vũ trụ quan nào đó gắn chặt sâu vào tâm khảm
nhân dân từ xa xưa. Và với Bát quái Văn Lang. chúng ta có thể trả lời rõ
ràng vấn đề này. Thần Bếp cần Nhện để truyền tin vì trong Lục trùng quái có
hai vòng Dương (Bếp) và Âm đan vào nhau như một cái mạng Nhện. Vậy để Bếp
(thuộc Dương) truyền tin đến cho Người (thuộc thế gian-Âm) thì không có con
gì khác đảm đương tốt bằng Nhện.
Như vậy, tạm kết luận
[39]
những điểm quan trọng như sau:
-Thần Bếp là truyền thuyết thuần Việt, trong đó người (hay những người) sáng
tạo ra nó đã sử dụng một motip kỳ lạ có một không hai: thứ tự chết của hai
nam và một nữ. Thứ tự chết lạnh lùng đến vô cảm mâu thuẫn với tính nhân văn
của câu truyện phải đi từ một nguyên nhân chính đáng nào đó. Ở trên đã phân
tích từ chi tiết nhỏ nhất cho thấy truyện Thần bếp được sáng tác dưới sự
chi phối mạnh của Kinh Dịch Nòng Nọc.
-Qua lăng kính Kinh Dịch Nòng Nọc, các lý giải về ngôn ngữ mới có được sự
thống nhất hoàn chỉnh từng từ, từng hiện tượng một: Bếp, ba ông đầu rau, bếp
núc, thằng Bợ, cá chép, Chạp, Giêng, Giáp, Nhện; Nhện báo tin, Cá chép hóa
rồng vượt ba đợt sóng; Giêng bắt đầu năm, Chạp kết thúc năm…
-Lý giải ba người Thần Bếp có tên là Thổ công, Thổ địa và Thổ kỳ hoàn toàn
sai lầm. Có chăng cách giải thích đó dành cho ba ông Công tượng trưng cho ba
quái Âm và sau này vì ông Bếp và ông Công hay song hành nhau nên người ta
đánh đồng hai ông vào với nhau. Câu thành ngữ ông Công, ông Táo hoàn toàn
chính xác với sự đối nghịch nhau giữa hai từ Công và Táo. Vì ông Công theo
Kinh Dịch dính dáng đến vòng Âm, vòng Đất nên đời sau mới thêm và sáng tạo
ra những tên gọi màu mè hoa mỹ: Thổ công, Thổ địa…v…v…
-Từ đây cũng rút ra kết luận các từ “công”, “táo”, “đảo” trước đây là từ
thuần Việt. Người Hán đã mượn từ ngôn ngữ Việt rồi sau đó người Việt ta lại
nghĩ là mình vay mượn của Hán ngữ.
Để tiện theo dõi các lý giải của bài viết này mời độc giả xem Phụ lục 1 dưới
dạng câu hỏi trả lời.
Trần Quang Bình
Bắt đầu viết tháng 5.2006
Hoàn thành 25.01.2008
tuvilyso@mail.ru
Chú thích và tài liệu tham khảo.
[1], [3].
Được dẫn lại từ bài
Táo quân Việt Nam và Táo quân
Trung quốc.
Vietsciences của Lê Anh Minh.
[2].
Vũ Ngọc Khánh. Kho
tàng thần thoại Việt Nam.
2006. Nhà XBVH-TT. Tr.65.
[4].
Vũ Ngọc Khánh. Kho tàng thần thoại Việt Nam.
2006. Nhà XBVH-TT. Tr.63
[5].
Chính bản thân người viết cũng lấy làm lạ vì sao vừa có
Thần Bếp lại vừa có Thần Lửa. Nói về ngôn từ và ý nghĩa thì quả tình rất
khác nhau, không có gì lạ cả. Nhưng nếu xét trên ngôn ngữ Kinh Dịch thì cả
Bếp và Lửa đều được chỉ thị bởi quái Ly; vậy nguyên cớ nào mà người xưa cần
phải sáng tạo ra hai câu chuyện về hai Thần khác nhau đi từ cùng một quái
như vậy? Phải chăng chúng không được đi từ Dịch Lý? Xét hai câu chuyện trên
nhiều lăng kính khác nhau, chúng tôi thấy đúng là chúng bị ảnh hưởng bởi
Dịch Nòng Nọc. Và vì sao cùng là Ly mà có cả Bếp lẫn Lửa thì chỉ Dịch Nòng
Nọc của người Việt mới đủ sức lý giải.
[6].
Còn một truyện nữa cũng có thứ tự chết lạ lùng là truyện Sự tích Sao Mai và
Sao Hôm. Vì bài viết chỉ giới hạn ở Thần Bếp nên chúng tôi xin đề cập đến
hai truyện này sau. Nếu chứng minh được sự tồn tại một mắc xích để kết dính
ba chuyện này lại với nhau thì ta có thể khẳng định motip sử dụng cái chết
và thứ tự chết của ba người là bằng chứng hỗ trợ cho sự liên quan đó.
[7].
Sự trùng hợp danh tính các nhân vật này sẽ là một bằng chứng hỗ
trợ cho khẳng định “Kinh Dịch Nòng Nọc ảnh hưởng lên sáng tác hai truyện
“Thần Bếp” và “Trầu Cau””. Và bằng chứng càng phát huy tác dụng khi các phân
tích đi từ hướng khác cho thấy logic sáng tác truyện phù hợp hoàn toàn với
Kinh Dịch Nòng Nọc. Nói cách khác, sự trùng hợp sẽ là ngẫu nhiên khi các mắc
xích không kết nối được với nhau; nhưng khi các mắc xích khác đã kết vào với
nhau theo một khuôn (ở đây là Kinh Dịch Nòng Nọc) thì mắc xích này không thể
nào đứng rời rạc được. Mà chính nó là một mắc xích của hệ thống và vì thế
ngược lại nó cũng đóng vai trò khẳng định sự tồn tại hệ thống.
[8].
Nguyễn Xuân Quang.
Truyền thuyết Hai ông 1 bà -
Táo quân !
[9].
Nguyễn Việt Nho.Huyền
thoại Táo quân
[10].
Từ điển Bách khoa toàn thư, mục
Tết Táo quân
có viết: Ông Đầu rau, Vua bếp, Thần bếp, ông Núi bếp, Táo quân đều là tên để
gọi ông Táo.Thực ra ông đầu rau là viết tắt của “ba ông đầu rau” để chỉ bếp.
Sự tích Táo quân người Việt hay gọi là sự tích Ba ông đầu rau. Dưới đây là
một số bài vở viết có cụm từ “ba ông đầu rau”:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3o_lu%E1%BA%ADn:Th%E1%BB%95_C%C3%B4ng
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADn_ng%C6%B0%E1%BB%A1ng_Vi%E1%BB%87t_Nam
http://www.tcvn.gov.vn/web_pub_pri/magazine/index.php?p=show_page&cid=&parent=138&sid=142&iid=3140
http://www.vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2004/01/3B9CEDD7/
[11].
Lê Anh Minh.
Táo quân Việt Nam và Táo quân
Trung quốc.
Vietsciences.
[12].
Lê Anh Minh.
Táo quân Việt Nam và Táo quân
Trung quốc.
Vietsciences. Trong bài này, tác giả còn chú thích thêm: hình TQVN
được lấy từ Lối xưa xe ngựa II, Nguyễn Thị Chân Quỳnh còn hình TQTH
từ Myths & Legends of China, E.T.C. Werner. Tôi đã có liên lạc với bà
Nguyễn Thị Chân Quỳnh để hỏi bức hình đó bà có được từ đâu. Bà trả lời ở
trong cuốn sách cổ nào đó mà hiện thời bà không thể nhớ chính xác là từ đâu.
Hình Táo quân có hai người nam nữ được lấy từ wiki, xem [33].
[13].
Cả hai bát quái Hậu Thiên Văn Lang và Hậu Thiên Lạc Việt đều có chỉ ra tính
chất Hậu Thiên là tuy tám nhưng sáu. Nhưng chỉ có Hậu Thiên Văn Lang mới có
sự phân bố hình tượng 3 quái lồi Càn Cấn Ly nhọn đầu và 3 quái lõm Khảm Khôn
Đoài bằng hai hình tam giác đều đối nhau như thế. Và điều này, như sẽ dẫn
dưới tạo điều kiện cho người ta sáng tạo ra hai người Công và Táo khác nhau.
[14].
Nguyễn Xuân Quang, Khai
quật kho tàng cổ sử Hừng Việt, YHTT xuất bản, 1999.
[15].
Nguyễn Lân. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam. Nhà XB tổng hợp TP Hồ Chí
Minh. 2006. Tr.1386.
[16].
Nguyễn Như Ý.
Đại từ điển tiếng Việt. Nhà
XB VH-TT. 1999. Tr. 1286.
[17].
Vũ Ngọc Khánh. Kho
tàng thần thoại Việt Nam.
2006. Nhà XBVH-TT. Tr.706-710
[18].
Sàng lọc qua lăng kính Dịch Nòng Nọc ta thấy các từ đảo và táo (táo bón) đã
thích ứng với cỗ máy thống nhất. Vì thế, theo tôi đây chính là những từ Việt
thuần túy và người Hán xưa đã mượn của người Việt. Rồi người Việt cũng dùng
nó (như xưa nay vẫn dùng) nhưng lại cứ đinh ninh là mình mượn của người do
tâm lý nhược tiểu.
[19].
Ngoài ra các từ như táo tợn, táo tác, táo gan, táo bạo, tếu táo đều chỉ sự
mạnh mẽ, cương cường (dương tính), khí thế hơn người.
[20].
Doãn Quốc Sỹ.
Tuyển tập văn chương nhi đồng.
Bài ca dao số 107. Nguyên bài:
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội-hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Trong bài 105 cũng có viết đến tháng một tháng chạp:
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai rỗi-rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm,
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng sáu em đi buôn bè,
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.
Chín mười cắt rạ đồng mùa,
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng.
[21].
Tuy nhiên điều này cũng không cho phép ta khẳng định cơ số
đếm của người Việt xưa là 12. Ngay cách đếm tháng mà vẫn cố gắng gói gọn
trong 10 con số chứng tỏ 10 con số Hà Đồ đối với người dân Việt là thiêng
liêng bậc nhất. Và cố gắng đó được chứng tỏ khi họ gọi tháng mười một là
tháng một. Nếu có cơ số 12 thì cách đếm tháng phải khác một, hai,.....,
mười, X, Y chứ không phải như cách trong hai bài thơ số 105, 107 đã dẫn:
giêng, hai,...., mười, một, giáp. Còn vì sao người ta gọi chữ số hàng chục,
chữ số hàng đơn vị? Cách gọi này chúng ta dịch từ toán học phương Tây: sách
Toán Euclide dùng hệ thập phân, nhưng hàng chục ở đây thiên về nghĩa kết
thúc một chu kỳ tính (vì thế mà không gọi hàng đơn vị là hàng một); và chục
thoả mãn hoàn hảo chức năng này. Sau này, khoa học Tây phương càng thâm nhập
sâu vào văn hoá thì càng ngày người dân càng ít dùng chục theo nghĩa 12 mà
lại dùng chục theo nghĩa 10.
[22].
Ngày giỗ, ngày chạp
khá phổ biến trong văn học Việt Nam. Dưới đây là link của google về câu này:
http://www.google.ru/search?complete=1&hl=ru&newwindow=1&rlz=1T4ADBS_ruRU253&q=%22ng%C3%A0y+gi%E1%BB%97%2C+ng%C3%A0y+ch%E1%BA%A1p%22&btnG=%D0%9F%D0%BE%D0%B8%D1%81%D0%BA&lr=&aq=f
[23].
Nguyễn Lân. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam.
2006. Nhà XB tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
[24].
Vũ Ngọc Khánh. Kho
tàng thần thoại Việt Nam.
2006. Nhà XBVH-TT. Tr.60
[25].
Vũ Ngọc Khánh ghi Vũ Môn ở Hà Tĩnh còn Nguyễn Xuân Quang lại
chép: Vũ-môn là một chỗ có nhiều ghềnh thác trên Trường Giang tức sông Dương
Tử thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay. Ông lại dẫn ra ngày cụ thể của
cuộc thi là mồng tám tháng tư.
[26].
Trần Quốc Vượng.
Văn hóa Việt Nam tìm tòi và
suy ngẫm.
2000. NXB Văn hóa dân tộc. Tr. 330.
[27].
Ông Công, ông Táo
theo google:
http://www.google.com.vn/search?hl=en&q=%22%C3%94ng+C%C3%B4ng%2C+%C3%B4ng+T%C3%A1o%22&btnG=Google+Search&meta=
[28].
Các danh tính dài dòng kia chắc
chắn không phải là tên gọi nguyên thủy của các nhân vật. Theo chúng tôi, tất cả
đều do người đời sau đặt nên. Vì thế, tất cả chúng đều không thể phản ánh sự
chân thật của câu truyện Táo quân.
[29].
Khi đọc nhiều lý giải về nguồn gốc các từ có thể nhận xét,
các học giả hay giải thích từ này đi ra từ từ kia nhưng hầu hết ít người
quan tâm liệu có là ngược lại. Nói A có liên quan đến B, thì A cũng có thể
được suy ra từ B và B từ A. Muốn biết chính xác theo chiều hướng nào cần có
những dẫn chứng quan trọng hơn; ví dụ các từ trung gian, bắt cầu hay sự kiện
văn hóa cổ xưa. Chính vì sự lướt qua này nên nhiều học giả nước nhà cứ thấy
có từ liên quan đến từ khác tiếng Hán là suy ngay ra đó là từ Hán Việt. Theo
chúng tôi, đó là việc làm hoàn toàn tắc trách và bất hợp lý. Khi đưa ra định
đề và đã chứng minh nó từ Toán học, di sản vật thể đến phi vật thể: Kinh
Dịch là sản phẩm của người Việt cổ trên nền tảng Nòng và Nọc, chúng tôi đã
lắp ráp các chi tiết vào cỗ máy này và đã suy ra được những từ mà nhiều
người cho là Hán Việt thật ra từ trước là từ thuần Việt, sau đó người Hán
mượn của ta rồi ta lại nghĩ mình mượn của người Hán do tâm lý nhược tiểu
như: nông, nương, nàng, chàng, táo, đảo,...Mỗi từ, mỗi sự kiện không khớp
với cỗ máy Kinh Dịch Trung Hoa mà khớp với Kinh Dịch Nòng Nọc Việt đều là
những bằng chứng sáng giá để xác định chủ nhân của Kinh Dịch đồng thời ngược
lại cũng xác định luôn chủ nhân chính thức của các từ đó. Ở trường hợp
truyện Táo quân thì câu truyện đơn giản không danh tính trong sách Kho
tàng thần thoại Việt Nam đã dẫn trên chắc hẳn cổ xưa hơn và ít bị thêu
dệt văn hoa hơn.
[30].
Xem thêm mục Tính lưỡng phân... trong
bài
Truyền thuyết Thần Trụ Trời.
Vietsciences.
[31].
Cách phân Dương Âm, Nọc Nòng thứ
ba này được suy ra từ hai cách phân kia. Vì thế, chúng không phải là đặc tính có
thể đứng riêng lẻ nên chúng tôi chỉ đặt quan trọng ở tính lưỡng phân Càn-Khôn và
Trời-Đất thôi.
[32].
Dương Ngọc Dũng, Lê Anh Minh. Kinh Dịch, cấu
hình tư tưởng Trung quốc. 1999. Nhà XB khoa học xã hội.
[33].
Trần Quang Bình. Kinh Dịch
là sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc. Vietsciences
[34].
Wikipedia:
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1o_Qu%C3%A2n
[35].
Mối liên quan giữa Thần Đất và
Thần Bếp cũng được phản ánh trong truyện Thần Đất và Thần Đất bị đánh. Kho
tàng thần thoại Việt Nam. 2006. Tr.34-39. Chúng tôi không chép lại vì
hai câu truyện không có những thông tin gì lớn ngoài những điều đã biết.
[36].
Thực ra người ta có thể lấy con cá khác cũng có các đặc điểm trên rồi đặt
cho nó cái tên là cá Chép cũng không ảnh hưởng gì đến quá trình suy luận ở
đây. Vì thế hoàn toàn vô lý nếu có người trong chúng ta lại đặt ra câu hỏi
“tại sao lại đúng là con cá chép?”. Sau này, tôi sẽ có một loạt phân tích về
ngôn ngữ vì sao người ta lại dùng “cá”.
[37].
Hán tính trong từ “Vũ môn” có khi cần xem xét lại. Biến âm v-m rất phổ
biến ở ngôn ngữ Việt như vụ-mùa, vũ-múa, vũ~mưa…Từ Vũ môn lại gắn liền với
câu truyện thần thoại Thần Mưa của Việt Nam. Vũ môn có lẽ là cửa Mưa-kỳ sát
hạch cuối cùng cho việc chọn lựa một nhân vật có thể làm mưa được hay không?
Nói đến bát quái thì sau khi đến cửa biển (Đoài) sẽ đến một cửa thông Trời
và Đất (Càn và Đoài). Có lẽ quan niệm xưa cho rằng Mưa Gió chính là
cầu nối giữa Trời và Đất. Chính vì thế Vũ môn chính là quái Tốn-Gió ảo (vì
tuy bát quái nhưng Tốn đã liên kết với Đoài để thành trùng quái bất dịch
Trung Phu) nơi giao thoa giữa Trời và Đất. Tại sao không nói nơi giao thoa
giữa trời và đất là quái Chấn? Đấy cũng là do tính lưỡng phân mà chúng tôi
đã phân tích ở truyền thuyết Thần Trụ Trời.
[38].
Lạ lùng thời hiện đại này người ta cũng dùng mạng để chỉ về hệ thống
thông tin và truyền thông.
[39].
Tạm kết luận vì còn có những chi tiết Dịch rất
quan trọng. Tuy nhiên, vì một số lý do tế nhị, tôi chưa
muốn đề cập đến ở bài này. Sự lý giải các chi tiết ra ánh sáng có thể làm
chúng ta hịểu thêm một số vấn đề của môn lý số đã thất truyền.
Phụ lục 1:
1.
Tại sao lại hai ông và một bà? Tại sao được
gọi là ba ông đầu rau? Tại vì Bếp
liên quan đến Hỏa, trong bát quái Văn lang nó được thể hiện bằng ba trùng quái
so le nhau có cùng đặc điểm hình tượng là lồi, có đầu nhọn Càn Ly Cấn trong đó
có hai quái Càn Ly mang Nọc tính rõ rệt (Nọc tính của Cấn ở đây chỉ có trong
hình tượng của nó). Vì thế người ta gọi nó là ba ông đầu rau và nó thường có
dạng một vòng kiềng với ba chạc đâm ra để đỡ nồi. 3 quái này có 2 nằm bên trên
và 1 nằm bên dưới (bên trên và bên dưới chỉ là khái niệm tương đối; nhưng ở đây
bên trên và bên dưới được tách ra hẳn hoi bởi trục Tốn Chấn) và có tính đối xứng
với hai ông hai bên còn bà ở giữa, nên vì thế chủ thể của Bếp là hai ông một bà
với người đàn bà quan trọng hơn [truyền thuyết Táo Việt Nam thể hiện được điều
đó].
2.
Tại sao là Bếp?
Tại sao có thứ tự chết nam-nữ-nam? Tại sao
cuối năm ông phải đi lên Trời báo cáo tình hình?
Bếp, bễ, bẹp, bẹt, bét, bết đều chỉ cái gì đó dưới đáy. Trường hợp Bếp liên quan
đến lửa nên trong bát quái Văn Lang nó được tượng trưng bởi quái Ly-ở vị trí
thấp nhất. Vì thế mà có thứ tự chết Nam-Nữ-Nam hay Nọc-Nòng-Nọc=Ly. Tuy nhiên,
như trên đã giải đáp, Bếp không đơn giản chỉ là quái Ly, nó là Càn-Ly-Cấn tạo
nên một vòng chu kỳ tuần hoàn. Bếp tượng trưng cho một năm Trái đất xoay quanh
Mặt Trời một vòng. Và quái Ly tượng trưng cho Mặt Trời nên trong ba quái trên ý
nghĩa một năm, quái Ly thể hiện rõ nhất. Bếp hiện diện ở bất cứ nhà nào ở thế
gian này và vì ông ta thuộc Dương tức là người của Trời cử xuống nên hẳn nhiên
mỗi năm (tức sau một vòng quay), ông ta phải quay về báo cáo tình hình.
3.
Tại sao bộ hạ của Thần Lửa là thằng Bợ?
Như trên đã viết, Ly ở vị trí thấp nhất trong đồ hình Hậu Thiên.
Thần Lửa hay bà Hỏa là quái Ly. Hai bên Thần Lửa cùng với quái Ly tạo nên một
vòng lõm giống như cánh tay bợ ba quái Trời lên. Vì thế, Thần Lửa có bộ hạ là
thằng Bợ. Thằng Bợ còn phản ánh mặt trái của bà Lửa là phun Lửa hủy diệt nhà
cửa, cây cối vô tội vạ nên người ta mới nói nó rất hung ác. Vì bản chất thấp hèn
nên người xưa cũng hay dùng từ bợ trong nghĩa bợ trộm, bợ đỡ, nịnh bợ và trong
truyện Thần Lửa cũng phản ánh đúng như thế: thằng Bợ đã ăn cắp Lửa của Thần vào
gieo rắc đau khổ khắp dương gian.
4.
Tại sao Bếp Núc, Núi Bếp, Táo, Đảo?
Về hình tượng thì quái Cấn là đầu rau rõ ràng nhất, nó giống như ba cái
chạc của Bếp. Vì thế người ta còn gọi Bếp là bếp núc, ông núi bếp, ông Táo=biến
âm của Đảo. Trên thực tế, quái Cấn chính là quái đối xứng với quái Đoài-bể, hồ,
biển cả về ý nghĩa triết học lẫn hình tượng.
5.
Tại sao loại cá đưa ông Táo về Trời có tên
là “chép”? Tại sao tháng 12 gọi là tháng Chạp? Tại sao cần lấy hai từ khác để
đếm tới mười hai? Tại sao trong dân gian còn dùng “chục” như là 12?
Cá chép là cá đưa ông Táo về Trời, ông Táo về Trời vào ngày 23 tháng Chạp nên
cá này gọi là “Chép”. Còn vì sao tháng Chạp? Khi sáng tạo ra Kinh Dịch với Hà đồ
là đồ hình cơ bản với 10 số đầu tiên, người Việt xưa lại phát hiện thêm chu kỳ
12, họ bắt buộc dùng 10 con số Hà đồ với hai tên gọi khác để gọi tên cho đúng ý
nghĩa của chúng. Họ đã dùng thêm từ Giêng và Chạp để gọi tháng 1 và tháng 12 là
hai tháng đối đầu nhau của chu kỳ 12. Giêng=riêng-sự tách bạch, riêng rẽ ra hẳn;
Chạp=giáp (vì tháng 12 nên nó còn có nghĩa cặp, kép)-là tháng giao thoa nơi kết
thúc năm và khởi đầu cho năm mới. Chạp=Giáp nghĩa chưa hoàn toàn là 12. Nhưng
khi dùng trong tháng và cũng dùng cho số đếm, chạp và giáp (1 giáp) được dùng
như nghĩa 12. Vì thế, người Việt đã dùng “chục” để chỉ số 12. Ở đây: Chạp~[một]
chục= [một] giáp.
6.
Tại sao phải dùng Nhện để truyền tin?
Thần
Bếp cần Nhện để truyền tin vì trong Lục trùng quái có hai vòng Dương (Bếp) và Âm
đan vào nhau như một cái mạng Nhện. Vậy để Bếp (thuộc Dương) truyền tin đến cho
Người (thuộc thế gian-Âm) thì không có con gì khác đảm đương tốt bằng Nhện.
7.
Tại sao có câu truyền khẩu trong dân gian là
“ông Công, ông Táo”? Ông Bếp đã được
biểu thị bởi 3 quái Càn-Ly-Cấn vậy lẽ đương nhiên, bộ tam quái còn lại phải biểu
thị cho một ông khác. Trong các điển tích lẫn trong ngôn ngữ, ta chứng kiến sự
đối đầu nhau chan chát giữa Công và Táo. Vì vậy, ba quái nghịch với vòng ông Táo
được biểu thị cho ông Công. Vì thế, trong dân gian hay có câu: “ông Công, ông
Táo”. Công, Táo mang tính đối xứng trọn vẹn trong cấu trúc chứ hoàn toàn không
phải vì Công là Thổ Công vì Táo là Táo quân.
8.
Tại sao khi nói đến ông Công người ta hay
nghĩ đến ông gì đó có họ hàng với Thổ?
Thực ra người ta có thể lấy con cá khác cũng có các đặc điểm trên rồi đặt cho nó
cái tên là cá Chép cũng không ảnh hưởng gì đến quá trình suy luận ở đây. Vì thế
hoàn toàn vô lý nếu có người trong chúng ta lại đặt ra câu hỏi “tại sao lại đúng
là con cá chép?”. Sau này, tôi sẽ có một loạt phân tích về ngôn ngữ vì sao người
ta lại dùng “cá”.
9.
Tại sao phải là giống cá để đưa ông Táo về Trời?
Tại sao trong dân gian còn có quan niệm Thần
Đất có mình rồng?
Táo thuộc Dương, quái Ly thì đối với ông ta là Âm, quái Khảm (Tức là hai quái
đối nhau trọn vẹn vừa qua trục TốnChấn vừa qua tâm). Vì thế Cá chép thuộc Thủy
và Táo thuộc Hỏa song hành nhau, hay đi đôi với nhau tuy Táo Nọc lúc nào cũng
phải ở bên trên (cỡi cá). Ở đây, xin nhắc lại đừng nhầm hai hành Thủy Hỏa này
với quan niệm Trời, Đất (mà người Trung Hoa hay gọi là Thổ) ở trên. Trời, Đất ở
trên là hai vòng Âm Dương đan vào nhau, còn ở đây là hai hành xung khắc nhau
trong một thể thống nhất. Từ đây, ta cũng giải thích được vì sao ông Thần Đất có
hình dáng Rồng. Quái Ly đặc trưng về ý nghĩa triết học cho Bếp, ngược lại quái
Khảm đại diện triết lý cho ông Công, Thần Đất vì thế khi nói đến Thần Đất người
ta hay liên hệ đến giống Rồng=chúa tể của các loài thủy tộc.
10.
Cá chép phải vượt qua ba con sóng?
Từ Thủy-Khảm-Sông nơi sinh sống của các loài thuỷ tộc, cá chép phải vượt qua 3
ghềnh thác cao là Cấn, Ly, Càn qua cửa biển – Đoài qua Vũ môn vào Trời-Càn và
thành Rồng (cũng thuộc Thủy) ở Khảm. Kết thúc một vòng.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Trần Quang Bình
|
|