Những bài viết cùng tác giả
Từ nhỏ tôi vẫn thích viết lách nhưng yên trí nếu
không làm thơ thì cũng viết truyện ngắn, truyện dài,
không bao giờ ngờ rằng một ngày kia mình lại có thể
"say mê" đi vào con đường "khô khan" là nghiên cứu,
biên khảo.
Tôi bước chân vào ngành biên khảo một cách rất tình
cờ : Như đã nói trong "Lối Xưa Xe Ngựa... ", khoảng
1985, tôi mua được quyển Quand les Français
découvraient l'Indochine (Khi người Pháp tìm ra
Đông-dương) của Charles Daney trong có loạt ảnh do
Salles chụp cảnh lễ Xướng Danh trường Hà-Nam khoa
Đinh-Dậu (1897), ảnh rất rõ và đẹp. Tôi đã đọc Lều
Chõng của Ngô Tất Tố và Bút Nghiên của Chu Thiên nên
đã biết Khoa cử nhưng nay mới thấy tận mắt quang
cảnh trường thi là thế nào, Khảo quan, lính hầu, Tân
khoa ăn mặc ra sao... Tôi như người được du lịch
ngược thời gian. Thích quá, tôi đã tìm đến tận kho
ảnh để xem toàn bộ, chọn thêm được mấy cái nữa. Từ
đấy tôi nẩy ra ý muốn săn tìm tất cả những ảnh chụp
về Khoa cử để in thành sách cho mọi người cùng được
thấy quang cảnh trường thi ngày xưa, đồng thời cũng
là một cách bảo tồn những tấm ảnh lịch sử quý hiếm.
Nhìn quang cảnh sĩ tử nhập trường cắp lều chiếu nhẹ
thênh thênh, tôi liên tưởng đến đoạn Ngô Tất Tố tả
trong Lều Chõng : "Hàng vạn con người cùng một lối
trang sức như nhau : sườn này cái chõng tre và bộ
gọng lều, sườn kia thì bó áo tơi và cuộn áo lều hoặc
một đôi chiếu cói ; trên ngực quả bầu be và chiếc
ống quyển ; dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp
sơn. Bấy nhiêu đồ vật nặng có nhẹ có, lớn có bé có,
dài có ngắn có, hết thẩy xúm lại và đu cả lên cái cổ
yếu ớt của các ông thư sinh. Hình như Trời cũng bắt
tội các nhà nho trước khi bước lên đường công danh
đều phải tập làm việc của bọn phu trạo". Linh hoạt
thì có linh hoạt nhưng... không giống ảnh !
Tôi để ra một năm đi thăm các kho ảnh ở Paris mới
biết là trừ Salles ra còn thì lác đác đó đây chỉ có
vài cái chụp Khảo quan hoặc trường thi với các dẫy
lều Thí sinh. Charles Daney cho biết Thư Viện Quốc
Gia có hai cái. Tôi đi năm lần bẩy lượt cũng không
ai biết ảnh nằm đâu, phải quay lại hỏi Daney lần
nữa. Cuối cùng, vẫn không tìm ra, họ đành dẫn tôi đi
thang máy xuống cả chục từng hầm như vào Mê hồn
trận, rồi bỏ tôi một mình ở đấy mặc sức tìm và cũng
mặc sức... sợ. Ví thử họ quên, không quay lại thì
tôi biết đằng nào mà lần ? Ở dưới hầm sâu mấy từng,
chung quanh những sách là sách, dù gọi khản cổ cũng
chẳng ai nghe thấy ! Rút cục tôi cũng tìm ra hai cái
ảnh ấy nhưng thất vọng vì là loại Bưu thiếp, một cái
chụp trường thi và lều các Thí sinh, một cái chụp
trống thu quyển, ảnh đã nhỏ lại mờ, cũng không chú
thích rõ ngày tháng như Salles.
Khi đã đi lùng hết các kho ảnh ở Paris, tôi định
bụng sẽ cho ra một quyển sách loại phổ thông mà chủ
lực là tranh ảnh kèm theo thơ văn liên quan đến thi
cử, còn phần chú thích của tôi sẽ rất khiêm tốn, tôi
tự biết mình không phải "nhà nghiên cứu" và định
bụng viết xong quyển này là sẽ ngừng. Mục đích của
tôi chỉ để giới thiệu loạt ảnh Khoa cử và văn hóa
Việt-nam cho Việt kiều -những người vì hoàn cảnh nên
có lẽ biết nhiều về văn hóa nước người hơn văn hóa
nước mình- và những người ngoại quốc muốn tìm hiểu
sơ qua về văn hóa Việt-nam. Tôi còn có ý muốn giúp
Việt kiều thế hệ thứ hai (không thông thạo tiếng mẹ
đẻ) cùng những người ngoại quốc đang học tiếng Việt
và những người Việt đang học tiếng Pháp, nên viết
loại song ngữ Việt-Pháp, dịch khá công phu để họ có
thể đối chiếu mà trau giồi thêm Pháp ngữ hay Việt
ngữ. Quyển này viết xong từ năm 1989 nhưng tạm thời
xếp trong ngăn kéo vì không có thì giờ tìm nhà xuất
bản.
Săn ảnh tuy mất công nhưng không thấm vào đâu với
việc chú thích mà lúc đầu tôi tưởng dễ dàng, bắt tay
vào mới nhận ra sách sử của ta mỗi người chép một
phách, biết tin ai ? Thí dụ Ngô Tất Tố tả cảnh vinh
quy thì cho cờ biển đi trước, nhưng Chu Thiên lại
viết là kèn trống dẫn đầu. Có người gửi cho tôi một
tờ báo của các phụ lão ở Mỹ, thấy có cụ tuyên bố đã
từng chứng kiến tới ba đám rước vinh quy, tôi mừng
quá, cậy cục xin địa chỉ, một năm sau mới được, hóa
ra tác giả sống ngay vùng Paris như tôi ! Tôi đã gập
và đặt câu hỏi trong đám rước vinh quy cái gì đi
trước thì cụ lắc đầu :"Không nhớ được. Lúc ấy tôi
mới có 8 tuổi". Tôi gặng :"Nhưng cụ nói đã chứng
kiến tới ba đám vinh quy, vậy thì hai đám kia thế
nào ?". Cụ vẫn lắc :"Lại càng khó nhớ vì một lần tôi
chỉ có 3 tuổi, còn lần kia mới được 8 tháng, vú em
còn ẵm ngửa trên tay" !
Có người bạn sau khi đọc bài :"Ai là chủ khảo trường
Hà-nam khoa Đinh-Dậu?" bảo tôi :"Đọc chị như đọc
Agatha Christie". Tôi biết bạn tán dương cho vui,
nhưng có một nhận xét đúng : quả tôi rất ham đọc và
xem những phim truyện trinh thám, đoán trúng ai là
hung phạm thì lấy làm thích thú. Viết nghiên cứu
cũng tương tự : khi giải quyết được một nghi vấn thì
có phần còn hứng thú hơn nữa. Những nghi vấn đầu
tiên do loạt ảnh của Salles đem lại cho tôi. Thoạt
đầu tôi khám phá ra cái ảnh mà Salles chú là "Giám
sát Thân Trọng Koái" thì Trần văn Giáp lại chú là
"Phó Chủ khảo Nguyễn Gia Thoại", song cả hai đều đã
mất, biết hỏi ai ? Tôi bàn với Daney và chúng tôi
đồng ý là Trần văn Giáp tất nhiên hiểu biết về Khoa
cử hơn Salles, Daney còn yêu cầu tôi sửa hộ chú
thích của Salles theo Trần văn Giáp. Tôi phóng bút
sửa ngay, còn lấy làm hãnh diện đã giúp cho người
Pháp chỉnh lại đúng sự thật, sau mới biết là mình
thiếu kinh nghiệm, quá hấp tấp.
Như tôi đã kể trong "Lối Xưa Xe Ngựa...", tôi nghĩ
vấn đề Thân Trọng Koái / Nguyễn Gia Thoại có thể
giải quyết bằng cách tìm thành phần Khảo quan trong
Quốc triều Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục, nhưng
Hương Khoa Lục lại không chép tên các Giám sát,
ngược lại, cho biết Cao Xuân Dục là Chủ khảo khoa
1894 chứ không phải Chủ kháo khoa 1897 như ảnh của
Salles ghi chứng. Ảnh cũng cho thấy khoa Cao Xuân
Dục làm Chủ khảo thì Paul Doumer có đến chứng kiến
lễ Xướng danh. Nhờ tình cờ đọc Hồi Ký của Paul
Doumer mới biết Doumer chỉ sang làm Toàn quyền từ
1897, tức là khoa 1894 Doumer còn ở Pháp, Hương Khoa
Lục đã chép nhầm.
Có lẽ Trần văn Giáp cũng nhận thấy chỗ không ổn giữa
Hương Khoa Lục và Salles nên mới chú thích loạt ảnh
của Salles kiểu "nước đôi" : "Kỷ niệm thi Nam khoa,
Thành-thái Giáp-Ngọ và Đinh-Dậu ". Chú thích như thế
tỏ ra tác giả thận trọng, chưa giải quyết được thì
tồn nghi, nhưng không ổn ở chỗ mỗi khoa người ta đề
cử một ban Giám khảo mới, không thể nào cùng một ban
Giảm khảo lại được cử đi chấm hai khoa thi liên tiếp
cùng một trường.
Vấn đề ảnh Giám sát Thân Trọng Koái hay Phó Chủ khảo
Nguyễn Gia Thoại rồi cũng được giải quyết khi tôi
giở ảnh của Salles ra ngắm lại, thấy Thân Trọng Koái
trẻ và không có râu, trong khi Phó Chủ khảo là người
ngồi cạnh biển Phụng Chỉ trong ảnh Tân khoa chào
Khảo quan, và là người ngồi cạnh Chủ khảo Cao Xuân
Dục trong ảnh chụp toàn ban Giám khảo, lại là một
người đã có tuổi và để râu, như vậy là Trần văn Giáp
chú thích nhầm, người trẻ tuổi và không râu không
thể là Phó Chủ khảo Nguyễn Gia Thoại.
Vụ Thân Trọng Koái / Nguyễn gia Thoại dẫn tôi chú ý
đến cái biển Phụng Chỉ
奉
(phụng)
旨
(chỉ)
viết một cách kỳ quặc : một
chữ lớn ở trên, một chữ nhỏ ở dưới, nép sang bên
phải. Tôi không biết chữ nho, nhờ mẹ tôi đọc hộ. Mẹ
tôi đọc là Phụng chỉ, tôi hỏi tại sao biển còn thừa
chỗ mà lại viết chữ dưới nhỏ và lệch sang một bên,
trông trống chếnh, không cân đối, mẹ tôi lắc đầu
không biết. Tôi vẫn yên trí chữ trên là Phụng, chữ
dưới là Chỉ cho đến khoảng bẩy năm sau, khi soạn
quyển "Lối Xưa Xe Ngựa...", tôi đem tự vị ra tra mới
rõ chữ trên là Chỉ, chữ dưới là Phụng. Tôi lấy làm
lạ sao lại đọc chữ dưới trước chữ trên. Lúc ấy mẹ
tôi đã mất nên không hỏi được, sau mới nghĩ ra chữ
nho đọc từ phải sang trái, nhưng cũng chưa giải
quyết được tại sao có chữ to chữ nhỏ, chữ đọc sau
lại ở trên, chữ đọc trước ở dưới. Tôi đã biết lệ
luật trường quy nhưng phải một thời gian sau mới
tình cờ "giác ngộ", đem ráp hai chuyện làm một và
hiểu rằng cái biển không làm gì khác hơn là áp dụng
luật trường quy : chữ Phụng trỏ vào ông quan nên
phải viết nhỏ lại, chữ Chỉ trỏ vào công việc làm của
vua làm nên phải đài lên cao một bực. Sở dĩ mẹ tôi
không hiểu là vì thời xưa phụ nữ không được đi thi
nên mẹ tôi không học đến luật trường quy. "Giác ngộ"
rồi, tôi mừng tưởng còn hơn bắt được vàng !
Ngoài những thích thú khi giải quyết được một vấn
đề, nghiên cứu còn dậy tôi hai bài học : dè dặt và
kiên nhẫn. Phải dè dặt vì dù thận trọng đến đâu cũng
không sao tránh khỏi sai lầm. Kinh nghiệm cho biết
có những điều thoạt nghe tưởng không có gì đáng nghi
ngờ, như Nguyễn Công Trứ đỗ Tiến-sĩ, lại hóa ra sai,
Nguyễn Công Trứ chỉ đỗ Giải-nguyên, tức đỗ đầu thi
Hương.
Khi viết về Lê văn Duyệt thì trong số những sách tôi
đọc chỉ có một quyển viết là "Lê văn Duyệt đã giúp
vua đánh Trịnh, dẹp Tây sơn". Tôi lấy làm "đắc chí"
đã tìm thấy một chi tiết ít người biết, chép ngay mà
không kiểm lại. Sách in ra, tôi nhận được thư của
một độc giả viết :"Lê văn Duyệt mà muốn đánh Trịnh
thì phải vỗ đùi nhẩy qua đầu Nguyễn Huệ". Tôi sửng
sốt, vì yên trí Lê văn Duyệt có đánh nhau với Hoàng
Ngũ Phúc, sau tính lại thì thời Hoàng Ngũ Phúc Nam
chinh Lê văn Duyệt, cũng như Nguyễn Ánh, chỉ mới
khoảng mười tuổi, chưa thể cầm quân đi đánh trận.
Thấy người viết thư là người duy nhất chú ý đến tiểu
tiết này lại họ Trịnh, tôi hỏi có phải dòng dõi chúa
Trịnh không, quả nhiên đúng.
Bài học thứ hai là để giải quyết một nghi vấn thì
phải kiên nhẫn đọc thật nhiều - có khi đọc cả tháng
không tìm ra cái muốn tìm mà lại ra cái không định
tìm- và kiểm tra thật kỹ. Như tôi đã viết trong bài
"Hô Xuân
Hương- "Rút nhầm tơ duyên...", ai cũng
biết Nguyễn Du đỗ tam trường, nhưng là thi Hương hay
thi Hội, thi ở Thăng-long hay ở Sơn-nam, thi năm 17,
18 hay 19 tuổi thì không ai biết đích xác. Theo tôi,
thi Hương, như tên đã nói rõ, là thi ở quê hương
mình. Nguyễn Du quê ở Nghệ-tĩnh thì phải thi ở
trường Nghệ như người cháu năm đời là Nguyễn Mai, đã
đỗ Cử-nhân khoa 1900 tại trường Nghệ. Thăng-long chỉ
là nơi Nguyễn Du sinh trưởng, Nguyễn Du chỉ có quyền
xin phụ thí ở Thăng-long nếu cha đang làm quan ở
đấy, nhưng ai cũng biết Nguyễn Du mồ côi cha từ mười
tuổi. Còn Sơn-nam là quê vợ thì Nguyễn Du không có
lý do gì để được thi ở Sơn-nam cả.
Nhiều người như GS Hoàng Xuân Hãn khẳng định là
Nguyễn Du đỗ Sinh-đồ, tức đỗ tam trường thi Hương,
có lẽ vì nghĩ Nguyễn Du chân trắng tất phải bắt đầu
bằng thi Hương. Sự thực, theo tôi, Nguyễn Du có cha
làm quan to nên được hưởng lệ tập ấm, miễn thi
Hương, chỉ cần đỗ một kỳ khảo hạch là có quyền thi
Hội, và vì đỗ tam trường thi Hội không có tên gọi
riêng như đỗ tam trường thi Hương (gọi là Sinh-đồ
thời Lê, Tú-tài thời Nguyễn) nên người ta mới chép
lửng lơ là "đỗ tam trường". Dĩ nhiên thi Hội là phải
thi ở kinh đô chứ không thể thi ở Sơn-nam.
Theo Khoa Mục Chí của Phan Huy Chú thì Thăng-long
chỉ tổ chức thi Hội vào những năm :
1781 khi Nguyễn Du được 17 tuổi ta ;
1785 khi Nguyễn Du đã rời Thăng-long lên
Thái-nguyên.
Còn năm 1783, Nguyễn Du 19 tuổi, thì không có khoa
nào cả. Cho nên tôi kết luận rằng : Nguyễn Du chỉ có
thể thi Hội ở Thăng-long, năm 1781,17 tuổi ta.
Tuy nhiên, đọc nhiều cũng chưa đủ, thành công một
phần không nhỏ còn nhờ ở may rủi, nếu đọc không đúng
lúc cần thì có đọc cũng như không. Còn nhớ khi mới
bắt đầu tìm tài liệu về Khoa cử có người cho tôi
mượn bộ Bóng Nước Hồ Gươm của Chu Thiên, lúc ấy tôi
chỉ chú tâm tìm hiểu về Khoa cử, ngoài ra đọc lướt
qua. Năm 1996, đọc tới đoạn Toàn quyền Pierre
Pasquier kể chuyện năm 1898 ông ta cùng viên Công sứ
ở "Cau Do" đã chứng kiến một quang cảnh lạ lùng :
Dân chúng võng lọng khiêng trả nhà nước một ông quan
huyện vì ông này không do Khoa mục xuất thân mà do
người Pháp cất nhắc (vì đã có công cộng tác đắc lực
với chính phủ Bảo hộ). Pasquier viết tiếng Pháp nên
"Cau Do" không có dấu, tôi tự hỏi "Cau Do" là gì,
tìm mãi trong các sách địa dư cũng không ra. Đầu năm
2000, mua được bộ Bóng Nước Hồ Gươm, đọc lại, đến
gần cuối mới thấy Chu Thiên đã giảng rành mạch "Cầu
Đơ" là tên của Doumer đặt cho Hà-nội, lần đọc trước
tôi không lưu ý đến chi tiết này.
Không phải lúc nào tôi cũng may mắn giải quyết được
như trên. Khi viết chương "Đề mục" của Thi Hương,
tôi trích J. Boissière, chép một đề mục khoa 1894
:"En hiver, on creusa la rivière de Thu", tôi dịch
là "Về mùa đông, người ta khơi con sông Thu " nhưng
chữ Thu J. Boissière viết không có dấu nên tôi không
hiểu là sông Thu, sông Thù, sông Thú, sông Thủ, sông
Thư vv. ? Tôi đọc lại Đông Chu Liệt Quốc, Trung Quốc
Sử Cương, Tứ Thư, Ngũ Kinh -trừ Kinh Lễ và Kinh Xuân
Thu chưa mua được- cũng không tìm ra. Một người bạn
cho biết nước Lỗ có con sông Thù, Khổng tử thường ra
đấy giảng đạo, nhưng chi tiết này chẳng ăn nhập gì
với đề mục vì trong một bài làm mà J. Boissière tả
là được các Khảo quan khuyên chằng chịt xanh đỏ
khiến người ta có cảm tưởng như đứng trước một vườn
hoa xuân, có câu :"Đúng là về mùa đông, vua nước Lỗ,
thiếu suy xét, đã cho khơi con sông Thu để bảo vệ
kinh thành", rõ ràng đầu đề không nói về đạo Khổng
mà nói về vấn đề bảo vệ nước. Giữa năm 2000 tôi mới
mua được quyển Kinh Lễ, trong có đoạn nói tới sông
Thú, nhưng phần chú thích lại chép là Thù. Tôi kết
luận chắc tên con sông là Thù nhưng vẫn chưa tìm ra
điển tích.
Những sách nòng cốt về Khoa cử (Lịch Triều Hiến
Chương - Khoa Mục Chí của Phan Huy Chú hay Quốc
triều Hương khoa lục và Đăng khoa lục của Cao Xuân
Dục) viết tỉ mỉ về số người đỗ, song lại sơ sài về
các đề mục vv. Ngoài ra không phải là không có những
chỗ sai lầm hoặc thiếu minh bạch. Thí dụ : khi Phan
Huy Chú viết là "thi Cử-nhân" thì phải hiểu là "thi
những người đã đỗ Cử-nhân" tức thi Hội, chứ không
nên hiểu theo ngày nay là "thi để đỗ Cử-nhân".
Không những thế, Phan Huy Chú chỉ chép về Khoa cử từ
nhà Lê về trước, Cao Xuân Dục chỉ chép Khoa cử thời
nhà Nguyễn, phải đợi đến Dương Quảng Hàm, Trần văn
Giáp, Tuyết Huy vv. mới thấy những bài viết bao quát
đầy đủ từ nhà Lý khai khoa đến nhà Nguyễn bãi Khoa
cử, nhưng lại là những bài chỉ gồm mấy chục trang,
quá sơ lược. Quyển Khoa cử và Giáo dục Việt-nam của
Nguyễn Q. Thắng tuy viết đứng đắn nhưng vẫn khái
quát.
Để có một quyển sách về Khoa cử tương đối đầy đủ tôi
cũng viết từ thời nhà Lý đến nhà Nguyễn, kèm theo
tranh ảnh minh họa. Như trên đã nói, tôi khởi sự từ
năm 1985, đến năm 1989 thì viết xong quyển Khoa cử
loại phổ thông. Năm 1997 tôi đem ra sửa lại, viết tỉ
mỉ hơn, do đó nhận ra có một số vấn đề mà khi viết
loại phổ thông tôi không thấy và các bậc đi trước
cũng không đề cập đến. Thí dụ ngày nay có ít nhất là
năm người viết rằng thời xưa đi thi chỉ học Bắc sử
(sử Trung quốc) còn Nam sử (sử Việt-nam) phải đợi
người Pháp sang cải cách Khoa cử (1909) mới đưa vào
chương trình. Tôi rất lấy làm ngờ vì trong non một
nghìn năm tự trị ta dùng Khoa củ kén người ra cầm
quyền chính, ngay từ đầu đã biết thi văn sách hỏi về
thời vụ nước Nam, thế mà trong non một nghìn năm ấy
lại không có một ai nghĩ đến chuyện đưa Nam sử vào
chương trình học thi hay sao ? Lý thì như vậy nhưng
phải có bằng chứng. Tìm cả tháng trời trong các đề
mục thi không thấy, sau phải chuyển sang tìm trong
chương trình học thi mới được Dương Quảng Hàm cho
biết trong số các sách học vỡ lòng có quyển Sơ Học
Vấn Tân dành gần một phần ba dậy Nam sử, nhưng lại
không nói sách viết từ thời nào và ai là tác giả.
Tình cờ ít lâu sau đọc Văn Đàn Bảo Giám mới hay
trong số những tác phẩm của Trương Vĩnh Ký có Sơ Học
Vấn Tân nhưng cũng không có thêm chi tiết nào khác.
Phải giở Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký của
Bằng Giang mới biết năm 1877 T.V. Ký đã dịch và in
Sơ Học Vấn Tân đích xác vào năm 1884, tức năm ký
Điều ước Giáp Thân (Patenôtre) công nhận cuộc Bảo Hộ
của người Pháp. Rõ ràng Nam sử đã được đem dậy ấu
học từ trước khi Pháp đô hộ ta. Sau này đọc lại Khoa
Mục Chí tôi mới thấy đoạn Phan Huy Chú trích bản
khải của Ngô Thì Sĩ gửi chúa Trịnh Sâm có câu : "Học
trò làm văn chỉ vụ ý quan trường (...) về quốc sử và
thời vụ chỉ biết qua loa, trả lời cẩu thả...". Hiển
nhiên, it ra là từ thời Lê Trung Hưng, quốc sử đã có
trong chương trình đi thi.
Sang thời Nguyễn, Thực lục chép :"Năm Minh-Mệnh 18
(1838), Ngự sử Nguyễn văn Đạt dâng sớ xin cho các đề
thi lấy ở Kinh Truyện và Nam sử làm phần chính, Bắc
sử làm phụ. Vua truyền cho bộ Lễ bàn xét. Bộ Lễ tâu
xin cho sửa lại những bộ sử cũ làm thành "Lịch Đại
Nam Việt Sử Ký" để dùng trong việc thi cử ". Bằng
chứng rành rành là không phải đợi người Pháp sang
Bảo hộ ông cha ta mới biết đưa Nam sử vào chương
trình học thi.
Có những nghi vấn tôi mất nhiều năm mới giải quyết
được, vì thế, để tránh cho người đi sau đỡ mất thì
giờ tìm kiếm những điều tôi đã tìm ra, tôi quyết
định gửi bài đăng báo.
Đối với những nghi vấn chưa giải quyết được một cách
ổn thỏa như "giấy trung chỉ", "biếm một tư" là gì,
tôi đều hỏi người chung quanh nhưng thường được trả
lời đại khái :"Chị hỏi toàn những câu hóc búa !" tôi
đành chép lại nguyên văn để tồn nghi.
Khi sửa lại quyển Khoa cử (1997), tôi tính chỉ cần
lấy sách ra điền thêm những chi tiết tôi đã thu thập
được trong bấy lâu là xong. Sự thật, điền thêm những
chi tiết mới thì dễ, nhưng điền xong đọc lại thấy
như cái áo vá, rời rạc. Thế là tôi đành ngồi viết
lại từ đầu, song những sách đọc từ hơn mười năm
trước nay quên gần hết, phải đọc lại ! Vì có quá
nhiều tư liệu, mặc dầu đã bỏ phần Pháp ngữ, tôi vẫn
phải san sách thành haì quyển :
- Tập Thượng dành cho thời kỳ "Dùi mài kinh sử" và
"Thi Hương", kể như đã viết xong, gồm hơn 200 trang
khổ to (21x29,7) và khoảng 80 cái vừa tranh vừa ảnh
;
- Tập Hạ gồm "Thi Hội -Thi Đình" và "Phụ lục", dự
tính hoàn tất trong ba năm nữa.
Ngay từ khi khai thác các tài liệu của người Việt
tôi cũng đồng thời tìm đọc những sách báo của người
Pháp viết về Khoa cử. Khi Pháp chiếm được nước ta
rồi họ liền tìm cách củng cố chủ quyền, tìm hiểu văn
hóa người bản xứ và dĩ nhiên họ đặc biệt lưu ý đến
Khoa cử là chỗ đào tạo ra vua quan là những người
nắm giữ vận mệnh nước Nam. Họ đã quan sát Khoa cử
với cặp mắt tò mò, mới lạ. Những bài tường thuật của
họ có nhiều chi tiết mà sách sử của ta không mấy lưu
ý, chẳng hạn ghi rõ ngày khai khoa, ngày bế mạc (âm
lịch và dương lịch), số người dự thi, số người đỗ
mỗi kỳ, đề mục vv. Nếu đem phối hợp với những chi
tiết của người mình chỉ chú trọng đến số người đỗ và
bản thân người đỗ vv. thì ta có thể có một cái nhìn
tương đối khá chính xác và đầy đủ về Khoa cử cuối
thời nhà Nguyễn.
Tuy người Pháp chép ghi tỉ mỉ nhiều chi tiết đáng
tin cậy, song khi sử dụng tài liệu của họ chúng ta
vẫn phải dè dặt vì văn hóa khác nhau, dễ có chỗ hiểu
nhầm. Bác sĩ Hocquard kể năm 1892 có đến thăm trường
thi Hà-nội sau khi bế mạc và thấy tận mắt những mảnh
giấy niêm phong phòng thi của các Thí sinh. Hocquard
không thể hiểu rằng người ta lại có thể niêm phong
phòng để giam các Khảo quan. Điều đáng tiếc là vì
Hocquard vìết sai nên giắt dây cho những người Pháp
đi sau ông cũng nhầm theo : P. Doumer chép theo
Hocquard, rồi đến lượt Daney lại chép theo Doumer
vv.
Không những văn hóa khác nhau nên có chỗ hiểu lầm,
tôi cho đôi khi người Pháp còn xuyên tạc sự thật để
tự bênh vực. Thí dụ Doumer viết rằng sở dĩ phong
trào Văn thân bùng nổ mạnh là vì các nhà nho đi thi
hỏng nên bất mãn với chính quyền, Doumer tỏ ra không
đếm kể đến tinh thần bất khuất và bất vụ tư lợi của
các nho gia chân chính.
Trên đây tôi chỉ sơ lược một số khó khăn tôi đã gập
trong giai đoạn đầu tức giai đoạn tìm tài liệu và
giải quyết những nghi vấn mà bất cứ ai nghiên cứu
cũng gập. Giai đoạn sau chắc là những khó khăn của
riêng tôi : Sang Pháp từ 1952, tôi vẫn nói và viết
tiếng Việt trôi chẩy nên không ngờ mình có thể gập
khó khăn khi viết sách. Quyển Métisse blanche của
Kim Lefèvre tôi loay hoay mãi rồi dịch loanh quanh
là Đứa con gái lai bạch chủng, biết là lê thê, không
gọn, nhưng không tài nào nghĩ ra hai chữ Đầm lai !
Hóa ra tôi chỉ không quên những tiếng thông dụng
hàng ngày, đến khi cần tìm chữ thích hợp mới thấy
tìm không ra. Để khỏi đứt mạch tư tưởng, tôi thường
tạm thời chêm tiếng Pháp hay tiếng Anh, sau đó mới
lấy tự vị tra để dịch sang tiếng Việt. Song tự vị
thường không đủ chữ, tôi phải đọc lung tung, hễ gập
một chữ diễn tả đúng ý muốn là ghi ngay lên giấy,
thành ra trên bàn học, đầu giường... chỗ nào cũng có
một tờ giấy chi chít những chữ chẳng ăn nhập gì với
nhau, chỉ có tôi mới biết chữ nào dùng để sửa ở bài
nào, đoạn nào. Sửa xong, đọc lại thấy không còn là
thứ văn dịch ngô nghê nữa tôi mới gửi bài đi. Lúc
đầu tôi giấu kín không cho ai xem những tờ giấy chép
chữ đó nhưng có một lần sơ ý để một người trông thấy
nhặt lên tò mò đọc rồi ngẩn người ra, tôi giật lại
không kịp!
Có người phỏng vấn hỏi tôi tại sao sống ở Pháp lâu
năm, vào thời buổi này thiếu gì chuyện để viết mà cứ
viết đi viết lại mãi một đề tài Khoa cử ? Như trên
đã nói, tôi chọn đề tài Khoa cử thoạt đầu chỉ vì
tình cờ được trông thấy loạt ảnh của Salles, sau đó
vì cần chú thích ảnh tôi phải đọc sách và khám phá
ra sách sử của ta viết không giống nhau, cần phải
tìm xem ai nói đúng, rồi nhờ tìm ra được những bằng
chứng để giải quyết một số nghi vấn, tôi thấy vui
thích với công việc mình làm. Ấy là chưa kể nhờ đọc
sách tôi đã học hỏi được nhiều, mở rộng kiến thức,
sửa được những ý nghĩ sai lầm của mình : Khoa cử
không phải chỉ thi thuần văn chương (concours
littéraires) mà kỳ thi văn sách hỏi thuật trị nước
mới là kỳ thi trọng yếu. Có tìm hiểu Đạo Nho tôi mới
biết rằng vua quan không phải chỉ là những người
ngồi không hưởng thụ, nắm quyền uy vv. mà họ đều
phải học bổn phận và có trọng trách. Bảo Đại khi
sang Pháp du học cũng có một ông quan theo sang để
kèm dậy bổn phận làm vua theo đạo Nho. Dĩ nhiên
không phải vua quan nào cũng thực hành triệt để
những điều mình học, song cũng không phải họ ở ngôi
cao chỉ nhờ vào chế độ "cha truyền con nối".
Một lý do cũng rất chính đáng để tìm hiểu Khoa cử là
vì Khoa cử liên quan mật thiết đến vận mệnh của nước
Nam. Trong non một nghìn năm tự trị ta đều đùng Khoa
cử để kén người ra cầm quyền chính, đều hỏi về thuật
trị nước của Nho giáo, dựa trên trật tự xã hội, giáo
dục và đức độ. Khoa cử và đạo Nho đã đào tạo ra
những ông vua tuy không tránh khỏi những sai lầm
nhưng đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ, những ông quan
có công giữ nước, trị dân, giúp vun trồng những đức
tính tốt của người dân, biết phân biệt phải trái,
biết tự trọng. Mặc dầu người Việt ngày nay không mấy
ai còn biết đến đạo Nho hay Khoa cử là gì nữa, song
tính hiếu học và nếp sống đạo đức đã in sâu vào tâm
hồn, cốt tủy chúng ta. Tôi nhận thấy người Pháp
quanh tôi thường tỏ ra trọng người Việt, không những
vì những thành quả ở mặt trí thức mà còn ở phong
cách. Riêng đối với nước Việt, phần đông người Pháp
chỉ biết trước là thuộc địa của họ và không thiếu gì
người yên trí Pháp đã sang khai hóa cho ta. Nhờ hiểu
biết rõ Khoa cử, tôi có thể cho họ thấy rằng
Việt-nam đã có một tổ chức xã hội có quy củ từ lâu,
đặc biệt đã biết đùng Khoa cử từ thế kỷ thứ XI trong
khi Pháp chỉ biết dùng thi cử để kén người từ thế kỷ
XIX.
Khoa cử không phải chỉ là những kỳ thi văn chương
thơ phú vô bổ, không phải chỉ đào tạo ra hạng tham
quan ô lại, vua chúa chuyên chế, lộng hành. Đạo Nho
đã cũ từ mấy nghìn năm song đến nay vẫn có chỗ đắc
dụng như vấn đề giáo dân. Người Tây Âu trọng tự do
cá nhân, thả lỏng con em quá nên ngày nay thiếu niên
du đãng và bạo hành ngày một nhiều và nước Pháp bắt
đầu thấy cần phải đem chương trình giáo dục công dân
vào chốn học đường để trẻ em hiểu rằng sống trong xã
hội chúng cũng có bổn phận chứ không phải chỉ có
quyền đòi hỏi mà thôi. Mấy năm gần đây, nước Pháp
"tiến bộ", cho những người đã trót gây tội lỗi được
phép lấy công chuộc tội vv. song điều này không có
gì mới lạ đối với xã hội Việt-nam xưa.
Khoa cử quan trọng đối với nước ta như thế song ngày
nay phần đông chúng ta chỉ hiểu Khoa cử một cách lờ
mờ, muốn tìm một quyển sách viết tương đối cặn kẽ về
Khoa cử lại không có. Trước kia tôi có ý định thu
vào một quyển tất cả những văn thơ liên quan đến
Khoa cử và tất cả những sách báo viết về Khoa cử
nhưng nay xét ra khó lòng thực hiện được.
Nguyễn thị Chân Quỳnh
Châtenay-Malabry, 11/12/2000
|