Cuối
tháng tám vừa qua, ở Trung
tâm Văn hóa tỉnh Quảng Bình,
397 học bổng đã được phát
cho những sinh viên và học
sinh quê gốc các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Hà Tĩnh.
Số tiền học bổng trên 1,6
triệu đồng được phân ra 60%
cho sinh viên và 40% cho học
sinh. Nhận được học bổng là
những sinh viên và học sinh
học giỏi và nghèo, trong
những năm học qua đã biết
vượt khó, chăm học để đạt
được những thành tích vẻ
vang. Tiền học bổng do một
nhà hảo tâm người Pháp, ông
Odon Vallet, cung cấp. Cách
đây mấy năm, ở Pháp đã có
thấy đăng báo chuyện một
sinh viên Việt Nam trẻ tuổi
thành công học hành nhờ học
bổng của ông : Nguyễn Hải
Đang, với nét mặt hân hoan
trong bộ quân phục mới tinh
trường quân sự có tiếng Bách
Khoa
Ecole Polytechniqueee,
thường được gọi tắt là X. Vẻ
rụt rè sau cái mũ hai mũi
đặc biệt của trường che dấu
một một nỗi hãnh diện chính
đáng của kẻ thành công. Quê
gốc Nghệ An, anh sinh ra
trong một gia đình khiêm
tốn, nhờ thiên tài toán học,
đã dần dần leo lên bậc cao
nhất các nấc thang học vấn :
trung học ở Hà Nội, dự thí
sinh Olympiades toán học
toàn thế giới, rồi vào tuổi
17, được nhận vào trường kỹ
sư INSA ở Rouen. Đổ bộ lên
đất Pháp, tài chánh không
dồi dào, sinh ngữ còn bập
bẹ, nhưng ngôn ngữ vật lý,
cơ học là vạn năng, và với
một ý chí vô bờ, anh đạt đến
đích. Hơn nữa, anh thành
công thi đậu vào trường Bách
Khoa. Anh giải thích anh
muốn thỏa thích mong muốn
của cha mẹ anh và người em
tàn tật đã đặt mọi hy vọng
vào anh. Và tất các các kết
quả nầy không sao thể hiện
được nếu không có học bổng
3000 euros của ông Odon
Vallet biếu tặng. Vị ân nhân
thanh minh, khi ông được
phỏng vấn : tiền nầy là để
các sinh viên trẻ khỏi phải
chạy làm những công việc nhỏ
nhặt, dành mọi thì giờ cho
việc học hành…
Odon
Valet là ai ? Pierre,
Maurice, Marie, Odon Vallet
sinh ra ở Paris, quận 8,
ngày 03 tháng chín 1947.
Thân phụ ông, Jean Vallet,
xuất thân thợ thuyền, hồi
nhỏ giữ dê, chịu khó học
hành, tháo vát để trở nên
giám đốc một công ty bảo
hiểm GPA-Athéna. Mồi côi
cha, chết trong một tai nạn
xe hơi năm 1954, từ hồi lên
bảy, ông được bà mẹ, Aubin
de Blanpré, nữ khán hộ, chăm
lo công việc giáo dục : lần
lượt trường tiểu học công
giáo Bossuet, rồi các trường
trung học
Montaigne và
Louis-le-Grand ở
Paris. Năm 1964, ông cũng có
học trường trung học cao độ
ở Briançon, bồi dưỡng những
môn chạy xe đạp, trèo núi,
trượt tuyết việt dã. Ông tốt
nghiệp trường Khoa học Chính
trị
Sciences Politiques
(1970), rồi trường Quốc gia
Hành chánh ENA (1973), được
bổ nhiệm giảng sư ở trường
Khoa học Chính trị
(1973-1989), đồng thời giảng
dạy ở các viện Đại học
Paris-I Panthéon Sorbonne và
Paris VII Denis-Diderot về
các vấn đề chính trị và xã
hội hiện đại. Ông cũng có
chân trong ban giáo huấn
khoa cử nhân và cao học hành
chánh và luật pháp công
cộng. Ông còn đảm nhiệm mục
trả lời bạn đọc (Forum
Odon Vallet vous répond)
trong báo Thế giới các đạo
giáo
Le Monde des Religions.
Ông đã qua Á châu hơn ba
mươi lần, kết thúc cuộc đời
thi cử với hai bằng tiến sĩ
luật học (1985) và khoa học
tôn giáo (1994).
Cách đây
khoảng 25 năm, ông hưởng
được từ thân phụ một gia tài
hơn 300 triệu francs, tương
đương với 50 triệu euros
ngày nay, một số tiền khá
lớn. Làm gì với số tiền ấy ?
Ông không muốn sống như một
nhà triệu phú. Không thèm
muốn lâu đài, biệt thự, xe
to, nhà lớn, ông đã từng kêu
than : tôi làm việc nhiều,
đâu có thì giờ để mất với
những cái phù phiếm ấy ! Ông
bảo ở nhà rộng nhiều phòng
làm gì, ông sẽ lạc lối ngay
trong nhà mình, có xe xa hoa
làm gì vì không chạy mau
được, ở đâu cũng bị giới hạn
tốc độ. Có sẵn căn hộ tươm
tất, vừa phải, ở một khu phố
ngay trung tâm Paris, cạnh
viện Đại học Assas, ông cũng
chẳng bày biện sang trọng,
mấy bức tường sắp toàn những
kệ sách tràn đầy. Đây đó vài
ba hiện vật mỹ nghệ ngoại
lai chứng tỏ ông không chỉ
giới hạn đời mình trong một
không gian eo hẹp. Hệ thống
hiện đại độc nhất là một bàn
chiếu phim lắp ráp giữa
phòng khách. Cùng với người
em, nay đã mất, sống độc
thân, không còn có ai trong
gia đình cần phải chăm sóc,
ông đã đặt câu hỏi làm sao
dùng số tiền nầy hữu ích
nhất, đồng thời đừng lầm lẫn
muốn làm việc thiện lại rơi
vào việc xấu hay bị sạt
nghiệp như nhiều tổ chức bên
Mỹ vì đi sai đường hay bị
lường gạt (ví dụ vụ Madoff).
Được
những sở hữu tinh thần lôi
cuốn hơn những của cải vật
chất, định mệnh của ông như
tuồng đã vạch sẵn từ hồi mới
sinh. Ông thân nguyên quán
vùng Cluny, ông thừa hưởng
một cái tên Odon đưa đường
chỉ hướng cho đời ông. Thật
vậy, thánh Odon là một trong
những giáo sĩ Tu viện cao
cấp Cluny, người được tương
truyền đã nghe những lời kêu
van ai oán của những linh
hồn bị đày đọa xen lẫn với
tiếng quát tháo của quỷ thần
phát xuất từ miệng ngọn núi
lửa Etna, quyết định kiếm
cách cứu giúp họ, cầu khấn
cho họ trong ngày lễ Các
thánh Toussaint. Trở nên
giàu có, ông có thể thừa
hưởng một cuộc đời dễ dàng,
nhàn hạ. Nhưng không, từ
tuổi 20, ông đã nuôi ý nghĩ
sống với đồng lương từ công
việc của mình. Thật vậy,
ngày nay với lương giáo sư
đại học, tiền nhuận bút sách
báo, tiền thù lao thời luận
trên đài truyền hình, hằng
tháng lãnh 5000 euros, ông
chẳng cần một phụ cấp nào
khác. Từng làm quản lý cho
công ty bảo hiểm GPA
(1976-1977), Athena
1977-1989), Eurasur
(1990-2002), nhà xuất bản
Gallimard Trẻ (1998-2002),
Madrigal (1990-2006), rồi
quản lý và phó chủ tịch nhà
băng Eurofin sau nầy trở
thành HSBC Private Bank,
viên chức viện Cao học Quốc
phòng IHEDN, ông rất quen
thuộc và biết cách xử lý tài
chánh. Hơn nữa, để thi hành
một thực hiện thận trọng,
ông rút kinh nghiệm trong
một cuộc đầu tư lâu dài. Nhớ
lại ông cha phải chật vật
lắm mới xoay xở học hành
được, lại là người công tác
trong ngành giáo dục là nơi
ông nghĩ kiến thức của mình
có nhiều nhất, ông kiếm cách
giúp những sinh viên, học
sinh nghèo ham học. Ông rất
tham hiểu tình cảnh những
sinh viên vừa học vừa chạy
tiền, làm việc lặt vặt mất
cả thì giờ. Ông không đem
tiền biếu tặng ngay vào một
quỹ từ thiện mà đóng góp
toàn số đã nhận được vào một
tổ chức,
Fondation Vallet,
thành lập năm 1999, dưới sự
bảo trợ của
Fondation de France.
Số tiền
50 triệu euros cách đây 25
năm, nhờ ông biết cách xử lý
nay đã tăng lên trên 130
triệu. Từ ngân quỹ nầy, ông
rút ra hằng năm 1,8% tiền
lời để làm học bổng cho học
sinh và sinh viên. Ông tính
học bổng nầy tương đương với
550 giờ bán hàng trong các
quán hàng ăn mau. Khẩu hiệu
của tổ chức : "Dự định cả
một cuộc đời, hỗ trợ của một
người bạn". Ông nhắm giúp đỡ
những sinh viên nghèo, bất
kỳ quê gốc phương nào, vào
các trường nghệ thuật ở
Paris (Boulle, Duperré,
ENSAAMA Olivier de
Serres-Estienne
ENSAD-ENSCI-EPSAA-Gobelins,
Ecole de l’Image-La Fémis),
các trường trung học chuyên
nghiệp và công nghệ trong
khu giáo dục Paris, vì chính
phủ đã có học bổng cho các
ngành đại cương. Mỗi năm,
một buổi trao học bổng được
long trọng tổ chức ở viện
Đại học Sorbonne. Ông hân
hoan bảo đây là dịp hiếm có
trong năm ông thấy mặt những
học sinh các trường trung
học chuyên nghiệp ở trong
khuôn khổ Sorbonne. Có người
hỏi tại sao lại các trường
nghệ thuật Paris thì ông trả
lời tại vì ít có sinh viên
các tỉnh được lên Paris học.
Ông còn
cho biết thêm ông cũng có
cấp học bổng cho các học
sinh, sinh viên Bénin và
Việt Nam. Theo ông giải
thích, Bénin vì nước nầy là
một trong những nước dân chủ
hiếm có ở Phi châu nói tiếng
Pháp ; Việt Nam vì ở nước
nầy kết quả học hành rất tốt
và dân gian có truyền thống
bằng cấp. Ở Bénin, 900 học
bổng 560 euros được cấp cho
học sinh trung học. Ở Việt
Nam, 2000 học bổng 300 euros
dành cho học sinh, sinh viên
y khoa và khoa học. Tính ra,
chỉ có 1% những sinh viên
ngoại quốc nầy tiếp tục học
ở Paris, thông thường ở
trường trung học
Louis-le-Grand để soạn thi
vào trường Bách Khoa. Họ
được ăn ngủ ở Viện Bossuet,
thuộc địa phận Paris. Ông
lập ra những hội đồng cấp
học bổng nhưng không dự vào
các buổi họp. Mỗi chiều thứ
bảy, đúng 19 giờ 45 (ông rất
tôn trọng giờ giấc như thánh
Odon), tại quán Bistrot
romain ở Paris, ông họp các
sinh viên để chuyện trò thời
sự và cũng để theo dò tiến
triển học hành. Người được
ông khuyến khích, kẻ bị tiết
chế nhiệt tình.
Ông
thường đi Bénin và qua Việt
Nam gặp học sinh, gia đình,
giáo sư, các nhà kỹ nghệ,
những bạn bè giúp ông chọn
lựa thí sinh. Ông tự tay
trao tiền cho học sinh tại
chỗ, bắt đếm kỹ càng rồi bảo
cho vào ngân hàng mà mỗi lần
lấy ra phải được người ông
chỉ định kiểm soát. Kỷ luật
rất khắt khe : không lên lớp
tức khắc mất luôn học bổng !
Muốn được học bổng hay tiếp
tục được phải học giỏi trong
lớp, thi tốt nghiệp phổ
thông - bằng Tú tài phải
đứng hàng đầu, thêm vào một
khả năng thích ứng đúng mức.
Không có gởi gắm, gian
trối : ông tự khám xét từng
văn bằng, bảng điểm, luôn
đặt câu hỏi về động cơ học
hành. Đối với những sinh
viên được qua du học Paris,
ông càng theo dõi kỹ càng
vì, theo ông, họ phải tập
sống trong một môi trường
khác hẳn nơi đất nước họ,
luôn phải thận trọng theo
dõi về mặt tâm lý. Kết quả
rất mỹ mãn vì không có một
trường hợp học sinh bỏ dở,
không nói đến những sinh
viên thi đậu vào trường Bách
Khoa. Ở Việt Nam, 100% tốt
nghiệp trung học. Ở Bénin,
kém hơn một chút : chỉ 94%.
Ngày 29
tháng chín 2008, những học
sinh và sinh viên xuất sắc
quê gốc Tây Nguyên và miền
nam Việt Nam được tỉnh Lâm
Đồng cấp 130 học bổng
Odon Vallet, tổng
cộng 430 triệu đồng. Trên
nguyên tắc, tổ chức còn vận
dụng được lâu vì tự cung cấp
tài chánh bất chấp thời
gian, bất chấp người lãnh
đạo tuy ông ý thức cái vĩnh
cửu không thuộc nhân sự,
hùng mạnh như thời đại La Mã
mà cũng còn sụp đổ ! Trong
cuộc khủng khoảng tài chánh
vừa qua, ông mất 10 triệu đô
la, khoảng 7% số tiền gởi
trong ngân hàng HSBC. Ông sợ
rồi đây, với cuộc định giá
lại đồng tiền ở Á Châu, ông
sẽ gặp khó khăn ở Việt Nam.
Ông cũng sợ một mai đây ông
hết còn có khả năng đi gặp
những học sinh, sinh viên
của ông. Tuy nhiên ông sắp
đặt để hy vọng tổ chức của
ông có thể vận dụng mười, ba
mươi năm nữa. Trong con
người bác ái, luôn ẩn núp
đằng sau một nhà khoa học,
một con người biết tổ chức.
Chi phí hiện nay chỉ tốn cho
hai người thư ký nửa ngày ở
Paris, bốn phụ tá xã hội ở
Bénin. Phần lớn những người
giúp việc đều làm công
không. Chính ngay ông theo
dõi các biến chuyển của ngân
quỹ và quyết định mọi nghiệp
vụ tài chánh. Vì vậy, mỗi
ngày ông dành nhiều thì giờ
cho tổ chức đến nỗi chỉ để
một nửa ngày cho công tác ở
đại học, hy sinh ngay cả
những môn thể thao mà ông
đam mê là trèo núi, trượt
tuyết. Ông nhận định không
thể làm như thế nếu ông phải
chịu trách nhiệm một gia
đình, vợ, con. Rồi ông đùa :
các thánh cũng không có
con !
Sống lên
trong một gia đình công giáo
mộ đạo, bà mẹ đóng góp nhiều
trong các hội đoàn nhân đạo,
lúc nhỏ hát trong ban hợp ca
nhà thờ, giải nhất lớp giáo
dưỡng tôn giáo, ông tự xác
định là một "tín đồ toàn thế
giới" trong một xã hội mà
tín ngưỡng không bị khép kín
tuy ông vẫn luôn còn sống
trong giáo lý Cơ đốc. Ông
bảo đã khởi động tổ chức
giúp sinh viên, học sinh
không phải trong mục đích
tôn giáo. Là tiến sĩ khoa
học tôn giáo, ông đã tỏ ra
biết rộng trong đủ giáo phái
và trở nên chuyên môn về
lịch sử so sánh các tôn
giáo. Nhìn quanh tựa đề
khoảng ba chục cuốn sách của
ông, độc giả nhận thấy ông
đã đề cập nhiều đến tôn giáo
: Phụ nữ và tôn giáo
(1994), Các tôn giáo trên
thế giới (1995),
Những tôn giáo ngày
nay (1998), Một tôn
giáo là gì ? (1999),
Giê su và Phật (1999),
Một lịch sử khác về tôn
giáo (2000), Tự vựng
nhỏ những ý sai về tôn giáo
(2002, 2008), Phúc Âm của
những người nghịch
đạo (2003, 2006), Tự
vựng nhỏ chiến tranh tôn
giáo hôm qua và hôm nay
(2004), Chúa không
chết…nhưng hơi bệnh
(2007), Chúa và làng toàn
cầu (2008). Nhưng không
chỉ tôn giáo. Ông còn luận
bàn đến các vấn đề văn hóa
Văn hóa tổng quát
(1988), chính trị Nhà
nước và chính trị
(1994), Trường học hay
tính hư ảo xem như một kiểu
mẫu chính phủ (1991),
luân lý Cái xấu hổ
và cái Thiêng liêng
(1998),…. Theo ông, phát
minh mới lạ bắt nguồn từ
điểm gặp nhau của nhiều kiến
thức, chẳng hạn như môn phân
tích tâm lý là một hỗn hợp
tinh tế văn học và y khoa.
Và rất dễ hiểu khi thấy Á
Đông, nơi hòa lẫn nhiều nền
văn minh, quyến rũ ông cũng
như khi ông yêu thích nước
Pháp đã thừa kế nhiều nền
văn hóa. Sách của ông cũng
kéo lại với nhau để đối
chiếu, so sánh những vùng
quê hương các tôn giáo sinh
động : Cận Đông, Ấn Độ, Viễn
Đông. Ông dành cuốn sách
cuối cùng cho công tác đang
tiến hành : Những Con trẻ
của thần diệu - Từ những
môi trường bị bạc đãi
nhất đến những chiếc ghế các
Trường Lớn (2009). Ý chí
cứu giúp học sinh nghèo là
cái kim chỉ nam dẫn đường
cho ông. Ông tuyên bố : Tôi
bảo vệ quan niệm một nhà
trường công cộng trong ấy
tiêu chuẩn độc nhất là trí
tuệ và là nơi túi tiền không
được coi trọng.

Cap-Vietnam
Bên phần các học sinh, sinh viên, toàn là những phản
ứng vui mừng đầy phấn khởi,
phần lớn không nén nỗi xúc
động khi lên lãnh học bổng.
Bùi Tuấn Linh, sinh viên
trường Đại học Ngoại thương,
Huy chương vàng Olympiades
Hóa học : Tôi rất vui
mừng được cấp học bổng. Tôi
sẽ hết sức cố gắng để có
thời cơ đi du học nước
ngoài, ở Pháp chẳng hạn.
Têch Thị Tru, 17 tuổi, học
sinh lưu trú Sơn La : Tôi
mong dành một nửa số tiền
nầy cho ba má tôi là nông
dân và nửa còn lại để ăn
học. Tôi mong ước trở thành
một giáo viên. Vi Thị
Lụa, sắc tộc Tày, Lạng Sơn,
học lớp 11 : Trong đời
tôi, chưa bao giờ tôi lãnh
được một số tiền lớn như
vậy. Tôi xin vô cùng biết ơn
giáo sư Odon Vallet. Đến
nay, hơn một ngàn học sinh
sắc tộc đã được đặc biệt ưu
đãi. Sau hơn mười năm hoạt
động, Odon Vallet đã phát
được 14.710 học bổng cho
sinh viên và học sinh Việt
Nam, trị giá khoảng 50 tỷ
đồng, mỗi học sinh lãnh được
5-6 triệu đồng, mỗi sinh
viên 8-9 triệu đồng. Số học
bổng tăng dần từ lần phát
lần đầu tiên : 800 năm
2001-2002, 1.800 năm
2002-2003, 1800 năm
2003-2004, 1600 năm
2004-2006, 1860 năm
2005-2006, 2000 năm
2006-2007, 2100 năm
2007-2008, 2500 năm
2008-2009 và 2250 năm
2008-2010. Năm nay, với sự
giúp sức của anh bạn Trần
Thanh Vân, Gíám đốc Nghiên
cứu ở Trung Tâm Quốc gia
Khảo cứu Khoa học Pháp CNRS,
qua hội Gặp gỡ Việt Nam (Rencontre
du Vietnam), ông tổ
chức lễ phát học bổng ở
nhiều thành phố trong nước,
từ TP Hồ Chí Minh (miền Nam
và đồng bằng sông Cửu Long)
ngày 20 tháng tám, qua Đà
Lạt (miền Cao Nguyên và tỉnh
Lâm Đồng), Đà Nẵng, Huế,
Đồng Hới, Vinh (miền Trung)
và sau cùng Hà Nội (miền
Bắc) hai ngày 3 và 4 tháng
chín.
Bên lề
cứu giúp học sinh, sinh
viên, ở Việt Nam, Odon
Vallet, cộng tác với anh
Trần Thanh Vân và phu nhân,
chị Lê Kim Ngọc cũng là Giám
đốc Nghiên cứu cùng trung
tâm, trong khuôn khổ hội
Giúp ích Con trẻ Việt Nam (Aide
à l’Enfance du Vietnam),
góp phần vào công tác xây
dựng và hoạt động những nhà
trẻ ở Gò Vấp, Đà Lạt, Đồng
Hới và, vừa qua, ở Huế. Tại
đây, trung tâm Thụy Xuân,
nằm cách trung tâm thành phố
3km, gồm có sáu ngôi nhà, từ
năm 1999 đã đón nhận 70 con
trẻ thua thiệt. Dưới sự
hướng dẫn của bà Giám đốc
Ngô Thị Thu Hồng, đến nay đã
có nhiều cháu thành công đậu
vào đại học : Hoàng Thị Anh
Đào khoa Đông phương học Đại
học Khoa học Huế, Phạm Hữu
Nghĩa và Ngô Sinh Quyên
trường Đại học Nông nghiệp
và Lâm nghiệp TP Hồ Chí
Minh,…Năm 2006, tờ báo Tư
bản (Capital) vinh danh
ông là người Pháp hào hiệp
nhất và xứng được tặng "huân
chương vị tha". Năm 2008,
ông nhận giải BNP Paribas về
Từ thiện Cá thể thưởng công
trạng tổ chức của ông. Ông
biết là
Fondation Vallet
không giải quyết được vấn đề
các nước thế giới thứ ba,
nhưng ông có thể tin đã đưa
ra một kiểu mẫu phát triển,
một phương cách giúp ích,
làm việc. Ông bảo đã thấy
một biểu ngữ mà ông không
bao giờ quên đăng trên đường
tới sân trượt tuyết
Vasalopette ở Thụy Điển :
"Theo dấu chân cha cho một
tương lai tươi đẹp hơn". Và,
dù không cố ý, biến hóa một
gia tài triệu phú ra thành
công đức giúp đỡ trẻ nghèo
ham học là một cử chỉ sẽ
được truyền đạt đời đời.
Võ Quang Yến
Xô thành mùa khai giảng
2011